SKKN Một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu “bước qua” cho học sinh Lớp 9 Trường PTDT nội trú THCS Krông Ana – huyện Krông Ana – tỉnh Đăk Lăk
Cơ sở lí luận:
Tập luyện nhảy cao có ý nghĩa rất lớn trong công tác giáo dục và bồi dưỡng học sinh trong nhà trường. Qua đó nhằm hình thành các phẩm chất ý chí và đạo đức của con người mới góp phần vào giáo dục và nâng cao trí tuệ, giáo dục lao động và giáo dục thẩm mỹ cho các em.
Nhảy cao là hoạt động phức tạp được thực hiện liên tục bắt đầu từ chạy đà cho đến lúc kết thúc là vượt qua xà rơi xuống đất. Thành tích nhảy cao phụ thuộc vào kỹ thuật và sức lực của người nhảy. Về kỹ thuật các yếu tố quyết định thành tích nhảy cao là: tốc độ ban đầu (tốc độ tổng hợp của chạy đà và giậm nhảy); góc độ bay (góc tạo bởi phương của tốc độ ban đầu và phương nằm ngang) và tư thế qua xà của người nhảy - tư thế nào có tổng trọng tâm gần xà hơn sẽ có điều kiện đạt thành tích cao hơn.
Dạy học cho học sinh chính là quá trình rèn luyện để có kỹ thuật nhảy đúng và góp phần phát triển thể chất cho các em.
Hiện tại, nhảy cao đã có tới 5 kỹ thuật qua xà, gồm: bước qua, cắt kéo, nằm nghiêng, úp bụng và lưng qua xà. Tương ứng với mỗi kỹ thuật qua xà có một cách chạy đà và các bước kỹ thuật khác nhau. Trong đó kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua tuy thành tích không cao bằng kiểu úp bụng hay lưng qua xà, nhưng đối với học sinh THCS thì kỹ thuật bước qua là tối ưu. Đây là kỹ thuật rất thông dụng, thích hợp cho mọi đối tượng tập luyện.
Thực tế giảng dạy môn Thể dục ở các trường THCS vấn đề dụng cụ, sân bãi còn đơn giản nhưng để có được thành tích trong tập luyện và thi đấu đòi hỏi quá trình giảng dạy giáo viên phải hướng dẫn học sinh tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc quy định, giúp các em nắm bắt và thực hiện kỹ thuật động tác một cách chính xác, thuần thục.
Nếu tập luyện kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh THCS một cách đầy đủ, chính xác, khắc phục được những sai lầm thường mắc, đưa ra các biện pháp thích hợp, khả thi thì chắc chắn rằng chất lượng học tập của bộ môn điền kinh nói chung và môn nhảy cao nói riêng sẽ được nâng cao.
Nhảy cao kiểu bước qua có kỹ thuật tương đối đơn giản, tuy nhiên khi thực hiện kỹ thuật này các em vẫn mắc phải những sai lầm với nhiều nguyên nhân khác nhau. Đặc biệt là ở mức xà cao, các em luôn ở trạng thái sợ hãi, thiếu tập trung dẫn đến thực hiện động tác kỹ thuật giật cục, thiếu tính nhịp nhàng. Mặt khác với quy định của phân phối chương trình môn Thể dục 2 tiết/tuần là tương đối ít để các em có thời gian lĩnh hội, tiếp thu động tác kỹ thuật một cách nhuần nhuyễn, thuần thục. Vì vậy vấn đề đặt ra cho giáo viên dạy học môn Thể dục là phải tìm ra những biện pháp tối ưu nhất để gây hứng thú cho học sinh tập luyện, giúp các em khắc phục những sai lầm, hoàn thiện kỹ thuật và đạt kết quả cao về thành tích.
MỤC LỤC PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: 3 3. Đối tượng nghiên cứu 3 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 4 5 Phương pháp nghiên cứu 4 PHẦN II: NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận của đề tài :......7 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:....14 3. Nội dung và hình thức của giải pháp:..15 a. Mục tiêu của giải ph.....15 b. Nội dung và cách hình thức thực hiện giải pháp:.. 16 c, Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:....17 d. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của việc ứng dụng và kiểm nghiệm trong thực tiễn các bài tập:....20 PHẦN III: KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: 26 2. Kiến nghị: 27 Tài liệu tham khảo 28 PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài:: Giáo dục thể chất trong trường học là một bộ phận hết sức quan trọng của phong trào thể thao quần chúng nói chung, nhưng do đối tượng là tuổi trẻ, học sinh, sinh viên đông đảo, được học và tập luyện theo chương trình bắt buộc, có bài bản và nề nếp cho nên giáo dục thể chất trong trường học được coi là một thành phần, một bộ phận cơ bản của nền thể dục thể thao. Giáo dục thể chất trong trường học còn có tác dụng tạo ra tiềm năng lớn về lực lượng vận động viên năng khiếu, cung cấp cho đất nước ngày càng nhiều tài năng thể thao. Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta rất quan tâm tới công tác giáo dục thể chất trong trường học. Năm 1964 Đảng ta có chủ trương “Phải thực hiện giáo dục toàn diện: Đạo đức, trí tuệ, thể dục, mỹ dục và lao động cho thanh thiếu niên trong trường học” .Và quyết định: “Bắt đầu đưa việc dạy thể dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình học tập của các trường phổ thông, chuyên nghiệp và đại học”(Nghị quyết TW VIII khóa III) Trong thời kỳ mới hiện nay, Đảng ta chủ trương phải phấn đấu: “Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học”(Chỉ thị 36CT/TW của ban bí thư TW Đảng khóa VII) Trong chương trình giáo dục trung học phổ thông có rất nhiều môn thể thao đã được đưa vào giảng dạy như: Đá cầu, Cầu lông, Thể dục cơ bản nhất là điền kinh. Tập luyện điền kinh không đòi hỏi các sân bãi dụng cụ phức tạp nên đã trở thành môn thể thao cơ bản được đưa vào giảng dạy trong nhà trường với những nội dung như: Chạy, Nhảy cao, Nhảy xa Điều này đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cơ thể học sinh, chưa thúc đẩy sự phát triển toàn diện ở các em, kết quả đạt được còn thấp, nó thể hiện rõ qua việc đánh giá kết quả học tập ở cuối học kì, cuối năm học. Và đặc biệt là qua các kì hội khỏe phù đổng thành tích nhiều môn thể thao - điền kinh chưa cao. Vì vậy các bài tập bổ trợ chuyên môn là yếu tố quan trọng của quá trình hình thành kỹ thuật động tác. Bài tập bổ trợ chuyên môn nhằm tác động có hiệu quả, có chủ đích vào việc phát triển các tố chất thể lực (sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo và mềm dẻo cùng khả năng phối hợp vận động) và kỹ xảo động tác của các môn thể thao. Trong kỹ thuật nhảy cao nói chung và kỹ thuật nhảy cao kiểu “bước qua” được giảng dạy ở hai năm cuối cấp. Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến thành tích nhảy cao kiểu “bước qua” là việc nắm bắt đúng kỹ thuật, để thực hiện được yêu cầu này các giáo viên đều sử dụng các bài tập bổ trợ chuyên môn để củng cố và nâng cao kỹ thuật cho học sinh. Những bài tập bổ trợ nhảy cao kiểu “bước qua” có vai trò quan trọng, tác động có chủ đích, hiệu quả vào các giai đoạn của kỹ thuật. Qua kiểm tra đánh giá kết quả học tập nội dung Nhảy cao Kiểu “bước qua” của học sinh chúng tôi nhận thấy tỷ lệ % học sinh nắm bắt kỹ thuật còn kém, dẫn đến thành tích nhảy cao chưa cao như mong muốn. Từ những vấn đề nêu trên, tôi thực hiện nghiên cứu: Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, với thực tế của trường, bản thân tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: Một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu “bước qua” cho học sinh lớp 9 Trường PTDT Nội Trú THCS Krông Ana – Huyện Krông Ana – Tỉnh Đăk Lăk ” 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu: a, Mục tiêu nghiên cứu: Thông qua kết quả nghiên cứu lựa chọn được một số bài tập nhằm nâng cao thành tích trong môn nhảy cao phù hợp với học sinh. Từ đó nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ở nhà trường phổ thông. b, Nhiệm vụ nghiên cứu: Để giải quyết mục đích nghiên cứu trên chúng tôi thực hiện hai nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Nhiệm vụ 1: Xác định các chỉ số biểu thị trình độ và lựa chọn một số bài tập nhằm nâng cao thành tích trong môn nhảy cao kiểu “bước qua” cho học sinh lớp 9 Trường PTDT Nội Trú THCS Huyện Krông Ana. - Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu ứng dụng các bài tập nhằm nâng cao thành tích trong môn nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh lớp 9 Trường PTDT Nội Trú THCS Huyện Krông Ana. 3. Đối tượng nghiên cứu: Một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu “bước qua” cho học sinh lớp 9 Trường PTDT Nội Trú THCS Huyện Krông Ana. Chúng tôi chọn đối tượng là 38 em học sinh lớp 9 chia làm hai nhóm. - Nhóm thực nghiệm: gồm 19 em học sinh lớp 9 thời gian tập luyện mỗi tuần 1 buổi, mỗi buổi 1 tiết nội dung tập luyện do chúng tôi đưa ra theo các bài tập đã xác định. - Nhóm đối chứng: Chúng tôi đã chọn ngẫu nhiên 19 em học sinh nam lớp thời gian tập luyện giống như nhóm thực nghiệm mỗi tuần 1 buổi, mỗi buổi 1 tiết nội dung tập luyện theo phân phối chương trình hiện hành - Thời gian tổ chức thực hiện 11 tuần. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu là học sinh lớp 9 Trường PTDT Nội Trú THCS Huyện Krông Ana. - Phạm vi áp dụng học sinh các trường THCS trên toàn huyện. - Địa điểm nghiên cứu: Trường PTDT Nội Trú THCS Krông Ana - Huyện Krông Ana. 5. Phương pháp nghiên cứu. Để giải quyết được nhiệm vụ của đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau đây. a. Phương pháp tham khảo tài liệu: tham khảo các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Sách Sinh lý học thể dục thể thao. Sách lý luận và phương pháp giáo dục thể chất. Giáo trình giảng dạy điền kinh Đại Học Vinh Sách Phương pháp nghiên cứu khoa học thể dục thể thao. Sách phương pháp toán học thống kê trong thể dục thể thao. Các văn kiện nghị quyết Trung Ương Đảng, hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. b. Phương pháp dùng bài kiểm tra (Test). Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, để đánh giá trình độ tố chất, sức mạnh tốc độ của học sinh Trường PTDT Nội Trú THCS Huyện Krông Ana chúng tôi đã sử dụng bài thử được thừa nhận trong thực tế thể dục thể thao được tác giả Nguyễn Kim Minh áp dụng trong công trình nghiên cứu khoa học của mình (1986). Bài thử gồm: Chạy 30m xuất phát cao: Để đánh giá tốc độ. + Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước, chân sau (chân trước dẫm lên vạch xuất phát) người hơi cúi về trước, trọng tâm dồn về chân trước, mắt nhìn thẳng về phía trước. + Cách thực hiện: Khi nhận được tín hiệu xuất phát người tập nhanh chóng chạy hết cự ly 30m với tốc độ nhanh nhất. + Cách đánh giá: Thành tích được tính bằng thời gian chạy hết cự ly, đơn vị đo bằng giây đồng hồ Bật cao tại chỗ: Đánh giá sức mạnh tốc độ của chân + Tư thế chuẩn bị: Trước tiên cho người tập đứng sát bờ tường, đứng nghiêm không kiểng gót và đưa hai tay lên cao rồi đánh dấu ở điểm cao nhất lên bờ tường. + Cách thực hiện: Từ tư thế chuẩn bị người tập khuỵu gối hạ thấp trọng tâm, góc đọc giữa đùi từ 1100 – 1200 thân người gập ở khớp hông, người hơi gập về trước, trọng tâm dồn đều vào hai chân, hai tay đưa ra sau. Sau đó duỗi hết các khớp, khớp hông, khớp đầu gối, khớp cổ chân tác dụng xuống đất một lực lớn nhất, nhanh chóng bật lên cao. Đồng thời tay đánh từ sau ra trước với lên cao và đánh dấu vào bờ tường ở điểm cao nhất. + Cách đánh giá: Thành tích được tính bằng khoảng cách từ điểm trước lúc bật nhảy đến điểm sau bật nhảy đã đánh dấu vào bờ tường đơn vị đo là cm, mỗi người được bật hai lần, thành tích được lấy lần bật cao nhất. c. Phương pháp thực nghiệm sư phạm. Để giải quyết đề tài này chúng tôi thực hiện theo phương pháp thực nghiệm song song. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã phân thành hai nhóm: - Nhóm thực nghiệm: gồm 19 em học sinh nam lớp 9 thời gian tập luyện mỗi tuần 1 buổi, mỗi buổi 1 tiết nội dung tập luyện do chúng tôi đưa ra theo các bài tập đã xác định. - Nhóm đối chứng: Chúng tôi đã chọn ngẫu nhiên 19 em học sinh nam lớp 9 thời gian tập luyện giống như nhóm thực nghiệm mỗi tuần 1 buổi, mỗi buổi 1 tiết nội dung tập luyện theo phân phối chương trình hiện hành - Thời gian tổ chức thực hiện 11 tuần. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận: Tập luyện nhảy cao có ý nghĩa rất lớn trong công tác giáo dục và bồi dưỡng học sinh trong nhà trường. Qua đó nhằm hình thành các phẩm chất ý chí và đạo đức của con người mới góp phần vào giáo dục và nâng cao trí tuệ, giáo dục lao động và giáo dục thẩm mỹ cho các em. Nhảy cao là hoạt động phức tạp được thực hiện liên tục bắt đầu từ chạy đà cho đến lúc kết thúc là vượt qua xà rơi xuống đất. Thành tích nhảy cao phụ thuộc vào kỹ thuật và sức lực của người nhảy. Về kỹ thuật các yếu tố quyết định thành tích nhảy cao là: tốc độ ban đầu (tốc độ tổng hợp của chạy đà và giậm nhảy); góc độ bay (góc tạo bởi phương của tốc độ ban đầu và phương nằm ngang) và tư thế qua xà của người nhảy - tư thế nào có tổng trọng tâm gần xà hơn sẽ có điều kiện đạt thành tích cao hơn. Dạy học cho học sinh chính là quá trình rèn luyện để có kỹ thuật nhảy đúng và góp phần phát triển thể chất cho các em. Hiện tại, nhảy cao đã có tới 5 kỹ thuật qua xà, gồm: bước qua, cắt kéo, nằm nghiêng, úp bụng và lưng qua xà. Tương ứng với mỗi kỹ thuật qua xà có một cách chạy đà và các bước kỹ thuật khác nhau. Trong đó kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua tuy thành tích không cao bằng kiểu úp bụng hay lưng qua xà, nhưng đối với học sinh THCS thì kỹ thuật bước qua là tối ưu. Đây là kỹ thuật rất thông dụng, thích hợp cho mọi đối tượng tập luyện. Thực tế giảng dạy môn Thể dục ở các trường THCS vấn đề dụng cụ, sân bãi còn đơn giản nhưng để có được thành tích trong tập luyện và thi đấu đòi hỏi quá trình giảng dạy giáo viên phải hướng dẫn học sinh tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc quy định, giúp các em nắm bắt và thực hiện kỹ thuật động tác một cách chính xác, thuần thục. Nếu tập luyện kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh THCS một cách đầy đủ, chính xác, khắc phục được những sai lầm thường mắc, đưa ra các biện pháp thích hợp, khả thi thì chắc chắn rằng chất lượng học tập của bộ môn điền kinh nói chung và môn nhảy cao nói riêng sẽ được nâng cao. Nhảy cao kiểu bước qua có kỹ thuật tương đối đơn giản, tuy nhiên khi thực hiện kỹ thuật này các em vẫn mắc phải những sai lầm với nhiều nguyên nhân khác nhau. Đặc biệt là ở mức xà cao, các em luôn ở trạng thái sợ hãi, thiếu tập trung dẫn đến thực hiện động tác kỹ thuật giật cục, thiếu tính nhịp nhàng. Mặt khác với quy định của phân phối chương trình môn Thể dục 2 tiết/tuần là tương đối ít để các em có thời gian lĩnh hội, tiếp thu động tác kỹ thuật một cách nhuần nhuyễn, thuần thục. Vì vậy vấn đề đặt ra cho giáo viên dạy học môn Thể dục là phải tìm ra những biện pháp tối ưu nhất để gây hứng thú cho học sinh tập luyện, giúp các em khắc phục những sai lầm, hoàn thiện kỹ thuật và đạt kết quả cao về thành tích. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh trung học cơ sở: Học sinh các trường THCS thường ở lứa tuổi 14 - 15. Để có cơ sở khoa học cho việc lựa chọn các bài tập phát triển sức mạnh tốc độ chúng ta cần tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của lứa tuổi 14 - 15 có liên quan tới việc tập luyện TDTT nói chung và với việc phát triển sức mạnh tốc độ nói riêng. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi 14 -15. Học sinh các trường THCS thường ở lứa tuổi 14 -15. Để có cơ sở khoa học cho việc lựa chọn các bài tập phát triển sức nhanh - mạnh tốc độ chúng ta cần tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của lứa tuổi 14 -15 có liên quan tới việc tập luyện TDTT nói chung và với việc phát triển sức nhanh - mạnh tốc độ nói riêng. * Đặc điểm phát triển của hệ thống thần kinh. Do hệ thống thần kinh là một hệ thống phát triển sớm của cơ thể, vì vậy ở lứa tuổi 14 -15 trọng lượng não của các em đã đạt mức từ 1460 gam đến 1470 gam tương đương với trọng lượng não của người trưởng thành. Chức năng của các trung khu như: Thị giác, thính giác, xúc giác, cảm giác, trung khu vận động ... tương đối hoàn thiện. Vì vậy các em có thể nhanh chóng học hỏi nâng cao tri thức và các kỹ năng của cuộc sống, trong đó có kỹ năng vận động thể thao. Cũng chính do hệ thống thần kinh được hoàn thiện tương đối nên ở lứa tuổi 14 -15 các em có thể hình thành tư duy trừu tượng và tư duy lô gíc. Quá trình hưng phấn và ức chế được cân bằng hơn. Tuy vậy cường độ quá trình hưng phấn vẫn cao hơn. Đó là điều kiện rất tốt để phát triển các tố chất thể lực nhất là sức mạnh, sức bền. Đồng thời cũng dễ dàng nắm vững được các kỹ thuật khó, tạo tiền đề cho việc nâng cao thành tích thể thao. * Đặc điểm phát triển của cơ quan vận động. Cơ quan vận động của cơ thể chủ yếu gồm cơ bắp, xương khớp và dây chằng. Về hệ xương: Do quá trình phát triển của cơ thể thường kéo dài tới 20 - 24 tuổi. Vì vậy ở tuổi 14 -15 vẫn còn ở trong thời kỳ phát triển mạnh của xương. Tuy vậy thành phần hữu cơ trong xương giảm dần và thành phần vô cơ tăng dần làm cho xương cứng và chịu tải tốt hơn. Ở lứa tuổi 14 -15 chiều cao trung bình hàng năm của nam chỉ khoảng 1,7 cm còn ở nữ thấp hơn. Hệ cơ: Nhìn chung ở giai đoạn 14 -15 sự phát triển của hệ cơ ở nam và nữ đều có xu hướng phát triển hoàn thiện các nhóm cơ nhỏ, tăng thiết diện các nhóm cơ lớn, các bó cơ trong quá trình luyện tập phát triển ngày một săn chắc hơn làm cho sức mạnh tăng lên. Riêng dây chằng và khớp của VĐV ở lứa tuổi này nếu không duy trì tập mềm dẻo thường xuyên hợp lý có thể làm cho linh hoạt khớp bị giảm xuống. Từ đó làm giảm biên độ động tác, thường xuyên luyện tập mức độ dẻo dai tăng đáng kể, nhất là các VĐV thể dục dụng cụ. * Đặc điểm phát triển hệ thống tim mạch. Ở tuổi 14 -15 tim phát triển to hơn, thành cơ tim dày lên, van tim phát triển tốt làm cho cơ tim bóp mạnh hơn làm cho cung lượng tim lớn hơn. * Đặc điểm phát triển hệ thống hô hấp. Ở tuổi 14 -15 hệ thống hô hấp đã phát triển gần đạt trình độ của người trưởng thành. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi. Đặc điểm nổi bật về tâm lý của lứa tuổi là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cả 2 nhân tố bên trong và bên ngoài. * Nhân tố bên trong: Gồm các yếu tố như sự khát vọng ham muốn hiểu biết, khám phá thế giới trong đó có sự thử sức với các hoạt động TDTT. Vì vậy TDTT đã có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với các em. * Nhân tố bên ngoài: Ở tuổi 14 -15 là giai đoạn các em luôn muốn thể hiện mình là "người lớn" nên mọi hành động của các em đều bắt chước người lớn. Chính điều này đã tạo ra động lực cho các em hưng phấn trong quá trình hoạt động, khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh. Ở tuổi 14 -15 quá trình nhận thức của các em cũng được nâng cao rõ rệt. Các em có thể nhận thức được cái hay, cái đẹp của sự vật, cái đúng, cái sai của một vấn đề một cách bản chất hơn. Tuy nhiên, những nhận thức này còn có tỷ lệ chuẩn mực chưa cao và độ sâu sắc chưa đạt mức của người trưởng thành. Tóm lại, sự phát triển và lớn lên về mặt sinh lý cũng là một quá trình làm cho tâm lý của các em được hoàn thiện. Quá trình phát triển về sinh lý và tâm lý của các em có tính giai đoạn. Nắm vững được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em để sử dụng các đối sách giảng dạy huấn luyện hợp lý là tiền đề của sự nâng cao hiệu quả giảng dạy huấn luyện của các giáo viên và huấn luyện viên thể thao. Vài nét về tình hình giảng dạy và học tập môn nhảy cao ở các trường trung học cơ sở: Nhảy cao là môn thể thao không đòi hỏi nhiều về trang thiết bị, kĩ thuật tương đối đơn giản, dễ phổ cập, phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, do đó nhảy cao là một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục thể chất. Trong các kì Hội Khỏe Phù Đổnghoc sinh giỏi TDTT từ cấp trường đến cấp quốc gia đều có thi đấu nhảy cao, các học sinh nói chung và các vận động viên nói riêng đã lập được những thành tích đáng khen ngợi. Tuy nhiên thành tích nhảy cao của học sinh nước ta so với thành tích của học sinh các nước trên thế giới còn ở mức chênh lệch quá lớn. Ở cấp Trung học cơ sở các em được làm quen và tập luyện với kĩ thuật nhảy cao ở mức độ đơn giản. Việc giảng dạy môn nhảy cao trong nhiều năm qua đã được chú trọng và đạt kết quả nhất định, song vẫn còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa mới đáp ứng được phong trào ngày càng mạnh mẽ. Để giảng dạy tốt hơn nữa môn nhảy cao cho học sinh, cần phải nắm chắc được đối tượng và không ngừng chọn lựa cải tiến, các biện pháp, nội dung giảng dạy cho phù hợp, gây ảnh hưởng tốt đến sự phát triển toàn diện các bộ phận cơ thể học sinh. Tác dụng của tập luyện môn nhảy cao trong trường học: Nhảy cao là một môn thể thao khá phổ biến, được nhiều người ưa thích và tham gia tập luyện. Tập luyện nhảy cao có tác dụng rất lớn trong việc phát triển các tố chất thể lực, nâng cao khả năng tập trung sức, tự chủ và rèn luyện lòng dũng cảm, tính kiên trì và khắc phục khó khăn trong rèn luyện. Thông qua các bài tập kĩ thuật của chạy đà và giậm nhảy, làm tăng cường và phát triển các tố chất sức nhanh, sức mạnh và sức mạnh tốc độ của người tập. Thực hiện tốt các kỹ thuật trên không và rơi xuống đất, đã rèn luyện được sự khéo léo, tính chính xác, nâng cao khả năng phối hợp vận động, giúp cho người tập nâng cao sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần, phục vụ đắc lực cho lao động sản xuất và chiến đấu. Sức mạnh và sức mạnh trong nhảy cao: Khái niệm về sức mạnh cho đến nay vẫn còn có những cách hiểu khác nhau. Nhưng theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn :“Tố chất sức mạnh có thể phân thành sức mạnh tuyệt đối, sức mạnh tương đối, sức mạnh tốc độ, sức mạnh bền”. trong đó: - Sức mạnh tuyệt đối là năng lực khắc phục lực cản lớn nhất. - Sức mạnh tương đối là sức mạnh tuyệt đối của vận động viên trên 1 kg thể trọng của họ. - Sức mạnh tốc độ là khả năng sinh lực trong các động tác nhanh. - Sức mạnh bền là năng lực khắc phục lực cản nhỏ trong thời gian dài. Bên cạnh đó, ở nhiều trường hợp còn gặp một dạng sức mạnh rất quan trọng được gọi là “sức mạnh bột phát”: Dạng sức mạnh này xuất hiện và giữ vai trò quan trọng trong các môn có hoạt động bật nhảy, được tính theo công thức. Trong đó I là chỉ số đánh giá sức mạnh, tốc độ hay sức mạnh bột phát, Fmax là lúc sức mạnh tối đa, Tmax là thời gian để đạt sức mạnh tối đa. Nhảy cao là nội dung nằm trong hệ thống các môn không có chu kỳ, gồm nhiều động tác liên kết lại với nhau, thành một kỹ thuật hoàn chỉnh, người ta chia thành 4 giai đoạn: chạy đà, giậm nhảy, tư thế bay trên không và tiếp đất. Trong bốn yếu tố đó, yếu tố giậm nhảy có ảnh hưởng nhiều nhất tới việc hình thành kỹ thuật động tác và quyết định thành tích ở môn này. Nhưng khâu giậm nhảy lại có quan hệ rất lớn với tốc độ chạy đà, thời gian chống đỡ khi giậm nhảy, góc độ giậm nhảy Như vậy, có thể thấy sức mạnh trong nhảy cao là dạng sức mạnh hỗn hợp, mà ta có thể phân ra một cách tương đối, gắn liền với quá trình thực hiện kỹ thuật bao gồm: - Sức mạnh tốc độ: Dạng sức mạnh này thể hiện trong động tác chạy đà. - Sức mạnh bột phát: Dạng sức mạnh thể hiện trong động tác giậm nhảy (sức bật). Theo “Tính chu kỳ trong huấn luyện thể thao” hầu hết các môn thể thao đều cần sức mạnh, những tố chất sức mạnh cần thiết cho từng môn thể thao khác nhau gọi là sức mạnh đặc thù của môn nào đó. Sức mạnh tối đa đóng vai trò quan trọng nếu không nói là quyết định trong việc tạo ra sức mạnh đặc thù của môn thể thao. 5. Yếu tố quyết định đến độ cao một lần nhảy. Để người tập có được một thành tích tốt khi thực hiện các kỹ thuật nhảy cao thì ngoài các yếu tố chủ quan như là chiều cao, thể lực tốt thì ta cần phải quan tâm chú ý đến việc giáo dục các tố chất vận động cho họ. Đặc biệt là sức mạnh tốc độ của chân để phục vụ cho giai đoạn dậm nhảy được tốt, phải lựa chọn áp dụng các bào tập có lượng vận động tác động lớn đến cơ thể, ưu tiên đến sự phát triển các nhóm cơ ở chân để cho người tập có được một sức bật tốt nhất trong nhảy cao nói riêng và các môn thể thao khác nói chung. Tóm lại những vấn đề lý luận, sinh lý cũng như các yếu tố quyết định thành tích nhảy cao nêu trên là cơ sở ban đầu để xác định hướng tác động, lựa chọn áp dụng các bài tập
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bai_tap_bo_tro_nham_nang_cao_thanh_tich_nhay_cao.doc