SKKN Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực làm bài cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5

SKKN Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực làm bài cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5

Không thể phủ nhận rằng: “Văn học là nhân học”, “Dạy văn là dạy cách làm người”, trong chư¬ơng trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học thông qua việc dạy học các tác phẩm văn học của các tác giả tiêu biểu nước ngoài và Việt Nam đã góp phần bồi dưỡng tâm hồn, xây dựng nhân cách và năng lực cảm thụ cho học sinh. Tuy nhiên, ngôn ngữ văn học hết sức cô đọng và giàu hình tượng. Để hiểu sâu sắc những vấn đề được tác giả tâm huyết thể hiện qua ngôn ngữ văn học nhiều khi không phải dễ, ngay cả đối với nhiều người lớn chúng ta nói gì đến các em học sinh Tiểu học khi mà vốn sống, vốn ngôn ngữ của các em tích luỹ chưa được nhiều.

Trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, đọc hiểu văn bản văn chương hay còn gọi là cảm thụ văn học được xem là khó và khá thú vị. Đây là một năng lực bắt buộc cần phải có ở những học sinh có năng khiếu môn Tiếng Việt. Bởi vì, cùng với Luyện từ và câu và phần Tập làm văn, Cảm thụ văn học là một trong ba nội dung tạo nên một đề giao lưu cho học sinh có năng khiếu môn Tiếng Việt. Để có được kết quả bồi dưỡng nhằm nâng cao cả về số lượng và chất lượng cho học sinh có năng khiếu môn Tiếng Việt nhằm góp phần xây dựng một Trường tiểu học chất lượng cao trong xu thế hội nhập hiện nay thì việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho các em là rất cấp thiết. Nhưng để các em hiểu và cảm nhận vấn đề phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của các em nhất là đối với học sinh vùng cao - vùng dân tộc thiểu số. Là một giáo viên được nhà trường phân công đảm nhận bồi dưỡng học sinh có năng lực hoàn thành tốt môn Tiếng Việt khối 5, tôi rất tâm huyết với vấn đề này và luôn băn khoăn, trăn trở làm sao để nâng cao chất lượng và hiệu quả cảm thụ văn học cho học sinh của mình. Sáng kiến: “Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực làm bài cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5” là kết quả của những trải nghiệm trong quá trình dạy học của bản thân tôi. Rất mong đ-ược sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp!

 

doc 22 trang thuychi01 62536
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực làm bài cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài	
Không thể phủ nhận rằng: “Văn học là nhân học”, “Dạy văn là dạy cách làm người”, trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học thông qua việc dạy học các tác phẩm văn học của các tác giả tiêu biểu nước ngoài và Việt Nam đã góp phần bồi dưỡng tâm hồn, xây dựng nhân cách và năng lực cảm thụ cho học sinh. Tuy nhiên, ngôn ngữ văn học hết sức cô đọng và giàu hình tượng. Để hiểu sâu sắc những vấn đề được tác giả tâm huyết thể hiện qua ngôn ngữ văn học nhiều khi không phải dễ, ngay cả đối với nhiều người lớn chúng ta nói gì đến các em học sinh Tiểu học khi mà vốn sống, vốn ngôn ngữ của các em tích luỹ chưa được nhiều.
Trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, đọc hiểu văn bản văn chương hay còn gọi là cảm thụ văn học được xem là khó và khá thú vị. Đây là một năng lực bắt buộc cần phải có ở những học sinh có năng khiếu môn Tiếng Việt. Bởi vì, cùng với Luyện từ và câu và phần Tập làm văn, Cảm thụ văn học là một trong ba nội dung tạo nên một đề giao lưu cho học sinh có năng khiếu môn Tiếng Việt. Để có được kết quả bồi dưỡng nhằm nâng cao cả về số lượng và chất lượng cho học sinh có năng khiếu môn Tiếng Việt nhằm góp phần xây dựng một Trường tiểu học chất lượng cao trong xu thế hội nhập hiện nay thì việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho các em là rất cấp thiết. Nhưng để các em hiểu và cảm nhận vấn đề phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của các em nhất là đối với học sinh vùng cao - vùng dân tộc thiểu số. Là một giáo viên được nhà trường phân công đảm nhận bồi dưỡng học sinh có năng lực hoàn thành tốt môn Tiếng Việt khối 5, tôi rất tâm huyết với vấn đề này và luôn băn khoăn, trăn trở làm sao để nâng cao chất lượng và hiệu quả cảm thụ văn học cho học sinh của mình. Sáng kiến: “Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực làm bài cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5” là kết quả của những trải nghiệm trong quá trình dạy học của bản thân tôi. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp!
 	1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4 - 5 nói chung và học sinh có năng lực hoàn thành tốt môn Tiếng Việt lớp 4 - 5 nói riêng đã thôi thúc tôi tìm hiểu vấn đề để tìm cách giúp các em có được khả năng cảm thụ văn học một cách tốt hơn khi học về cảm thụ văn học trong quá trình bồi dưỡng năng lực môn Tiếng Việt.
 	1.3. Đối tượng nghiên cứu
 Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học của học sinh lớp 5, trường Tiểu học Tam Văn, Lang Chánh
 	 1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Ở đây phương pháp điều tra không chỉ dừng lại ở điều tra thực trạng mà phải điều tra từng giai đoạn trong suốt thời gian thực hiện sáng kiến. Ở mỗi giai đoạn tôi đều lấy kết quả đã đạt được để đối chứng với kết quả giai đoạn trước, với kết quả năm trước và cuối cùng đi tổng hợp số liệu và rút ra bài học kinh nghiệm.
- PP thống kê, xử lý số liệu. Sử dụng trong quá trình thống kê số liệu, so sánh kết quả trong từng giai đoạn khảo sát để phân tích, đối chứng kết quả.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. Ngay sau khi nhận lớp bồi dưỡng, nhận thấy khả năng tiếp thu và làm bài của các em còn nhiều hạn chế, tôi đã tiến hành nghiên cứu và xây các cơ sở để tiến hành thực nghiệm vấn đề.
II. NỘI DUNG
 	2.1. Cơ sở lí luận 	 	
Học sinh Tiểu học thường học các phân môn của môn tiếng Việt đặc biệt là phần rèn luyện cảm thụ văn học cuối mỗi giờ. Trong khi khả năng của các em là chưa cùng một lúc chú ý đến được nhiều đối tượng và sự phát hiện cũng chưa cao nên việc duy trì sự tập trung chú ý 35 phút trong mỗi giờ học chưa cao. Do đó, để bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học, ươm mầm năng khiếu văn chương cũng như việc giúp các em cảm nhận được giá trị nghệ thuật, giá trị giáo dục trong mỗi bài văn, bài thơ, câu chuyện, giáo viên nên phối hợp linh hoạt các biện pháp, các con đường tiếp cận khác nhau. Hơn nữa các em chỉ có thể lĩnh hội được những giá trị trên khi các em đã được luyện đọc cũng như tìm hiểu kĩ và nắm được nội dung tác phẩm.
 Tư duy của trẻ em bậc tiểu học chuyển dần từ trực quan cụ thể sang tư duy trừu tượng, khái quát nhờ vào khả năng ngôn ngữ. Đó là giai đoạn lớp 4, lớp 5 khi hình thành khái niệm. Học sinh dựa vào những dấu hiệu phản ánh mối liên hệ và quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng, các em đã biết xếp lại, phân tích, tổng hợp chúng. Từ đặc điểm này, chúng ta có thể xác lập được một hệ thống bài tập bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho các em. 
 Hiểu một cách đơn giản, cảm thụ văn học ở Tiểu học chính là tiếp nhận, hiểu và cảm nhận được văn chương, các hình ảnh văn chương, đặc điểm của ngôn ngữ văn chương. Hay nói cách khác, đó là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (cuốn truyện, bài văn, bài thơ...) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ...) thậm chí một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ.
Chủ đề tác phẩm thể hiện nội dung tác phẩm. Nắm vững chủ đề tác phẩm là cơ sở để hiểu tác phẩm. Điều này là cần thiết và vô cùng quan trọng trong việc hướng dẫn làm văn cảm thụ cho học sinh Tiểu học. 	
Tư tưởng, ý nghĩa của các tác phẩm văn học được thể hiện qua nội dung của tác phẩm. Trong tác phẩm của mình, các tác giả thường sử dụng các biện pháp nghệ thuật để thể hiện nội dung ấy. Các đề bài làm văn cảm thụ thường đưa ra các đoạn văn, đoạn thơ, tình tiết truyện để yêu cầu học sinh nêu nội dung hoặc phát hiện các yếu tố nghệ thuật được sử dụng trong các đoạn trích đó. Việc nắm vững và tìm ra các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ, đoạn văn, bài văn, bài thơ sẽ là một chìa khoá quan trọng để các em làm tốt bài văn cảm thụ.
2.2. Thực trạng
 * Về phía giáo viên: Các tác phẩm văn học được chọn dạy ở Tiểu học là các tác phẩm ngắn, đoạn văn, đoạn thơ và chủ yếu được tiến hành qua tiết Tập đọc với thời lượng không nhiều (chỉ từ 35 - 40 phút). Đây là một hạn chế không nhỏ tới việc giáo viên bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, giáo viên không đủ thời gian giúp học sinh lĩnh hội, tiếp thu đầy đủ ý nghĩa, giá trị sâu sắc của các tác phẩm văn học. 
Bên cạnh đó số lượng và chất lượng học sinh có năng lực học tốt môn Tiếng Việt trong nhà trường còn thấp dẫn đến giáo viên chưa chú trọng vào việc dạy cho học sinh cảm thụ văn học. Dẫn đến một số hạn chế sau:
- Giáo viên chưa hệ thống được các chủ điểm trong phân môn tập đọc ở các lớp 4, 5.
	- Chưa cung cấp cho học sinh được các biện pháp tu từ thường gặp trong các bài đọc.
	- Chưa nắm bắt đầy đủ các dạng bài tập cảm thụ ở tiểu học để cung cấp cho học sinh.
	- Không dạy cho học sinh các bước và các cách cảm thụ một đoạn văn, đoạn thơ mà chỉ dạy theo cảm hứng và suy nghĩ của học sinh.
	- Giáo viên chưa chú trọng vào việc dẫn dắt học sinh tìm hiểu nội dung mà để học sinh đọc rồi hướng dẫn một cách chung chung. 
	* Về phía học sinh: Phần đa học sinh còn ngại học Tiếng Việt nói chung và nhất là cảm thụ văn học nói riêng vì phải viết nhiều, suy nghĩ phải tập trung cao mà không phải học sinh nào cũng có khả năng và đầy đủ kiến thức để cảm thụ được văn học. Đặc biệt, đối với học sinh là học sinh dân tộc thiểu số vốn sống, vốn ngôn ngữ của các em còn nghèo nàn, khả năng học Tiếng Việt còn nhiều hạn chế. Vì vậy dẫn đến khả năng làm bài cảm thụ của các em còn gặp nhiều khó khăn. 
	Bên cạnh đó, vì chưa được tìm hiểu nên các em không nhận ra được các biện pháp nghệ thuật tu từ trong đoạn văn, đoạn thơ cũng như cách thức làm bài dẫn đến chỉ đọc và hiểu gì viết đó nên nội dung còn sơ sài, trình tự chưa hợp lý, bố cục chưa chặt chẽ.
	* Về phía phụ huynh: Là vùng dân tộc thiểu số, trình độ dân trí chưa cao nên việc giúp đỡ con em trong quá trình học tập còn nhiều hạn chế. Với cảm thụ văn học phụ huynh không thể giúp học sinh được mà chỉ là do giáo viên và khả năng của các em.
 	Qua thực tiễn dạy học, tôi nhận thấy: Việc dạy - học của giáo viên và học sinh chủ yếu được tiến hành qua tiết Tập đọc thông qua việc tìm hiểu tác phẩm với các câu hỏi trong sách giáo khoa bằng lối hỏi đáp. Đồng thời với những học sinh có năng khiếu học tập môn Tiếng Việt đòi hỏi các em phải hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm nhưng trong khi dạy cảm thụ cho học sinh thì phần lớn là giáo viên hướng dẫn chung chung và các em tự hiểu gì viết nấy. Điều này dẫn đến chất lượng, hiệu quả dạy học không cao; không mở rộng được phạm vi tiếp cận các tác phẩm văn học qua các bài tập đọc hay các tác phẩm ngoài nhà trường trong khi học sinh rất có nhu cầu và thực tế các em đã tiếp cận với nhiều tác phẩm khác. 
 	Từ thực trạng dạy học như trên, tôi nhận thấy: Khả năng hiểu tác phẩm, tích luỹ vốn ngôn ngữ văn học và vận dụng chúng trong quá trình học tập và giao tiếp của học sinh không cao. Dẫn đến kết quả làm bài cảm thụ của các em chưa được tốt.
 	Để nắm vững tình hình học tập của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, triển khai sáng kiến, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh lớp bồi dưỡng học sinh môn Tiếng Việt do tôi phụ trách năm học 2017 - 2018 sau một tuần học, kết quả thu được như sau (các em được chọn là những em vào diện học tốt nhất của các lớp):
Tổng số
HTT
HT
CHT
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
15 HS
3
20
13
80
0
0
 	Từ kết quả thu được, để nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, tôi đã mạnh dạn tìm hiểu nội dung cảm thụ văn học ở Tiểu học và vận dụng vào quá trình dạy học của mình.
2.3. Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1. Hệ thống các chủ đề được dạy trong môn Tiếng Việt ở lớp 4, 5.
 	Để làm được bài văn cảm thụ, người viết phải nắm vững nội dung, tư tưởng của tác phẩm hay nói cách khác là nắm được chủ đề của tác phẩm. Việc nắm vững chủ đề của tác phẩm văn học là một khó khăn đầu tiên mà học sinh gặp phải khi tiến hành làm bài văn cảm thụ. Vì vậy, mở đầu phần hướng dẫn học sinh làm bài cảm thụ văn học, tôi cho học sinh hệ thống lại các chủ đề được giảng dạy ở lớp 4, 5:
 	Các bài Tập đọc ở lớp 4, 5 thường xoay quanh các chủ đề:
- Vẻ đẹp và tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc.
- Tình cảm con người: Tình cảm gia đình (tình mẹ con, cha mẹ với con cái, tình cảm anh chị em...), tình cảm thầy trò, tình yêu thương đối với những người xung quanh, với Bác Hồ, tình yêu cuộc sống.
- Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên; những mơ ước của thiếu nhi, khao khát khám phá, chinh phục thế giới.
 	Cụ thể: 
Lớp 4: Các bài Tập đọc được chia thành 10 chủ điểm: 
	Thương người như thể thương thân; Măng mọc thẳng; Trên đôi cánh ước mơ; Có chí thì nên; Tiếng sáo diều; Người ta là hoa đất; Vẻ đẹp muôn màu; Những người quả cảm; Khám phá thế giới; Tình yêu cuộc sống.
Lớp 5: Các bài Tập đọc được chia thành 10 chủ điểm: 
Việt Nam - Tổ quốc em; Cánh chim hoà bình; Con người với thiên nhiên; Giữ lấy màu xanh; Vì hạnh phúc con người; Người công dân; Vì cuộc sống thanh bình; Nhớ nguồn; Nam và nữ; Những chủ nhân tương lai.
Biện pháp 2. Cung cấp một số biện pháp nghệ thuật (tu từ) thường gặp:
 	“Các đề bài cảm thụ văn học thường đưa ra các đoạn văn, đoạn thơ tình tiết truyện để yêu cầu các em phát hiện ra các yếu tố nghệ thuật, đánh giá tác dụng của chúng trong việc thể hiện nội dung; hoặc yêu cầu các em bình giá giá trị nội dung, phân tích ý nghĩa của đoạn văn, đoạn thơ, tình tiết truyện được đưa ra” [1]. Vì vậy, việc tiếp theo trong quá trình bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh mà tôi làm là hệ thống hoá và cung cấp cho học sinh một số kiến thức về các biện pháp nghệ thuật. Các kiến thức mà tôi cung cấp cho các em như sau:
* So sánh: So sánh là cách đối chiếu hai đối tượng khác loại không đồng nhất nhau hoàn toàn mà chỉ giống nhau một nét nào đó về màu sắc, hình dáng, ngữ nghĩa...
Ví dụ: 	Thế rồi cơn bão qua 
Bầu trời xanh trở lại 
Mẹ về như nắng mới
Sáng ấm cả gian nhà 
(Mẹ vắng nhà ngày bão - Bùi Hiển) [4].
- Tác dụng: Phép so sánh trong văn học có tác dụng tạo ra cảm giác mới mẻ, giúp sự vật được miêu tả trở nên cụ thể, sống động...
- Cách nhận biết: Trong câu văn có sử dụng nghệ thuật so sánh thường có các từ: là, như, bằng, tựa, tựa như... và dấu hai chấm (:) dấu gạch ngang (-).
* Nhân hoá: Nhân hoá là cách gọi hoặc tả đồ vật, loài vật, cây cối... bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người (hoặc nói cách khác là gắn cho đồ vật, loài vật, cây cối tình cảm, trạng thái, hoạt động... như con người). 
Ví dụ: Trong bài “Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy có viết:
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người.
Hãy nêu lên vẻ đẹp của đoạn thơ trên?
*Đáp án tham khảo:
Cây tre là một loài cây gắn bó mật thiết với đời sống của con người Việt Nam. Tre không chỉ có sức sống mạnh mẽ mà còn có thói quen sống thành luỹ, thành hàng. Họ hàng nhà tre luôn sống bao bọc, che chở, quấn quýt quây quần bên nhau. Bằng cách sử dụng biện pháp nhân hoá thông qua các từ “ôm”, “níu”, “thương nhau”,..., nhà thơ Nguyễn Duy không chỉ giúp ta hiểu rõ phẩm chất tốt đẹp của cây tre Việt Nam, mà qua đó còn giúp ta hiểu hơn những phẩm chất, những truyền thống cao đẹp của con người Vịêt Nam, dân tộc Việt Nam. [2].
- Tác dụng: Nghệ thuật nhân hoá giúp cho thế giới loài vật, đồ vật, cây cối... trở nên gần gũi, sinh động, hấp dẫn, biểu thị được những tình cảm, suy nghĩ của con người.
* Điệp từ, điệp ngữ: Các từ ngữ được nhắc lại nhiều lần theo chủ định nhằm nhấn mạnh một ý nào đó.
Ví dụ: 	Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay.
 (Hạt gạo làng ta - Trần Đăng Khoa) [5].
Với ba từ có, tác giả đã khẳng định trong hạt gạo bé nhỏ đã chứa không biết bao nhiêu tinh tuý của thiên nhiên, đất trời, tình yêu, sức lao động của con người. Trong hạt gạo có vị phù sa của sông Kinh Thầy, đó chính là tinh tuý của đất. Trong hạt gạo có hương sen thơm trong hồ nước đầy, đó chính là hương sắc của nước. Trong hạt gạo có lời mẹ hát ngọt bùi đắng cay. Lời hát ngọt bùi đắng cay ở đây chính là cả tình yêu và nỗi vất vả của mẹ cùng biết bao người. Nhờ biện pháp điệp từ tác giả đã khẳng định ngợi ca giá trị lớn lao của hạt gạo - hạt vàng.[1]
 Chú ý: Cần phân biệt các từ ngữ được lặp lại với chủ định nhấn mạnh một ý nào đó (điệp ngữ) với các từ ngữ được lặp lại ngẫu nhiên, liên kết câu thông thường. 
Ví dụ: Thấy Ngựa đang ăn cỏ, Sói thèm rỏ dãi. Nó toan xông đến ăn thịt Ngựa, nhưng lại sợ Ngựa chạy mất. 
 (La Phông - ten) [5].
 	Từ “Ngựa” được lặp lại nhằm liên kết câu, không phải là biện pháp nghệ thuật điệp ngữ.
* Đảo ngữ: Đảo trật tự của các từ ngữ hoặc đưa vị ngữ đứng trước chủ ngữ nhằm nhấn mạnh giá trị biểu cảm nào đó.
Ví dụ 1: Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. 	
 (Đường đi Sa Pa - Nguyễn Phan Hách) [4]. 
 	Trong câu văn trên, tác giả dùng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ: đảo “lác đác” (bổ nghĩa cho vị ngữ) lên trước chủ ngữ nhằm nhấn mạnh, làm nổi bật vẻ đẹp nên thơ của sự biến đổi của cảnh sắc thiên nhiên ở Sa Pa.
Ví dụ 2: 	Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!
	 Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
	 	Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
 Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca.
 	 (Ta đi tới - Tố Hữu)
 	Trong đoạn thơ trên, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ - đưa vị ngữ đứng trước chủ ngữ (Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi) nhằm nhấn mạnh vẻ đẹp của đất nước ta được tác giả nêu ra ở các dòng thơ sau của đoạn trích. Đồng thời với việc sử dụng biện pháp nghệ thuật này, tác giả đã nói lên lòng tự hào dân tộc.
* Ẩn dụ: Dùng cái này để nói đến cái khác.
Ví dụ: 	 Áo chàm đưa buổi phân li
 Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
(Việt Bắc - Tố Hữu) [3].
 	Áo chàm chỉ người dân Việt Bắc.
* Chơi chữ: Chơi chữ là dựa vào hiện tượng đồng âm, tạo ra những câu nói nhiều nghĩa, gây những bất ngờ thú vị cho người đọc, người nghe.
Ví dụ: 	- Kiến bò đĩa thịt bò.
	- Ruồi đậu mâm xôi đậu.
 Biện pháp 3: Dạy các dạng bài tập cảm thụ cơ bản.
Dạng 1: Bài tập phát hiện và chỉ ra giá trị của cách dùng từ, đặt câu sinh động
Ví dụ: Hãy cho biết mỗi câu văn dài (nhiều vị ngữ) dưới đây giúp em cảm nhận được điều gì thú vị?
(1) Những cơn gió sớm đẫm mùi hồi, từ các đồi trọc Lộc Bình xôn xao xuống, tràn vào cánh đồng Thất Khê, lùa lên những hang đá Văn Lãng trên biên giới, ào xuống Cao Lộc, Chi Lăng.
(Rừng hồi xứ Lạng - Tô Hoài) [4].
(2) Gió tây lướt thướt bay, qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào những thôn xóm Chin San.
(Mùa thảo quả - Ma Văn Kháng) [5].
Gợi ý: (1): Mùi hồi ngào ngạt toả mạnh đi khắp nẻo, ngỡ như trên vùng đất Lạng Sơn đâu đâu cũng đượm mùi hồi chín.
(2): Hương thảo quả thơm nồng, lan toả đi rất xa, từ rừng qua núi, vào đến tận thôn xóm Chin San.
(1), (2): Chúng ta cảm nhận được một sự lan toả nhanh, mạnh, xa rộng, không dứt, tưởng như cả đất trời được sưởi ấm bởi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn; gợi lên một cuộc sống yên ổn, thanh bình, ấm áp và no đủ.
Dạng 2: Bài tập phát hiện và chỉ ra cái hay của những hình ảnh, chi tiết, ý thơ có giá trị gợi tả:
Ví dụ: Nhớ về Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu có viết:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình. [3].
 	 Em có nhận xét gì về hình ảnh những người dân Việt Bắc được gợi tả qua đoạn thơ trên?
 Gợi ý: Hình ảnh người dân Việt Bắc được gợi tả qua đoạn thơ thật mộc mạc, bình dị, thân thương; những con người cần cù, chịu khó, sống cuộc sống bình yên giữa quê hương tươi đẹp.
 	Dạng 3: Bài tập về phát hiện và chỉ ra giá trị của một số biện pháp tu từ (nghệ thuật):
Ví dụ 1: Trong khổ thơ dưới đây, hình ảnh so sánh đã góp phần diễn tả nội dung thêm sinh động, gợi cảm thế nào?
Đã có ai lắng nghe
Tiếng mưa trong rừng cọ?
Như tiếng thác dội về
Như ào ào trận gió.
 	 (Rừng cọ quê tôi - Nguyễn Viết Bình) [4].
Gợi ý: Hình ảnh, âm thanh “tiếng thác dội về”, “ào ào trận gió” đã góp phần diễn tả được sự mạnh mẽ, vang động của tiếng mưa rơi trong rừng cọ; gợi cảm xúc mới lạ, thú vị.
Ví dụ 2: Chỉ rõ điệp ngữ trong đoạn văn dưới đây và cho biết tác dụng của nó?
“Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê mận. Thoắt cái, gió xuân hây hẩy, nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý.”
(Đường lên Sa Pa - Nguyễn Phan Hách) [5].
Gợi ý : Bằng cách sử dụng điệp ngữ “Thoắt cái...”, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được sự thay đổi bất ngờ của cảnh vật. Qua sự thay đổi bất ngờ đó, không gian cũng thoắt ẩn, thoắt hiện, thời gian cũng vì thế mà thoắt đến, thoắt đi... Sự thay đổi đó còn gợi cho người đọc những cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng và vỡ oà theo từng khoảnh khắc thay đổi của nhịp thu.[2]
Ví dụ 3: Hãy chỉ ra hình ảnh so sánh hoặc nhân hoá mà em thích nhất trong bài Sau trận mưa rào và giải thích vì sao em thích.
Gợi ý: Trong bài Sau trận mưa rào có nhiều hình ảnh so sánh và nhân hoá nhưng em thích nhất hình ảnh “Cây cỏ vừa tắm gội xong, trăm thước nhung, gấm, bạc, vàng bày lên trên cánh hoa không một tí bụi”. Bằng biện pháp nhân hoá, tác giả đã thổi vào cỏ cây, hoa lá một sức sống mạnh mẽ của con người. Tất cả mới tinh khôi vì vừa tắm gội. Tất cả vẻ đẹp như bày ra trước mắt chúng ta,đưa ta lạc vào thế giới thần tiên đầy màu sắc lung linh huyền ảo như thực như mơ. 
Dạng 4: Bài tập về phát hiện và bình giá các nhân vật hay tình tiết trong truyện
Ví dụ: Trình bày cảm nhận của em về “lòng thương người” - một nét tính cách tiêu biểu của Dế Mèn trong câu chuyện Dế Mèn bênh vực kẻ yếu của nhà văn Tô Hoài.
Gợi ý: Nhân vật Dến Mèn trong mẩu chuyện “Dế mèn bênh vực kẻ yếu” của Nhà văn Tô Hoài đã để lại cho ta ấn tượng tuyệt đẹp. Đó là một con người giàu tình thương người. Khi nghe “tiếng khóc tỉ tê” và thấy chị Nhà Trò “gục đầu” bên tảng đá cuội, nếu là người khác chắc sẽ thờ ơ, bỏ mặc nhưng Dế Mèn đã “đến gần” và “gặng hỏi” cho thấy Dế Mèn đã rất quan tâm đến mọi người. Hình ảnh chị Nhà Trò “đã bé nhỏ lại gầy gò quá” với đôi cánh “ngắn chùn chù

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_boi_duong_nang_luc_lam_bai_cam_thu_van.doc