SKKN Một số biện pháp chỉ đạo công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường Tiểu học Tĩnh Hải

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường Tiểu học Tĩnh Hải

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Đảng ta đã đưa quan điểm chỉ đạo số1là: “Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.

Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Trong đó đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, mang tính đột phá của các nhà trường, các giáo viên.

Chính điều đó mà mô hình trường học mới (VNEN) đã được dạy thí nghiệm ở một số trường tại Việt Nam trong đó có trường Tiểu học Tĩnh Hải chúng tôi đến nay đã được 4 năm. Mô hình VNEN là mô hình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người đóng vai trò tổ chức hoạt động, hướng dẫn các em hoạt động để thu nhận kiến thức. Giáo viên không trực tiếp cung cấp kiến thức có sẵn trong sách. Học sinh tự thảo luận theo nhóm, phân công nhiệm vụ cho nhau và khi gặp vấn đề khó không giải quyết được mới yêu cầu sự trợ giúp của giáo viên bằng thẻ cứu trợ.

 

doc 24 trang thuychi01 4731
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường Tiểu học Tĩnh Hải", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 
 - Lí do chọn đề tài
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Đảng ta đã đưa quan điểm chỉ đạo số1là: “Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. 
Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Trong đó đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, mang tính đột phá của các nhà trường, các giáo viên.
Chính điều đó mà mô hình trường học mới (VNEN) đã được dạy thí nghiệm ở một số trường tại Việt Nam trong đó có trường Tiểu học Tĩnh Hải chúng tôi đến nay đã được 4 năm. Mô hình VNEN là mô hình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người đóng vai trò tổ chức hoạt động, hướng dẫn các em hoạt động để thu nhận kiến thức. Giáo viên không trực tiếp cung cấp kiến thức có sẵn trong sách. Học sinh tự thảo luận theo nhóm, phân công nhiệm vụ cho nhau và khi gặp vấn đề khó không giải quyết được mới yêu cầu sự trợ giúp của giáo viên bằng thẻ cứu trợ. 
Mô hình trường học mới(VNEN) này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, tài liệu học tập, phương pháp dạy học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy học 
 Dạy học theo Mô hình trường học mới (VNEN) là cách tổ chức lớp học theo nhóm, mỗi nhóm có 4 - 6 học sinh. Lớp học sẽ có Hội đồng tự quản và các ban, phụ trách từng nhiệm vụ riêng. Mỗi nhóm sẽ có một nhóm trưởng phụ trách triển khai các hoạt động khi được giáo viên yêu cầu. Nhóm trưởng sẽ giúp giáo viên theo giám sát các bạn trong nhóm, phân công nhiệm vụ cho từng bạn ở trong từng tiết học, hướng dẫn hỗ trợ cho các bạn trong học tập. Với mô hình này, học sinh sẽ có nhiều cơ hội thể hiện mình, chủ động hơn trong mọi hoạt động học tập cũng như sinh hoạt, trên tinh thần hợp tác cùng nhau. Học sinh hình thành thói quen làm việc theo 10 bước học tập của mô hình, biết cách tự quản lớp học, rèn luyện cho các em thói quen tự học, tự khám phá và lĩnh hội kiến thức. Ngoài ra, học sinh được tiếp thu với nhiều ý kiến trong nhóm, được tranh luận, giải đáp, bày tỏ những suy nghĩ của mình với các thành viên; phát triển cho các em kĩ năng tự tin trong giao tiếp, mạnh dạn đề xuất ý kiến và làm chủ được các hoạt động ngoại khóa của lớp, của nhóm Trong kiểm tra đánh giá, coi trọng cả đánh giá trong quá trình dạy học với đánh giá kết quả thực hiện học tập của học sinh theo tinh thần vì sự tiến bộ của học trò. Chính việc kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học đó giúp giáo viên phát hiện những nhân tố tích cực, những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, tạo hứng thú học tập, đồng thời phát hiện những khó khăn mà học sinh có thể không vượt qua được để hướng dẫn các em khắc phục. Mà theo cách dạy hiện hành thì phương pháp giảng dạy và giáo dục ở các trường Tiểu học của nước ta đã quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên còn mang tính hình thức, đôi khi còn áp đặt, gò bó, chưa quan tâm lắng nghe tâm tư nguyện vọng của học sinh. Việc đánh giá, sửa sai cho học sinh còn có biểu hiện khắt khe, thiếu dân chủ, chủ yếu là giáo viên nhận xét, đánh giá. Bởi vậy học sinh còn có những khiếm khuyết về nhân cách như: rụt rè, thụ động, thiếu tự tin vào bản thân, không dám đề đạt ý kiến, không mạnh dạn thể hiện khả năng,... Quản lý hoạt động dạy học được xem là hoạt động trọng tâm trong quản lý trường học, vì dạy và học thực hiện theo chương trình, kế hoạch đã được xác định và diễn ra trong suốt năm học. Để thực hiện tốt được điều đó người quản lí phải có kế hoạch và việc lập kế hoạch cụ thể trong triển khai thực hiện nhiệm vụ năm học của cán bộ quản lí là một yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu giáo dục đào tạo và quản lý giáo dục. Nhằm nâng cao chất lượng dạy học và đổi mới phương pháp quản lý giáo dục của Trường tiểu học Tĩnh Hải được nằm trong dự án của chương trình "Dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)". Điều đó cho thấy, cơ hội cho trường cũng cao nhưng thách thức cũng không phải là nhỏ. Từ những băn khoăn trăn trở như vậy, là một Phó hiệu trưởng được phân công phụ trách công tác chuyên môn của trường, tôi đã mạnh dạn tìm tòi, nghiên cứu và thể nghiệm đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường Tiểu học Tĩnh Hải”, tôi xin được trình bày một số kinh nghiệm quản lý của bản thân để mong được các đồng chí cán bộ quản lý, các đồng chí cán bộ giáo viên, các bạn đồng nghiệp chia sẻ và góp ý, giúp cho tôi thực hiện công tác chỉ đạo chuyên môn ngày càng hiệu quả hơn.
- Mục đích nghiên cứu 
Đề xuất những biện pháp của phó Hiệu trưởng về chỉ đạo công tác dạy- học mô hình trường học mới(VNEN) ở trường tiểu học. Mục đích là làm thay đổi cách làm, cách nghĩ của giáo viên, thay đổi cách học của học sinh, thay đổi cách nhìn nhận của cha mẹ học sinh. Phải thực sự đổi mới để người học thật sự là học, thật sự tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức một cách chủ động. 
- Đối tượng nghiên cứu
 Nghiên cứu, trình bày nội dung và tổng kết giải pháp chỉ đạo dạy và học theo mô hình trường học mới (VNEN) tại trường Tiểu học Tĩnh Hải, gồm các nội dung cơ bản sau: Nâng cao nhận thức, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ giáo viên của nhà trường để họ thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của mô hình trường học mới(VNEN). Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo. Chỉ đạo giáo viên dạy học đúng đặc trưng mô hình VNEN và dạy học theo hướng phân hoá các đối tượng học sinh, bám sát đối tượng, phù hợp và phát huy được tính tích cực của nhiều đối tượng học sinh trong cùng một lớp học. Khuyến khích giáo viên tăng cường làm đồ dùng dạy học và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm, khai thác các loại đồ dùng có sẵn ở địa phương, đồ dùng dạy học được cấp phát một cách hợp lý. Tăng cường công tác dự giờ đồng nghiệp trong trường và các trường bạn.Tăng cường tổ chức giao lưu về chuyên môn giữa các nhà trường, các cụm trường. Tăng cường sự phối hợp với chính quyền địa phương, phụ huynh học sinh trong việc xã hội hóa giáo dục trong nhà trường. 
- Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp điều tra, khảo sát.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Từ trước đến nay, ai ai cũng nghĩ đi học là đến trường được thầy cô truyền thụ kiến thức mà thầy cô đã chuẩn bị sẵn. học sinh chỉ có việc lắng nghe, quan sát, ghi chép lại, thực hành theo khuôn mẫu mà thầy cô đã đưa ra. Để đổi mới cái nếp giáo dục vẫn tiến hành như một thói quen, thì điều trước tiên là phải có ý thức rõ ràng học là gì? Học là làm những việc gì? Học để đạt tới những sản phẩm gì? Khi đó, nhà sư phạm sẽ xác định được nhiệm vụ giáo dục là tổ chức sự phát triển tâm lý trẻ em của cả dân tộc, đưa các em đến trình độ cao nhất có thể đạt tới, thực nghiệm giáo dục là tìm tòi cách thức đúng nhất thực thi nhiệm vụ đổi mới giáo dục.
Để đi đến mục tiêu đó, điều trước tiên là phải biết chắc trẻ em là gì? Trước khi có mô hình giáo dục mới ( VNEN), nhà giáo làm mọi điều mà chẳng cần biết trẻ em là gì? Trẻ em cần gì khi đến trường? Muốn thay đổi cách làm, vấn đề đầu tiên là phải xem trẻ em là gì? Thừa hưởng cách làm việc lối phân tích của thời đại công nghiệp hoá. Thực nghiệm giáo dục theo mô hình mới (VNEN) ở Việt Nam là tìm ra lối thoát cũ để tìm đến cái mới nhằm cải tiến nền giáo dục Việt Nam. Làm sao cho nền giáo dục nước nhà dần dần đuổi kịp với nền giáo dục các nước trong khu vực và thế giới. Thực nghiệm giáo dục theo mô hình trường học mới (VNEN) là hướng cho người học tự nghiên cứu, thực hành để chiếm lĩnh tri thức.
Giáo dục theo mô hình mới (VNEN), là đưa giáo viên thoát khỏi cách làm cũ. Nhưng bằng cách nào? Bằng cách tìm ra hệ thống làm việc cho học sinh hoạt động và để các em tự làm ra sản phẩm giáo dục, là cái được kết đọng lại trong đầu óc mỗi em. Để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường nói chung và trong trường Tiểu học nói riêng, nhà trường phải có những kế hoạch, biện pháp tổ chức quản lý tốt nhất là kế hoạch quản lý việc dạy và học. 
Với xu hướng “Dạy thật - học thật - chất lượng thật”, “Dạy theo hướng phân hóa đối tượng”, trong nhà trường hiện nay thì việc giảng dạy theo hướng chuyên sâu là vấn đề cần được khuyến khích và thực hiện tốt.
Việc dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh, đồng thời giúp cho người giáo viên nhẹ nhàng hơn trong khâu soạn giảng, có nhiều thời gian đầu tư nghiên cứu bài dạy. Thầy phải bắt đầu bằng những việc làm là tổ chức giờ học sao cho hiệu quả.
	2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 Việc tổ chức dạy học theo mô hình trường học (VNEN) mới đã đi vào nề nếp. Ban chỉ đạo cấp trường đã bám sát các văn bản hướng dẫn của Bộ, Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo để tổ chức thực hiện có hiệu quả. Giáo viên đã biết tổ chức theo “10 bước học tập” để phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, tự tìm tòi, khám phá kiến thức của học sinh. Đã xây dựng được các hội đồng tự quản làm việc khá tích cực. Biết huy động sự tham gia của cha mẹ học sinh, của cộng đồng để trang trí lớp học và xây dựng các công cụ hỗ trợ lớp học. Học sinh đã quen dần với cách học mới, các em đã biết tự đọc tài liệu, tự tìm tòi, nghiên cứu và hợp tác, chia sẻ với các bạn trong nhóm để chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh ngày càng mạnh dạn, tự tin và phát triển tốt các kỹ năng sống. Cha mẹ học sinh và chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể đã tích cực hỗ trợ nhà trường. 
a. Thuận lợi – khó khăn
* Thuận lợi:
Môi trường giáo dục nhà trường đảm bảo, dân chủ, thân thiện, đổi mới các hoạt động giáo dục, đủ các điều kiện cho việc triển khai chủ trương thực hiện việc làm đổi mới của nhà trường.
	Cán bộ quản lý của nhà trường là 3 người đều có trình độ Đại học, đã qua các lớp bồi dưỡng quản lý, Chính trị, Tin học đáp ứng được yêu cầu đổi mới trong công tác chỉ đạo các hoạt động giáo dục của nhà trường.
Đội ngũ cán bộ giáo viên có trình độ, có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống chuẩn mực, có trách nhiệm với công việc, số cán bộ giáo viên trẻ chiếm 80%. Trình độ chuyên môn đạt chuẩn 100%, trên chuẩn 18/20 đồng chí chiếm tỷ lệ 90%. Số giáo viên đạt giáo viên giỏi, giỏi cấp tỉnh: 2 giáo viên; CSTĐ cấp huyện: 8 giáo viên. Đa số giáo viên biết sử dụng thành thạo công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy học. 
Trường nằm ngay ở trung tâm của xã nên thuận lợi cho việc đi lại của học sinh.
Cơ sở vật chất nhà trường rộng rãi với một khuôn viên 1684 m2 với đầy đủ các khối công trình cụ thể: 
+ Đảm bảo 1 phòng/1 lớp và học sinh học 2 buổi/ngày.
+ Phòng học đầy đủ hệ thống bàn ghế, điện, quạt, bảng chống lóa đảm bảo đúng tiêu chuẩn vệ sinh y tế học đường; 
+ Các phòng làm việc đầy đủ đảm bảo phương tiện cho ban giám hiệu và nhân viên làm việc.
+ Các phòng chức năng gồm: phòng nghệ thuật, phòng y tế, phòng truyền thống, phòng Đội, phòng thư viện - thiết bị.
+ Thư viện nhà trường đạt thư viện chuẩn có đầy đủ các đầu sách giáo khoa, sách tham khảo, báo, tạp chí...phục vụ cho việc đọc nghiên cứu của cán bộ giáo viên và học sinh nhà trường.
+ Có công trình vệ sinh của giáo viên và học sinh riêng, đảm bảo vệ sinh và nước sạch; có nhà để xe riêng của giáo viên và học sinh.
 Trường đã thành lập được được chi ủy chi bộ, phần đa là đảng viên trẻ, gương mẫu, nhiệt huyết, đi đầu trong mọi phong trào, nhiều năm liền đạt chi bộ Trong sạch vững mạnh. Công đoàn đã thật sự là trung tâm đoàn kết, nhiều năm liền không có đơn thư khiếu nại, tố cáo.
* Khó khăn:
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện không thể không gặp những khó khăn cần vượt qua như sau:
 Về giáo viên: Một số giáo viên chưa thật sự đổi mới về phương pháp dạy học theo mô hình mà đơn vị đã được chọn. Vẫn còn đâu đó đan xen cách dạy truyền thống. Một vài giáo viên vẫn còn bỡ ngỡ với mô hình dạy học mới, vì ở trường sư phạm giáo viên chưa được tiếp cận với mô hình dạy học này.
Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn chưa thật sự nhịp nhàng trong cách tổ chức lớp học.
Về học sinh: Chưa thật sự chủ động trong quá trình tự nghiên cứu tài liệu, phó thác trách nhiệm cho một số thành viên. 
Phụ huynh học sinh còn nhiều lo lắng, họ chưa tin tưởng về mô hình dạy học này. Bởi lẽ giáo viên chưa thoát khỏi nếp nghĩ về phương pháp dạy học truyền thống.
Một số phòng học diện tích chưa đủ chuẩn nên việc sắp xếp bàn ghế theo nhóm còn chật chội, khó bố trí.
Để giải quyết những vấn đề được đặt ra như trên, người quản lý phải có kế hoạch và những giải pháp cụ thể trong công tác quản lý nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ năm học cũng như trong nhiệm vụ quản lý việc dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN).
b. Thành công – hạn chế
* Thành công:
 Việc tổ chức dạy học theo mô hình VNEN đang trong quá trình thí điểm nên công tác chỉ đạo cũng mang tính chất vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm. Trong sáng kiến này, tôi xin đề cập đến những biện pháp để tổ chức dạy học mà ở đó vai trò của người giáo viên được thay đổi thực sự: họ không còn là người truyền thụ, giảng giải thậm chí là làm thay mà chuyển sang vai trò là người tổ chức, người hướng dẫn, trợ giúp cho HS. Hoạt động dạy học được thay đổi cơ bản so với dạy học truyền thống, thể hiện ở hình thức tổ chức lớp học thành từng nhóm. Học sinh chủ yếu là tự nghiên cứu, hợp tác với bạn và cùng với sự hỗ trợ của giáo viên để tìm hiểu kiến thức. Học sinh được phát huy tốt hơn các kỹ năng sống, các nhóm năng lực và phẩm chất. Lớp học cũng được trang trí rất tốt vừa thể hiện tính thẩm mỹ, tính thân thiện, vừa là công cụ để hỗ trợ cho công tác dạy học như góc học tập, nhịp cầu bè bạn, hộp thư Điều em muốn nói, sơ đồ khu dân cư mà học sinh đang ở, Góc sinh nhật, bảng điểm danh Ngày em đến trường Tất cả những công cụ đó đã làm toát lên một phòng học theo mô hình dạy học VNEN.
 * Hạn chế
 Tuy nhiên trong quá trình chỉ đạo thực hiện tôi thấy vẫn còn những hạn chế như sau:
 Công tác tập huấn, bồi dưỡng cho giáo viên còn bất cập do trong năm học có sự điều động, luân chuyển giáo viên. Việc tập huấn thường tổ chức tập trung vào đầu năm học, nhưng có những giáo viên được điều động về sau nên đòi hỏi Ban lãnh đạo nhà trường và tổ chuyên môn phải mất nhiều thời gian để tập huấn và bồi dưỡng.
 Một số giáo viên đã quen với phương pháp dạy học truyền thống nên trong quá trình tổ chức hoạt động học cho học sinh (HS) còn truyền thụ và giảng giải nhiều. Việc hướng dẫn học sinh làm và sử dụng các công cụ học tập trong lớp đôi khi còn hình thức. Một số giáo viên tổ chức lớp học còn rập khuôn. Một số học sinh kỹ năng giao tiếp hạn chế, rụt rè.
 Một số trưởng nhóm kỹ năng điều hành, chỉ đạo nhóm chưa tốt.
 Cha mẹ học sinh phần lớn là nông dân nên quan tâm đến việc học hành của con em còn hạn chế. Tất cả việc học tập của con em giao phó cho nhà trường là chính.
c. Mặt mạnh – mặt yếu
 * Mặt mạnh:
Nhà trường thực hiện dạy học mô hình trường học mới dưới sự chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Tĩnh Gia. Có các văn bản pháp lý chỉ đạo của ngành xuyên suốt từ Bộ Giáo dục và đào tạo đến Sở Giáo dục và Đào tạo và Phòng Giáo dục và Đào tạo. 
Được tham dự tập huấn nhiều lần từ sở Giáo dục, phòng Giáo dục và cụm chuyên môn. Được sự tư vấn thường xuyên các cộng tác viên của dự án.
Kinh phí đầu tư của dự án đầy đủ, kịp thời, đảm bảo cho việc trang trí, mua sắm cơ sở vật chất và hoạt động chuyên môn. Ngoài ra dự án còn đầu tư thêm cơ sở vật chất như máy pho to, đèn chiếu, màn hình, ti vi, máy quay phim
Được sự hưởng ứng nhiệt tình của cha mẹ học sinh, tập thể hội đồng sư phạm và học sinh.
* Mặt yếu:
Một số giáo viên của nhà trường kinh nghiệm chuyên môn còn hạn chế; chưa thật sự đổi mới phương pháp dạy học mới.
Yêu cầu của chương trình mô hình trường học mới là học sinh khi học lên lớp hai phải biết đọc và viết thành thạo, thì mới tự học được, nhưng thực tế tỉ lệ học sinh yếu Tiếng Việt lại khá phổ biến ở địa phương, chưa kể là học sinh học hòa nhập.
Học sinh vùng nông thôn giao tiếp còn nhiều hạn chế.
Chuyển đổi từ phương pháp truyền thống qua phương pháp học tích cực một cách đột ngột, nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh tâm lý hoang mang sợ học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh trung bình, yếu.
Sách dự án chỉ đủ cho mỗi em 1 bộ, lại chỉ được học trên lớp không được mang về nhà nên học sinh không có thời gian xem bài trước, không phát huy được tính cộng đồng như ý đồ của dự án.
Mô hình học nhóm suốt trong buổi học, tạo cho một bộ phận học sinh ỷ lại vào người khác, chưa thật tự học, tự nghiên cứu tài liệu. 
 Vì đây là chương trình thử nghiệm nên tài liệu vẫn còn một số chỗ chưa hợp lý. Giáo viên phải nghiên cứu để thay đổi logô cho phù hợp với đối tượng học sinh.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
* Nguyên nhân của thành công:
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Tĩnh Gia. Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng ủy và chính quyền địa phương xã Tĩnh Hải. Sự nhiệt tình hưởng ứng của phụ huynh học sinh. Sự nỗ lực phấn đấu của tập thể hội đồng sự phạm và tập thể học sinh trường tiểu học Tĩnh Hải.
Các cấp lãnh đạo quan tâm xây dựng cơ sở vật chất nhà trường đạt chuẩn, đảm bảo cho việc thực mô hình trường học mới (VNEN). 
Quán triệt các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của ngành về việc chủ trương tăng cường giảng dạy, đào tạo Mô hình trường học mới (VNEN) trong Ngành Giáo dục – Đào tạo trong nhà trường.
Hiệu trưởng thông báo nội dung, chỉ tiêu và biện pháp thực hiện việc để cán bộ giáo viên và cha mẹ học sinh biết để cùng phối hợp thực hiện.
Xây dựng kế hoạch thực hiện với các kỹ năng: Phân tích tình hình thực tiễn ảnh hưởng đến việc làm cùng với chọn lựa cơ sở ký luận để giải quyết, tìm các biện pháp hữu hiệu triển khai thực hiện theo mô hình mới (VNEN) đạt hiệu quả cao nhất. 
Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả việc giảng dạy và học tập của cán bộ giáo viên và học sinh. Quản lý đầy đủ cơ sở vật chất thiết bị, phòng học của nhà trường.
Tổ chức thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm, từ đó có biện pháp hỗ trợ để mọi cán bộ giáo viên đều nắm bắt được việc triển khai thực hiện theo mô hình mới (VNEN).
Tăng cường bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính, tự giác, chủ động tham gia tìm hiểu thông tin trên mạng để đưa vào bài giảng.
Thường xuyên tự đánh giá, rút kinh nghiệm, tìm kiếm thông tin kiến thức, tự học, tự bồi dưỡng, bổ sung kịp thời những điểm còn yếu trong quá trình thực hiện việc triển khai theo mô hình mới (VNEN) làm đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy.
* Nguyên nhân hạn chế
Đối với giáo viên: Họ lo sợ học sinh không đáp ứng nổi với cách học mới nên đôi lúc còn làm thay hoặc giảng giải nhiều làm cho học sinh kém tư duy, giáo viên lẫn lộn giữa cái cũ và mới của phương pháp. Giáo án không phải soạn nên một số giáo viên chưa thật sự nghiên cứu trước bài khi lên lớp, ít trau dồi kỹ năng diễn thuyết vì hạn chế giảng bài.
Đối với học sinh: Một số học sinh thiếu tính chủ động trong nghiên cứu, để bạn làm thay việc cho mình hoặc nhờ người khác hỗ trợ.
Phương pháp đánh giá học sinh rất nhẹ nhàng, thỏa mái, động viên là chính, nên một số học sinh còn chủ quan, thiếu tính phấn đấu.
Đối với phụ huynh còn quan niệm “Một trăm quyển sách hay không bằng một ông thầy giỏi”. Yêu cầu thầy cô phải giảng bài thì con mình mới hiểu.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Nhà trường đã chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng giáo viê

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_cong_tac_day_va_hoc_mo_hinh_tr.doc