Một số kinh nghiệm về việc rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả

Một số kinh nghiệm về việc rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả

- Hiện nay công tác dạy học được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong các nhà trường. Bởi vì “Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người”

 - Trong dạy học ở bậc Tiểu học người giáo viên phải luôn coi trọng việc rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp. Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nhận xét: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình”.

- Việc rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp là vô cùng cần thiết. Nếu có ý thức giữ gìn sách vở, nắn nót chữ viết thì luôn có tính cẩn thận, kiên trì, có tinh thần học tập, có phẩm chất đạo đức tốt. Là một giáo viên dạy tiểu học tôi xác định rõ được vị trí, tầm quan trọng của việc viết đúng, viết đẹp ở cấp Tiểu học, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu, đi sâu vào việc giúp học sinh viết đúng, viết chữ đẹp và có những bộ vở sạch sẽ.

- Trong dạy học tôi nhận thấy nếu các em viết đẹp, viết đúng mẫu, đúng tốc độ thì có điều kiện ghi chép bài tốt, nhờ vậy mà việc học tập đạt kết quả cao. Ngược lại, những em viết xấu, tốc độ chậm, trình bày tuỳ tiện, cẩu thả dẫn tới chất lượng học tập không cao. Hiện nay, việc có bộ vở sạch, đẹp là không ít xong còn nhiều em vẫn xem nhẹ vấn đề này. Nhiều em còn ý nghĩ lệch lạc chỉ cần học giỏi các môn Toán, Tiếng Việt còn chữ viết chỉ cần đọc được chứ không cần đẹp. Tình trạng bị điểm thấp do chữ xấu, trình bày tuỳ tiện, cẩu thả chiếm tỷ lệ không nhỏ. Có những học sinh khi viết xong quyền vở nhầu nát, quăn mép, bìa sách xộc xệch.

 

doc 17 trang thuychi01 8232
Bạn đang xem tài liệu "Một số kinh nghiệm về việc rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP. THANH HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC RÈN CHỮ VIẾT ĐẸP CHO HỌC SINH LỚP 2 TRONG GIỜ TẬP VIẾT VÀ CHÍNH TẢ 
Người thực hiện: Nguyễn Thị Lĩnh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Vệ 1
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt
THANH HÓA, NĂM 2018
1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
- Hiện nay công tác dạy học được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong các nhà trường. Bởi vì “Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người”
	- Trong dạy học ở bậc Tiểu học người giáo viên phải luôn coi trọng việc rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp. Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nhận xét: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình”.
- Việc rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp là vô cùng cần thiết. Nếu có ý thức giữ gìn sách vở, nắn nót chữ viết thì luôn có tính cẩn thận, kiên trì, có tinh thần học tập, có phẩm chất đạo đức tốt. Là một giáo viên dạy tiểu học tôi xác định rõ được vị trí, tầm quan trọng của việc viết đúng, viết đẹp ở cấp Tiểu học, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu, đi sâu vào việc giúp học sinh viết đúng, viết chữ đẹp và có những bộ vở sạch sẽ.
- Trong dạy học tôi nhận thấy nếu các em viết đẹp, viết đúng mẫu, đúng tốc độ thì có điều kiện ghi chép bài tốt, nhờ vậy mà việc học tập đạt kết quả cao. Ngược lại, những em viết xấu, tốc độ chậm, trình bày tuỳ tiện, cẩu thả dẫn tới chất lượng học tập không cao. Hiện nay, việc có bộ vở sạch, đẹp là không ít xong còn nhiều em vẫn xem nhẹ vấn đề này. Nhiều em còn ý nghĩ lệch lạc chỉ cần học giỏi các môn Toán, Tiếng Việt còn chữ viết chỉ cần đọc được chứ không cần đẹp. Tình trạng bị điểm thấp do chữ xấu, trình bày tuỳ tiện, cẩu thả chiếm tỷ lệ không nhỏ. Có những học sinh khi viết xong quyền vở nhầu nát, quăn mép, bìa sách xộc xệch.
- Từ lí do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm về việc rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả” để nghiên cứu. Mục đích liên tục rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp. Là nền móng rèn cho các em phát triển thành một con người toàn diện để có đủ tư cách bước tiếp lên các cấp học cao hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Dạy học và nghiên cứu kinh nghiệm để nâng cao kĩ năng sư phạm cho bản thân.
- Tìm ra những vướng mắc khi dạy Tập viết và viết Chính tả ở lớp 2, nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cũng như chất lượng vở sạch chữ đẹp.
- Tự đặt mình vào các tình huống dạy học Tập viết ở lớp 2 để suy nghĩ, đề xuất cách giải quyết, hình thành kĩ năng rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 nói riêng và học sinh Tiểu học nói chung.
- Giúp học sinh viết đẹp, đúng chữ mẫu, có độ liền nét giữa các con chữ, nét chữ mềm mại, tốc độ nhanh.
- Giúp cho học sinh biết các trình bày vở một cách khoa học đẹp mắt.
- Rèn học sinh tính cẩn thận, óc sáng tạo, tinh thần kỷ luật và khiếu thẩm mỹ.
- Tăng chất lượng dạy học cho học sinh lớp 2B tại trường Tiểu học Đông Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
	- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: “Một số kinh nghiệm về việc rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả”.
- Đề tài được ứng dụng trực tiếp trong năm học 2017 – 2018 cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Đông Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
 	- Sử dụng các phương pháp: Điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin, thống kê, xử lí số liệu....
- Nghiên cứu tài liệu về công tác rèn luyện chữ viết cho học sinh tiểu học để chọn lựa những thông tin phù hợp với học sinh.
	- Đánh giá kết quả ứng dụng của đề tài qua hoạt động thực tiễn dạy học cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Đông Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
 Môn Tiếng Việt có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình hình thành ngôn ngữ của học sinh. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp của con người. Khả năng sử dụng ngôn ngữ là biểu hiện trình độ văn hoá của con người. Dạy ngôn ngữ tiếng Việt là dạy kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Dạy tiếng Việt là yêu cầu không thể thiếu trong bậc học phổ thông, nhất là bậc Tiểu học.
Dạy viết là một trong bốn kĩ năng dạy học Tiếng Việt mà giáo dục Tiểu học phải có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh. Chữ viết là một hệ thống tín hiệu bằng ghi hình có chức năng giao tiếp và quy định thống nhất trong quá trình lịch sử, chữ viết có nhiều biến đổi khác nhau. Trong trường Tiểu học mẫu chữ được quy đinh qua phân môn Tập viết ở lớp 1, 2, 3 và chữ viết đúng mẫu, đều nét, đúng chính tả qua phân môn Chính tả.
Việc rèn chữ đẹp cho học sinh chính là giúp các em rèn luyện óc thẩm mỹ, yêu thích quyển vở có chữ viết đẹp, rõ ràng, trình bày khoa học. Viết chữ đúng, đẹp là nhằm luyện những phẩm chất đạo đức tốt, thói quen cẩn thận, tỉ mỉ, làm việc ngăn nắp, khoa học. Việc viết đúng, rõ ràng, sạch và đẹp các bài viết để thuận lợi cho quá trình đọc bài, học bài, ôn bài là cơ sở để học các môn học khác. 
Rèn viết chữ đẹp chính là luyện tính cách con người mới, cảm nhận được vẻ đẹp tinh tế qua từng nét chữ, yêu quý, hiểu rõ hơn các kiểu chữ viết tiếng Việt, để khi viết thể hiện rõ “ nét chữ, nết người ”. 
2.2. Thực trạng về việc rèn chữ đẹp cho học sinh lớp 2B - Trường Tiểu học Đông Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
- Qua nhiều năm dạy Tiểu học, khi luyện viết cho học sinh kết hợp với kinh nghiệm học luyện viết chữ đẹp của bản thân tôi nhận thấy: Nét chữ của giáo viên chính là kiểu chữ mẫu gần gũi, sinh động, có ảnh hưởng lớn nhất tới chữ viết của học sinh. Động cơ thúc đẩy học viết, luyện để viết đẹp chính là lòng say mê, tinh thần quyết tâm luyện chữ viết của người học. Vì vậy, người giáo viên rất cần thiết phải bồi dưỡng cho học sinh tinh thần này. Một yếu tố rất quan trọng để viết đẹp đó chính là cách cầm bút, tư thế ngồi viết của người viết. Đây cũng là một yếu tố mà giáo viên nên chú trọng để sửa và rèn cho học sinh. Một phương pháp thực sự cần thiết mà giáo viên cần phải lưu ý đó là quy trình, kỹ thuật viết của học sinh. Tôi nghĩ rằng tất cả những yếu tố trên sẽ giúp học sinh tiến bộ nhanh và hiệu quả trong quá trình học và luyện viết đẹp.
	* Quy định của Thông tư 22 về chuẩn kiến thức, kĩ năng phù hợp với học sinh lớp 2 các mức như sau:
	- Viết đúng kiểu chữ, cỡ chữ.
	- Viết đúng chính tả.
	- Viết tốc độ tối thiểu 30 chữ /15 phút.
	- Trình bày đúng quy định; viết sạch, đẹp.
	*Thực tế của lớp 2B trường Tiểu học Đông Vệ 1 – Năm học: 
2017- 2018:
	– Việc viết đúng kiểu chữ, cỡ chữ: Từ khi nhận lớp qua quan sát chữ viết của học sinh, tôi thấy khả năng nắm các nét cấu tạo nên chữ cái, nhất là chữ cáí viết hoa còn lơ mơ, dẫn đến một số em viết chưa đúng mẫu, cỡ chữ quy định như em Huyền Thương; Ngọc Hà, Hà Trang. 
Nhiều em viết chưa chữ thường gẫy nét, các nét khuyết trên, khuyết dưới thường chưa đúng ly, các nét chữ không đều. Trong một bài có nét nghiêng, nét đứng, các con chữ viết rời rạc chưa có sự kết nối liền mạch, khoảng cách giữa các chữ chưa đều như em Bảo, Tuấn Tú, Thảo Nguyên, Hồng Quân,..
	– Việc viết đúng chính tả: Trong một bài chính tả, một số học sinh còn sai nhiều lỗi chính tả vì nắm cấu tạo âm, vần, từ, câu chưa chắc như em Tuấn Anh, Hoàng Đức, Trọng. Hơn nữa trong bộ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 có mẫu chữ hoa, loại chữ hoa kiểu 2 bay bổng, mềm mại có nhiều nét uốn lượn rất khó viết. 
	- Việc viết tốc độ tối thiểu 30 chữ /15 phút: Trong lớp, số ít học sinh viết còn chậm so với các bạn khác, chưa đúng theo quy định tốc độ tối thiểu 30 chữ / 15 phút đối với học sinh lớp 2 như em Hồng Quân, Vũ Tuấn Anh. 
	– Việc trình bày đúng quy định; viết sạch, đẹp: Cách trình bày trong một bài chính tả chưa sạch, đẹp do sai lỗi chính tả và chữ chưa đúng kích cỡ, nên các em tẩy xoá rất bẩn như em Mạnh Hoàn, Đức Thịnh, Tuấn Anh. 
	- Trước tình hình đó tôi đã tiến hành chấm vở sạch chữ đẹp và kiểm tra việc sử dụng bút, thước của học sinh. Phân loại nhằm biết điểm yếu của từng em về chữ viết để tiện giúp đỡ rèn luyện.
Qua tiến hành khảo sát, phân loại đối tượng, kết quả đạt được ở đợt chấm Vở sạch chữ đẹp giữa kỳ 1 như sau: Tổng số học sinh: 46 em
Xếp loại chung giữa học kỳ I năm học 2017 - 2018
Xếp loại
A
B
C
Số học sinh
16 em
29 em
1 em
Tỉ lệ %
34,8 %
63,1 %
2,1 %
Từ những kinh nghiệm được đúc kết trong dạy học, tôi xin đề xuất một số biện pháp nhỏ: Giúp học sinh nắm vững các nét cấu tạo chữ; viết đúng mẫu cỡ 
chữ; viết chữ đếu nét, liền mạch các con chữ trong một chữ; chú ý đến cấu tạo âm, vần, dấu thanh, tiếng, từ, câu khi viết chính tả; cách trình bày bài sạch đẹp nhằm nâng cao chất lượng, đưa chữ viết của học sinh ngày một tiến bộ.
2.3. Các giải pháp thực hiện “Một số kinh nghiệm về việc rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả” tại lớp 2B trường Tiểu học Đông Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
2.3.1. Giải pháp 1: Đề cao sự gương mẫu về chữ viết của giáo viên.
Đặc điểm của học sinh tiểu học là hay bắt chước, nếu chữ viết của giáo viên mà đẹp thì hàng ngày được quan sát, tiếp xúc học sinh sẽ có ý thức viết đẹp hơn. Chữ viết có đẹp thì khi viết mẫu cho học sinh mới đẹp được. Vì vậy theo tôi vấn đề đầu tiên và vô cùng quan trọng đó là bản thân giáo viên phải có ý thức rèn luyện chữ viết của mình.
Giáo viên cũng phải thực sự chuẩn mẫu khi viết trên bảng, khi nhận xét vào vở, ghi học bạ. Lời nhận xét của cô giáo phải có tác dụng chỉ bảo, khuyến khích học sinh vươn lên trong học tập và chứa đựng tình cảm đối với học sinh.
Ví dụ: Nếu học sinh viết xấu, giáo viên chỉ nên ghi nhận xét: “Chữ em viết chưa đẹp, cần phải luyện viết nhiều hơn” giáo viên không nên nhận xét: “Chữ em viết quá xấu”.
Khi chấm bài nếu phát hiện thấy nét chữ viết chưa được đẹp, giáo viên cần nắn nót viết mẫu sang lề vở để các em có ý thức sửa và yêu cầu luyện viết thêm mỗi chữ một dòng.
Giáo viên cho học sinh mỗi em một tấm bìa kê tay có bảng chữ mẫu (cả chữ thường và chữ hoa) hàng ngày để trong cặp. Học sinh sẽ sử dụng miếng bìa này luyện viết khi ở nhà hoặc trong các giờ luyện viết ở lớp.
Giáo viên cũng cần chú ý đến chữ viết và cách trình bày của bản thân. Qua chữ viết của cô giáo mà học sinh hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa quan trọng của chữ viết đẹp. Phải là người gương mẫu tiên phong về chữ viết cho các em. Trình bày bảng đẹp sẽ giúp học sinh rất nhiều trong việc luyện viết chữ đẹp.
Rèn luyện để có chữ viết đẹp là một yêu cầu cấp thiết của người giáo viên tiểu học khi đứng trên bục giảng để rèn chữ viết cho học sinh.
2.3.2. Giải pháp 2: Nắm vững các nét cấu tạo chữ viết tiếng Việt và viết đúng cỡ chữ.
Việc luyện chữ là việc cần làm nhưng không thể nóng vội, cần phải kết hợp cả sự tỉ mỉ, lòng kiên trì và tình yêu thương học sinh thì mới tiến tới thành công được. Qua dạy học tôi đã đúc rút cho mình được một số kinh nghiệm. Cần phải phân loại chữ viết theo từng nhóm chữ. Bởi vì, số lượng thì rất nhiều (29 chữ) thời gian dành cho riêng môn tập viết cũng không nhiều. Việc phân loại chữ viết theo từng nhóm là vô cùng cần thiết. Khi rèn chữ viết tôi đã chú trọng vấn đề rèn dứt điểm từng loại chữ. Học sinh viết đúng, viết đẹp loại chữ này mới chuyển sang loại khác. Ngay đầu năm học cần có kế hoạch cụ thể cho từng tuần, tháng, học kỳ, năm học.
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái tôi chia ra các nhóm chữ sau:
Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong
Tôi thấy nhóm chữ này để viết được đúng, đẹp theo chữ mẫu là rất khó khăn. Bởi vì, tất cả các chữ trong nhóm đều là những nét cong, nét lượn, viết không đẹp chữ sẽ méo mó, tròn quá hoặc dài quá 
Đối với nhóm chữ này thì chữ cơ bản là chữ O, nếu chữ O viết đẹp thì những chữ khác viết cũng sẽ đẹp. Tôi đã hướng dẫn học sinh viết chữ O như sau:
	Khi dạy chữ O thường kẻ khung hình chữ nhật đứng, chia khung hình vuông đó làm 6 ô vuông bằng nhau. Đánh dấu 4 điểm giữa các cạnh của hình chữ nhật, dùng phấn màu chấm thành hình chữ O sau đó tô lên dấu chấm. Vừa viết vừa hướng dẫn cho học sinh quan sát chữ mẫu.
	Sau đó, yêu cầu học sinh nêu lại kích cỡ chữ mẫu nhỏ: Chiều cao1ly, rộng gần 1ly. Khi viết chữ O điểm đặt bút phải thấp hơn đường kẻ ngang, viết nét cong chạm đường kẻ ngang trên rồi lượn sang trái vòng xuống chạm đường kẻ ngang dưới, đưa nét bút cong lên điểm dừng bút ở tại điểm bắt đầu đặt bút. Lưu ý phải có dấu nhấn với hai tác dụng: ghi dấu nét xuất phát là điểm thêm sau để thành chữ O, điểm dừng để nối chữ khi viết nhanh.
- Nếu viết chữ Ơ chỉ cần thêm dấu “ ’ ” nhỏ phía bên phải trên đầu chữ O. Chân dấu phụ này chạm điểm dừng bút.
Tương tự các con chữ c, e, ê, x cũng có các nét cong như vậy:
Nhóm 2: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc (hoặc nét thẳng): 
Đối với nhóm chữ này thì chữ cơ bản là chữ cái a. Khi viết chữ a tôi cũng hướng dẫn tương tự như chữ O nhưng điểm đặt bút thấp hơn. Khi lượn nét cong đến điểm dừng thì lia bút tới đường kẻ ngang giữa đưa nét bút thẳng xuống viết nét móc phải. Khi viết nét móc phải tôi đã lưu ý học sinh viết nét thẳng cần phải kéo quá nửa gần sát đến ly mới được viết nét đá hất, nếu viết nét đá hất sớm quá thì dẫn đến chữ viết sẽ choạc còn nếu như viết nét thẳng sát xuống dòng kẻ mới viết nét đá hất thì dẫn đến nét đá hất sẽ nhọn, chữ viết cứng, gẫy nét và rất xấu.
Các chữ ă, â viết tương tự, giáo viên chỉ cần lưu ý cách viết dấu mũ “ ^ ”. Đối với dấu mũ từ phía trái trên đầu chữ a lia bút lên trên không viết một nét gấp khúc từ trái qua phải, lưu ý hai chân dấu mũ không được chạm đầu chữ cái a. Khi viết nét cong “ O ” cần phải lưu ý đáy nét cong không chạm vào đầu chữ a như sau:
Đối với các chữ cái d, đ, q có chiều cao gấp đôi đơn vị chữ, chiều ngang giống như chữ a, cách viết tương tự:
Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có các nét cơ bản là nét móc:
Ở nhóm các chữ cái này trọng tâm rèn luyện là nét móc ngược, nét móc xuôi và nét móc hai đầu, ở nét móc ngược và móc xuôi được quy định như sau:
1. Điểm đặt bút
2. Điểm uốn lượn.
3. Điểm kết thúc.
Đối với nét móc hai đầu
1. Điểm đặt bút.
2. Điểm tiếp giáp giữa hai nét móc.
3. Điểm kết thúc
Khi viết điểm uốn lượn giáo viên nên lưu ý như đã viết nét móc phải của chữ a sau khi viết các nét móc thì việc kết hợp của từng nét ở từng con chữ cũng có sự khác nhau.
Ví dụ: Đối với chữ n, m nét móc xuôi thứ nhất viết đến dòng kẻ đậm. Lia bút lên nửa ô ly viết nét móc hai đầu rộng 1,5 ly, cao 1 ly. Điểm uốn lượn cần lượn rộng và phải lượn tròn nếu quy định chữ n có độ rộng 1,5 ly thì điểm kết thúc phải dừng lại ở độ rộng 1 li Cách viết chữ m tương tự như ở trên.
 Khi viết chữ t giáo viên cần lưu ý học sinh chữ t có độ cao đặc biệt là 1,5 
li, độ rộng nét móc ngược nửa ô ly nhưng học sinh cứ viết lên 2 ly, rộng 1 ly. Vì thế trong khi chấm bài tôi phải chữa và viết mẫu cẩn thận như sau:
	Qua dạy học tôi thấy nhiều học sinh viết chữ n, m, p rất xấu chữ viết thường từ nét hoặc nhóm nét nhưng khi đã được tôi giúp một cách tỉ mỉ thì các em đã sửa được rất nhanh và chữ viết đẹp.
 Nhóm 4: Là nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong phối hợp với nét móc):
Từ các nét cơ bản ở nhóm 3 nếu học sinh đã được luyện viết đều đẹp và đẹp thì các em dễ dàng viết đẹp các chữ cái ở nhóm 4.
* Đối với nhóm chữ này tôi tập trung rèn luyện cho các em nét khuyết trên và nét khuyết dưới chuẩn mẫu: Cao 2 ly rưỡi, rộng nửa ô ly
* Cách viết chữ k, h: Khi các em đã viết được nét sổ ngay ngắn tôi cho viết nét khuyết, trước khi viết lưu ý nét khuyết xuôi cũng như nét khuyết ngược đều có độ cao 2,5 ly (trong thực tế nhiều em chỉ viết hai ly)
 - Nét khuyết xuôi	- Nét khuyết ngược
1. Điểm đặt bút	1. Điểm đặt bút
2. Điểm uốn lượn	2. Điểm uốn lượn
3. Điểm dừng bút	3. Điểm dừng bút
Khi viết nét khuyết tròn cần lưu ý học sinh nét khuyết cần thon và tròn đầu, không viết nét khuyết quá to hay quá nhọn, điểm giao nhau giữa nét chéo và nét sổ thẳng ở đường kẻ giữa.
 Khi viết chữ b giáo viên lưu ý học sinh viết nét thắt không nên viết quá to 
hay quá nhỏ viết nét cong cần phải lượn vào một chút trước khi viết nét thắt như 
sau:
Nhóm 5: Nhóm chữ cái có nét thắt phối hợp với nét cong: 
Ở nhóm chữ này các nét móc, nét cong, nét thắt các em đều đã được luyện. 
 2.3.3. Giải pháp 3: Rèn cách viết các chữ cái viết hoa.
 Căn cứ vào sự cấu tạo, nét giống nhau của các chữ tôi chia chữ hoa ra thành các nhóm nhỏ như sau:
Khi dạy các chữ hoa cần giúp học sinh:
+ Bước đầu luyện viết vào vở ô ly, giáo viên viết mẫu các chữ lên bảng, từ điểm bắt đầu, điểm uốn lượn và điểm kết thúc của từng chữ, học sinh được luyện viết vào bảng con nhiều lần. Khi các em đã viết đẹp tôi cho viết vở có ô ly, khi viết cũng phải tính toán cẩn thận xem xét thứ nhất bắt đầu từ hàng ly thứ mấy và kết thúc vào điểm nào.
Ví dụ: Khi dạy viết chữ B giáo viên kẻ các ô vuông như hình bên, cho học sinh quan sát chữ B và nhận xét.
Chữ B cao 5 ly (6 đường kẻ), rộng 4,5 ly
+ Gồm 2 nét: nét 1 giống móc ngược trái, nhưng phía trên hơn lượn sang phải, đầu móc cong hơn, nét 2 là kết hợp của hai nét cơ bản: cong trên và cong phải nối liền với nhau, tạo vòng xoắn nhỏ giữa thân chữ. Cụ thể cách đặt bút:
Nét 1: Đặt bút trên đường kẻ 6, dừng bút trên đường kẻ 2.
Nét 2: Từ điểm dừng bút của nét 1, lia bút lên đường kẻ 5, viết 2 nét cong liền nhau, tạo vòng xoắn ở gần giữa thân chữ, dừng bút ở giữa đường kẻ 2 và đường kẻ 3.
 Song song với việc rèn chữ viết thì vấn đề giữ vở sạch là vô cùng cần thiết. 
2.3.4. Giải pháp 4: Nắm vững kỹ thuật viết liền mạch.
Để đảm bảo tốc độ viết, người ta không thể viết rời từng chữ mà phải di chuyển dụng cụ viết đưa nét chữ liên tục theo kỹ thuật viết liền mạch. Viết xong chữ cái đứng trước viết tiếp đến chữ cái đứng sau có như thế mới không rời rạc và mới mềm mại được. Tôi đã chia kỹ thuật viết liền mạch thành các trường hợp sau:
2.3.4.1. Trường hợp viết nối thuận lợi.
Khi viết các trường hợp này cho học sinh đưa tiếp nét bút từ điểm dừng bút của chữ cái đứng trước nối sang điểm đặt bút của chữ cái đứng sau một cách thuận lợi theo hướng dịch chuyển của nét bút từ trái sang phải.
Ví dụ: 	 u nối với ô; ô nối với n
 2.3.4.2. Trường hợp viết nối không thuận lợi.
Trường hợp này chữ cái đứng trước không có liên kết với chữ cái đứng sau. Vậy khi viết đặc biệt lưu ý cho học sinh không nhấc nét bút lên mà khi viết đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước thì lia bút đến điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau.
 Ví dụ: Viết các vần: an, am anh, en, ên, in, un
 Viết từ: cành chanh
 Đối với chữ có hai chữ cái đứng cạnh nhau đều không có nét liên kết, phải hướng dẫn cho học sinh tạo nên nét liên kết để tránh việc nhấc nét bút lên.
Ví dụ: Víêt chữ ngh, ch, th, ph, kh, tr, gh, gi
 2.3.4.3. Chú ý khoảng cách giữa các con chữ, các chữ với nhau.
Ví dụ: nếu học sinh viết chữ “lá sen” mà khoảng cách các con chữ xa quá sẽ không đẹp, dày quá cũng không đẹp.
 Nếu học sinh viết khoảng cách giữa các chữ cái đều chữ sẽ đẹp
 2.3.4.4. Kỹ thuật viết dấu phụ và dấu thanh
* Về dấu phụ: Lỗi này thường phổ biến nhiều ở học sinh nhưng vẫn có em mắc phải. 
Đối với các dấu phụ cần đặt ở vị trí phía trên đầu các chữ cái, không chạm vào đầu các chữ cái. Với dấu “ ’ ” của chữ Ơ dấu hơi có điểm dừng bút chạm vào điểm dừng bút của nét cong khép kín. Với dấu “ ’ ” của chữ ư có điểm dừng bút chạm vào đầu của móc thứ hai.
 Về dấu câu: Cần lưu ý viết dấu “ / ” và “ \ ”; (?); (~), (.) phải đặt đúng vị trí cần đặt.
Khi học viết các chữ cái và các dấu phụ, dấu thanh đẹp thì việc rèn viết đẹp các chữ hoa là vô cùng cần thiết.
2. 3. 5. Giải pháp 5: Rèn cách viết chữ ghi âm tiết văn bản để đảm bảo tốc độ viết.
- Khi viết ứng dụng, để đảm bảo tốc độ viết nhanh, có thể viết liền mạch tất cả các con chữ trong một chữ rồi sau đó mới đặt dấu (kể cả dấu phụ và dấu thanh) 
 Ví dụ: Viết chữ "nâng", "tiếng"
.........................

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_kinh_nghiem_ve_viec_ren_chu_viet_dep_cho_hoc_sinh_lop.doc