SKKN Kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy Chuyên đề “Xác suất của biến cố” nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh các lớp 11A1, 11A2, 11A3 trường THPT Quan Sơn 2

SKKN Kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy Chuyên đề “Xác suất của biến cố” nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh các lớp 11A1, 11A2, 11A3 trường THPT Quan Sơn 2

Trong nhiều năm gần đây, nền giáo dục đang có nhiều thay đổi và chuyển biến rất mạnh mẽ như: Điều chỉnh nội dung môn học, giảm tải chương trình môn học. Thay đổi cách đánh giá học sinh, thay đổi cách thi cử, tuyển sinh, thay đổi môn thi, thay sách giáo khoa, thay đổi ban học và sắp tới áp dụng trương trình giáo dục tổng thể.chính sự chuyển biến đó đòi hỏi học sinh phải thay đổi cách học đồng thời kéo theo giáo viên cũng phải tự thay đổi cách dạy cho phù hợp. Đặc biệt bộ giáo dục đang đề xuất phương án dạy học tích hợp nhiều môn học cho một chủ đề dạy học. Để làm được điều đó đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian tự trau dồi chuyên môn để có kiến thức tổng hợp của nhiều môn học mới đáp ứng được yêu cầu trong quá trình dạy học. Thực tế số giáo viên có tâm huyết về chủ đề tích hợp rất ít. Vì những khó khăn như vậy nên các tài liệu viết về các chủ đề tích hợp trong môn toán đang còn rất hạn chế về số lượng và chất lượng. Điều này gây khó khăn cho việc áp dụng trương trình giáo dục tổng thể của bộ giáo dục.

doc 20 trang thuychi01 7274
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy Chuyên đề “Xác suất của biến cố” nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh các lớp 11A1, 11A2, 11A3 trường THPT Quan Sơn 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong nhiều năm gần đây, nền giáo dục đang có nhiều thay đổi và chuyển biến rất mạnh mẽ như: Điều chỉnh nội dung môn học, giảm tải chương trình môn học. Thay đổi cách đánh giá học sinh, thay đổi cách thi cử, tuyển sinh, thay đổi môn thi, thay sách giáo khoa, thay đổi ban học và sắp tới áp dụng trương trình giáo dục tổng thể...chính sự chuyển biến đó đòi hỏi học sinh phải thay đổi cách học đồng thời kéo theo giáo viên cũng phải tự thay đổi cách dạy cho phù hợp. Đặc biệt bộ giáo dục đang đề xuất phương án dạy học tích hợp nhiều môn học cho một chủ đề dạy học. Để làm được điều đó đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian tự trau dồi chuyên môn để có kiến thức tổng hợp của nhiều môn học mới đáp ứng được yêu cầu trong quá trình dạy học. Thực tế số giáo viên có tâm huyết về chủ đề tích hợp rất ít. Vì những khó khăn như vậy nên các tài liệu viết về các chủ đề tích hợp trong môn toán đang còn rất hạn chế về số lượng và chất lượng. Điều này gây khó khăn cho việc áp dụng trương trình giáo dục tổng thể của bộ giáo dục.
Hơn nữa, môn Toán học là môn học vô cùng khó với học sinh miền núi nơi tôi công tác. Trong thâm tâm các em thường sợ học môn toán bởi các lí do như sau: Một là môn toán đòi hỏi tư duy cao, học sinh không chỉ nhớ kiến thức đã học mà còn phải biết vận dụng kiến thức đó một cách thành thạo. Hai là các em cho rằng môn toán là môn học khô khan, đơn thuần chỉ là các phép tính máy móc với những con số nên không tạo được hứng thú cho các em khi học. Ba là các em thấy học toán không có tác dụng nhiều cho học môn khác và không ứng dụng được nhiều vào cuộc sống. Chính những suy nghĩ đó của các em nên nơi tôi công tác chất lượng giáo dục môn toán vô cùng thấp. Các em chọn những khối học thường không liên quan đến môn toán (tránh né môn toán). Là giáo viên dạy toán bản thân tôi rất trăn trở trước thực trạng như vậy của giáo dục miền núi. Vì vậy, để nâng cao được chất lượng giáo dục miền núi nói chung, giáo dục môn toán nói riêng trước hết phải làm thông tư tưởng học sinh. Từ đó các em có thái độ yêu thích môn toán và thấy được vai trò của môn toán với môn học khác và cuộc sống. Để làm được điều này theo tôi phải xây dựng một chương trình giáo dục tích hợp toán học với môn học khác và thực tế cuộc sống để giáo dục các em. Trước yêu cầu thực tế trên bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy mạnh dạn lựa chọn đề tài: Kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy chuyên đề “Xác suất của biến cố” nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh các lớp 11A1, 11A2, 11A3 trường THPT Quan Sơn 2. Để cung cấp tài liệu cho đồng nghiệp trong trường và kiến thức cho học sinh về dạy học tích hợp. Từ đó nâng cao chất lượng giáo dục đặc biệt là giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nhà trường và rút ra những kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình dạy học.
	Hiện tại, việc vận dụng kiến thức liên môn dạy chuyên đề "Xác suất của biến cố" chưa có nhiều đồng nghiệp nghiên cứu nên tài liệu viết về chủ đề này còn rất hạn chế. Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục môn toán nói chung, giáo dục môn toán ở các huyện miền núi nói riêng, việc nghiên cứu đề tài vận dụng kiến thức liên môn dạy chuyên đề "Xác suất của biến cố" là rất cần thiết. Chủ đề này mới là bước đầu trong chuyên đề dạy học tích hợp liên môn. Tôi rất mong hội đồng khoa học các cấp đóng góp ý kiến để sáng kiến được hoàn thiện hơn. Đồng thời để sáng kiến là cơ sở cho nghiên cứu các chủ đề tích hợp tiếp theo.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Giúp các em rèn luyện tốt khả năng tư duy toán học, tư duy logic, thảo luận nhóm, thu thập thông tin, phân tích các đại lượng, liên quan đến bài toán thực tế. Biết vận dụng kiến thức liên môn trong giải quyết vấn đề. Nâng cao chất lượng giáo dục môn toán của nhà trường.
Sáng kiến còn là tài liệu cho các đồng nghiệp tham khảo. Là cơ sở ban đầu để nghiên cứu các chủ đề tích hợp liên môn sau này.
Rèn luyện học sinh kĩ năng sống: Học sinh biết phải sống thế nào cho phù hợp, sống cho đúng chuẩn mực không tham ra các tệ nạn xã hội, tránh lối sống ảo. Phát triển ở học sinh những năng lực phẩm chất trí tuệ góp phần tích cực vào việc giáo dục tư tưởng đạo đức thẩm mỹ của người công dân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
	Vận dụng kiến thức các môn học: Sinh học, hóa học, vật lí, thể dục, giáo dục công dân, bài toán thực tế dạy chủ đề "xác suất của biến cố" nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
	Áp dụng cho học sinh lớp 11A1, 11A2, và 11A3 trường THPT Quan Sơn 2 năm học 2016 - 2017.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
* Phương pháp xây dựng cơ sở lý thuyết.
	Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm trắc công thức xác suất của biến cố và các tính chất của nó thông qua các bài toán thực tế. 
	Khi đã nắm trắc lí thuyết mới cho học sinh luyện tập làm các bài tập suất phát từ các môn học khác và cuộc sống từ đó giáo dục kĩ năng sống cho các em.
	Sau khi luyện tập thành thạo tôi cho học sinh làm bài kiểm tra năng lực.
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin sử lý số liệu.
	Trong quá trình nghiên cứu liên quan đến kiến thức các môn học khác như: Sinh học, hóa học, vật lí, thể dục, giáo dục công dân, bài toán thực tế. Tôi phải tìm hiểu nghiên cứu tài liệu về các môn đó để tìm ra mối liên hệ cần thiết cho quá trình dạy học.
	Sau khi kiểm tra tôi phải sử lí các số liệu thu thập được để có kết quả dạy học của chuyên đề. 
* Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế lớp học.
	Trong quá trình dạy học việc kiểm tra khảo sát lớp học là cần thiết nhằm so sánh khả năng nắm bắt thông tin và năng lực tiếp thu của từng lớp.
* Phương pháp tổng kết kinh nghiệm và trao đổi với đồng nghiệp từ các buổi sinh hoạt chuyên môn.
	Trước và sau khi thực tiễn đề tài cần trao đổi thông tin từ các đồng nghiệp, lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp. Để nâng cao hiệu quả của đề tài và hoàn thiện đề tài hơn.
* Điều tra để tìm hiểu vấn đề qua bài kiểm tra và phiếu học tập.
	Thông qua các bài kiểm tra và phiếu học tập để kiểm tra năng lực của học sinh từ đó phân định rõ đối tượng học sinh để có biện pháp rèn luyện phù hợp.
II. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
	Trong dạy học tích hợp liên môn được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các môn học trong các lĩnh vực học tập khác nhau thành một môn tổng hợp mới. Hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của môn học. Như vậy, thông qua dạy học tích hợp liên môn thì những kiến thức, kĩ năng học được ở các môn này có thể sử dụng như những công cụ để nghiên cứu, học tập các môn học khác cụ thể trong kiến thức cần sử dụng từng môn như sau.
+ Với môn Toán: Học sinh nắm được các nội dung bài 5: “Xác suất của biến cố”
- Học sinh nắm được công thức xác suất của biến cố, biết vận dụng công thức. 
- Hiểu và vận dụng tính chất của xác suất vào giải toán.
- Nắm được công thức cộng và công thức nhân xác suất.
+ Liên hệ với môn Hóa học: Liên hệ đến bài 4 “Phản ứng trao đổi ion trong dung dịch các chất điện li (khối 11). Học sinh cũng cố được điều kiện để phản ứng hóa học xảy ra là phải có chất kết tủa và chất bay hơi hay chất điện ly yếu. Thông qua đó học sinh biết cách viết phản ứng hóa học.
+ Liên hệ với môn Vật lý: Liên hệ đến bài 3 “Điện trường và cường độ điện trường đường sức điện” (khối 11). Học sinh biết khi nào có cường độ điện trường và khi nào cường độ điện trường cùng phương, cùng chiều.
+ Liên hệ với môn Sinh học: Liên hệ bài 5 “ Axít nuclêích” (khối 10). Học sinh hiểu được khả năng xuất hiện từng loại nuclêôtit và khả năng xuất hiện từng bộ ba kết thúc trong phân tử ARN.
+ Liên hệ với môn Thể dục: Giáo dục cho học sinh nên chọn cặp đôi thi đấu như thế nào cho tốt nhất phù hợp với năng lực của học sinh.
+Liên hệ với môn GDCD: Giáo dục học sinh ý thức kĩ luật, ý thức học tập đặc biệt giáo dục học sinh kĩ năng sống cho đúng, cho phù hợp. Không xa vào các tệ nạn xã hội như: Mê tín dị đoan, bài bạc, lô đề.
+ Liên hệ với thực tế cuộc sống: 
- Bài toán gieo đồng xu hai lần thì khả năng xuất hiện mặt “SN” bằng 50% là cao. Như vậy, giải thích cho học sinh trong thực tế các thầy cúng đã chọn phương án thành công khi gieo hai đồng xu là cao và việc làm của thầy cúng chỉ là bài toán xác suất không nên quá tin vào kết quả dẫn đến mê tín dị đoan tin vào thần phật dẫn đến có lối sống ảo.
- Bài toán gieo con xúc sắc thì khả năng xuất hiện mỗi mặt bằng 1/6 là rất thấp điều, này giải thích trong thực tế nhều xòng bạc tổ chức trò chơi “xóc đĩa” chủ xòng bạc giầu lên nhanh chóng. Tức là các con bạc đã khuynh gia bại sản lâm vào cảnh khốn cùng khi chơi trò này. Là học sinh các em không những phải tránh mà phải tuyên truyền người thân cần tránh trò chơi làm giàu bất chính này.
- Bài toán về sổ số kiến thiết là trò chơi “ích nước lợi nhà” nên vẫn được mở thưởng hàng ngày. Nhưng trong thực tế nhiều người chọn hai con số cuối trong giải đặc biệt để treo thưởng 1 ăn 70 gọi là “chơi đề” mà xác suất trúng đề bằng 0.01 là thấp đã có nhiều người tan cửa, nát nhà vì trò chơi này. Bài toán này giáo dục học sinh kĩ năng sống không tham ra các tệ nạn xã hội đặc biệt là “chơi đề”.
2.2. Thực trạng đề tài trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Thực tế tài liệu viết về chủ đề xác suất của biến cố rất nhiều, nhưng vận dụng kiến thức liên môn viết về chủ đề này để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thì chưa có người đề cập đến. Hơn nữa thực tế số giáo viên toán trong trường chưa nghiên cứu sâu về đề tài này, nên hiệu quả khi dạy đến mảng kiến thức về xác suất của biến cố chưa cao. Chính vì vậy, dẫn đến học sinh rất lúng túng khi gặp các bài tập này trong các kì thi.
Thực trạng trường THPT Quan Sơn 2 năng lực học sinh rất thấp, khả năng tư duy sáng tạo của các em còn nhiều hạn chế. Nên khi học chỉ một mình môn toán các em khó nắm bắt được nội dung bài học. Chính vì vậy, phương pháp dạy học tích hợp liên môn trong môn toán phù hợp với các em. Điều này được thể hiện rõ trong kết quả khảo sát trước và sau khi áp dụng đề tài vào dạy học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Các giải pháp đã sử dụng:
* Giải pháp xây dựng cơ sở lý thuyết:
Giáo viên trình bày nội dung lý thuyết về xác suất của biến cố: Định nghĩa, các tính chất. Để học sinh nắm rõ bản chất và nguồn gốc của vấn đề đang làm từ đó giúp các em hiểu sâu hơn, nắm trắc vấn đề hơn là tiền đề khêu gợi năng lực tư duy sáng tạo ở mỗi học sinh.
Thông qua các ví dụ cụ thể liên quan đên môn học khác và thực tế để giải quyết vấn đề từ đó giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
* Giải pháp điều tra, khảo sát thực tế lớp học:
Giáo viên thông qua các bài tập mẫu phân tích và hướng dẫn các em áp dụng lý thuyết để học sinh nắm trắc lý thuyết hơn và bước đầu vận dụng làm bài tập. Cho học sinh tự rèn luyện bài tập.
* Giải pháp điều tra để tìm hiểu vấn đề qua bài kiểm tra và phiếu đánh giá:
Giáo viên cho học sinh làm bài kiểm tra, đánh giá năng lực tiếp thu, vận dụng kiến thức sáng tạo của học sinh. Từ đó có biện pháp điều chỉnh phương pháp dạy cho phù hợp.
* Giải pháp tổng kết kinh nghiệm, trao đổi với đồng nghiệp từ các buổi sinh hoạt chuyên môn: Giáo viên thu thập phân tích số liệu thống kê cùng trao đổi với đồng nghiệp, lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng nghiệp và tự rút kinh nghiệm để hoàn thành sáng kiến của mình.
2.3.2. Giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề.
2.3.2.1. Phương pháp chung để giải quyết vấn đề.
Học sinh biết vận dụng kiến thức các môn Sinh học, Hóa học, vật lí, thể dục, GDCD. Cũng như các bài toán thực tế để giải quyết các nội dung trong bài xác suất như:
- Tính xác suất của biến cố A theo công thức: .
- Nắm được các tính chất của xác suất. 
 a) 
 b) Với mọi biến cố A: 
 c) Với mọi biến cố A: 
- Nắm được công thức cộng xác suất. 
	Nếu A,B xung khắc thì: 
- Nắm được công thức nhân xác suất. 
	Nếu A,B là các thì biến cố độc lập thì: P(A.B) = P(A).P(B)
2.3.2.2. Phương pháp cụ thể để giải quyết vấn đề.
	Tôi cho 3 lớp 11A1, 11A2 và 11A3 học tập trung theo hình thức hoạt động ngoại khóa. Giáo viên dạy đưa ra tình huống có vấn đề cho học sinh hai lớp vấn đáp, tranh luận đối thoại trực tiếp với nhau. Trong quá trình tranh luận có gì chưa hiểu, còn thắc mắc thì đối thoại trực tiếp với giáo viên trình bày.
Xây dựng cơ sở lý thuyết
Hoạt động 1: Bài toán thực tế hình thành định nghĩa xác suất: 
Học sinh H đang chơi trò chơi cá ngựa “Gieo ngẫu nhiên một con súc sắc cân đối đồng chất một lần” em hãy xác định:
- Khả năng bạn H gieo con xúc sắc xuất hiện mỗi mặt là bao nhiêu?
- Khả năng bạn H gieo con xúc sắc xuất hiện mặt lẻ là bao nhiêu?
- Thực tế có nhiều người lợi dụng trò chơi dân gian này để tổ chức đánh bạc: Lúc này không phải gieo một con xúc sắc mà có thể hai hoặc ba con xúc sắc vậy theo em khả năng cả hai hoặc ba con xúc sắc xuất hiện mặt lẻ có cao không? Em có suy nghĩ gì về trò chơi này?
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
Nội dung
+ GV trình chiếu hình ảnh minh họa về trò chơi cá ngựa và hình ảnh con xúc sắc.
+ yêu cầu học sinh quan sát và trả lời các câu hỏi:
GV: Gọi A là biến cố: “con xúc sắc xuất hiện mặt lẻ” 
- Khả năng xuất hiện của mỗi mặt là?
- Khả năng xảy ra biến cố A là bao nhiêu? Đó chính xác suất của biến cố A.
- Xác suất của biến cố là?
- HS quan sát, lắng nghe: 
+ HS cả lớp theo dõi hình ảnh minh họaànhận thức vấn đề cần nghiên cứu. 
+ Cá nhân HS trả lời câu hỏi nêu ra:
- Con xúc sắc có thể xuất hiện các mặt: 1 chấm, 2 chấm, 3 chấm, 4 chấm, 5 chấm, 6 chấm.
- Khả năng xuất hiện mồi mặt là: 1/6.
- Khả năng xuất hiện mặt lẻ là: 3/6
- Học sinh tự nêu.
1. Định nghĩa cổ điển của xác suất.
- Không gian mẫu là 
- Khả năng xuất hiện mỗi mặt là: 
- Biến cố A ={1,3,5} thì khả năng xảy ra của A là: 
Số này gọi là xác suất của biến cố A kí hiệu là P(A)
Vậy 
* Định nghĩa: SGK
TRÒ CHƠI CÁ NGỰA
HÌNH ẢNH CHƠI ĐÁNH BẠC
HÌNH ẢNH CASINO ĐÁNH BẠC
TRÒ CHỎI CÁ NGỰA DÂN GIAN
* Giáo viên: Từ bài toán trên các em thấy khả năng xuất hiện mặt lẻ của 1 con xúc sắc là 0,5 nếu các chủ xòng bạc sử dụng đến 2 hoăc 3 con xúc sắc thì khả năng xuất hiện của các con xúc sắc còn thấp hơn rất nhiều. Điều này giải thích vì sao các con bạc luôn bị thua trắng tay. Chính vì vậy các em không nên tham gia các trò chơi đánh bạc này và cần phải tuyên truyền cho gia đình người thân
bản chất lừa bịp của trò chơi này.
Họat động 2: Bài toán thực tế luyện tập: Trong một lần bạn H đi chùa cùng mẹ thầy cúng dùng hai đồng xu gieo ngẫu nhiên một lần lên đĩa nếu hai đồng có 1S,1N là thành công còn các trường hợp khác không thành công. 
a. Em hãy xác định tỉ lệ khả năng thành công là bao nhiêu?
b. Em có suy nghĩ gì về việc làm trên của thầy cúng? Theo em chúng ta có nên tin vào kết quả phán của thầy cúng không?
c. Trong thực tế có rất nhiều người cũng dùng hai hoặc bốn tấm bìa dạng hình tròn như đồng xu tổ chức trò chơi gọi là “xóc đĩa” đen đỏ và nhiều con bạc đã tan cửa nát nhà vì trò chơi này. Em có suy nghĩ gì về trò chơi này?
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Nội dung
GV: Việc thầy cúng gieo hai đồng xu một lần cũng như bài toán xác suất “ gieo một đồng xu cân đối đồng chất hai lần”
CH1: Xác định không gian mẫu? Tìm ?
CH2: Xác định biến cố A: “Mặt sấp suất hiện đúng một lần” tức là đó là khả năng mà thầy cúng coi là thành công sau mỗi lần gieo?
CH3: Nên n(A)=?
CH4: Tính P(A)=?
HS: Lắng nghe thầy phân tích bài toán.
- HS trả lời:
-HS trả lời:
+ 
+ Ta có không gian mầu là: 
a. Biến cố 
theo định nghĩa ta có: 
b. Như vậy, xác suất thành công là cao chiếm 50%. Việc làm của thầy cúng bản chất chỉ là bài toán xác suất nên chúng ta không nên quá tin vào kết luận của thầy cúng, tránh bị kéo theo tệ nạn mê tín dị đoan, bị lôi kéo theo lối sống ảo. Bằng kiến thức đã học giải thích cho người chơi bản chất của vấn đề.
c. Trong thực tế tình trạng cờ bạc dưới hình thức “xóc đĩa” diễn ra rất nhiều trong xã hội đã có nhiều người mất cả gia sản, sự nghiệp lâm vào cảnh khốn cùng: Tan cửa nát nhà, tù tội.vì trò chơi trên. Bản chất của trò chơi chỉ là bài toán xác suất nhưng chủ cái dùng nhiều đồng xu để tỉ lệ khả năng thành công là thấp nên phần thắng thường thuộc về nhà cầm cái. Vì vậy trò chơi cờ bạc như trên cần được lên án. Các em là học sinh có tránh nhiệm bản thân cần tránh xa trò chơi đồng thời bằng kiến thức đã học tuyên truyền đến người thân tác hại của trò chơi và nếu cố tình tham gia trò chơi là vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật chừng trị.
HÌNH ẢNH CHƠI XÓC ĐĨA
HÌNH ẢNH HỌC SINH CHƠI XÈNG
Họat động 3: Xây dựng tính chất của xác suất.
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Nội dung
GV: Hướng dẫn học sinh xây dựng định lí.
CH1: Số phần tử của tập rỗng là bao nhiêu? Nên 
CH2: Số phần tử của là bao nhiêu? Nên 
CH3: Vì nên P(A) thuộc đoạn nào?
CH4: Tính 
CH5: Nếu A, B xung khắc thì 
CH6: Nếu A, B độc lập thì 
P(A.B) = ?
GV: Chốt lại nội dung chính.
HS: Lắng nghe giáo viên giải thích và trả lời câu hỏi:
+ HS trả lời: 
+ HS trả lời:
+ HS rút ra:
P(A.B) = P(A).P(B)
2. Tính chất của xác suất.
* Định lí: 
a) 
b) Với biến cố A: 
c) Với biến cố A: 
* Công thức nhân, cộng Xác suất:
+ Nếu A,B xung khắc thì 
+ Nếu A,B là các thì biến cố độc lập thì: P(A.B) = P(A).P(B)
LUYỆN TẬP VÀ THẢO LUẬN
Họat động 4: Bài toán sinh học:
 Trong ống nghiệm có tỉ lệ 4 loại nuclêôtít: A, U, G, X với tỉ lệ lần lượt là: A:U:G:X = 2:1:3:2. Từ 4 loại nuclêôtit người ta tổng hợp nên một phân tử ARN nhân tạo. Theo lý thuyết trên phân tử ARN này xác suất xuất hiện bộ ba kết thúc là bao nhiêu?
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Nội dung
CH1: Kiến thức sinh học: trên phân tử mARN có ba bộ ba kết thúc là: UAA; UAG; UGA vì vậy cần tính tỉ lệ 3 loại nuclêôtít A, U, G có trong các bộ này:
- Tỉ lệ của nuclêôtít loại A là: 
- Tỉ lệ của nuclêôtít loại U là: 
- Tỉ lệ của nuclêôtít loại G là: 
GV: Vì khả năng xuất hiện các nuclêôtit trong các bộ ba là độc lập nên theo công thức nhân xác suất ta có xác suất xuất hiện từng bộ ba kết thúc là: 
CH3: Áp dụng công thức cộng xác suất ta có xác suất xuất hiện bộ ba kết thúc là?
- HS trả lời:
- HS tự lên làm
- Xác suất xuất hiện bộ ba kết thúc là: 
* Tìm tỉ lệ của các loại nuclêôtít liên quan đến bộ ba cần tính xác suất trên mARN có ba bộ ba kết thúc là: UAA; UAG; UGA vì vậy cần tính tỉ lệ 3 loại nuclêôtít A, U, G có trong các bộ này:
- Tỉ lệ của nuclêôtít loại A là: 
- Tỉ lệ của nuclêôtít loại U là: 
- Tỉ lệ của nuclêôtít loại G là: 
* Tính xác suất xuất hiện từng bộ ba kết thúc:
- Xác suất xuất hiện bộ ba UAA là: 
- Xác suất xuất hiện bộ ba UAG là: 
- Xác suất xuất hiện bộ ba UGA là: 
* Theo công thức cộng xác suất thì xác suất xuất hiện bộ ba kết thúc là: 
Vậy trong phân tử ARN nhân tạo này trung bình cứ 32 bộ ba thì có một bộ ba kết thúc.
Họat động 5: Bài toán Hóa học: 
 Cho 6 dung dịch: NaNO3; Ba(OH)2; Fe2(SO4)3; Na2SO4; CuCl2; AgNO3 đựng trong 6 ống nghiệm. Làm thí nghiệm lấy lần lượt hai ống nghiệm đổ vào nhau, quan sát hiện tượng. Tính xác suất để được các lần thí nghiệm có phản ứng xảy ra?
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Nội dung
CH1: Mỗi lần thí nghiệm là một khả năng xảy ra vậy không gian mẩu là tổng số lần thực hiện nên tính: 
+ Giáo viên:
- Gọi biến cố A “Số lần thực hiện có phản ứng xảy ra”
- HS trả lời: Số phần tử của không gian mẫu là:
- HS trả lời: Có 5 phản ứng xảy ra là:
+ Vì mỗi lần thí nghiệm lấy 2 ống nghiêm thực hiện nên tổng số lần thực hiện là: 
+ Gọi biến cố A “Số lần thực hiện có phản ứng xảy ra” 
- Ta có 5 lần thực hiện xảy ra phản ứng nên 
n(A) = 5.
+ Vậy xác suất có biến cố A là:
* GV Hướng dẫn HS làm thí nghiệm và sử dụng kiến thức hóa học chỉ ra có những trường hợp nào xảy ra phản ứng. Viết PT phản ứng?
PƯ1: 3Ba(OH)2+Fe2(SO4)3 ->2Fe(OH)3 + 3BaSO4
 (nâu) (trắng)
PƯ2: Ba(OH)2 +Na2SO4 -> BaSO4 + 2NaOH
 	 (trắng)
PƯ3: CuCl2+ Ba(OH)2 -> Cu(OH)2 + BaCl2
 (xanh lam)
PƯ4: 
2AgNO3 + Ba(OH)2 -> Ag2O + Ba(NO3)2 + H2O
 (đen)
PƯ5: CuCl2 + 2AgNO3 -> 2AgCl + Cu(NO3)2	
 (đen)
CH2: Tính n(A) = ?
CH3: Tính P(A) =?
HÌNH ẢNH HỌC SINH LỚP 11A1 LÀM THÍ NGHIỆM HÓA HỌC
* Giáo viên kết luận: Bài toán này đòi hỏi học sinh phải biết làm thí nghiệm và quan sát hiện tượng của phản ứng hóa học

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_van_dung_kien_thuc_lien_mon_vao_giang_day_c.doc