SKKN Hướng dẫn học sinh ôn thi tốt nghiệp thptqg đạt kết quả cao trong môn Địa lí ở trường THPT hiện nay

SKKN Hướng dẫn học sinh ôn thi tốt nghiệp thptqg đạt kết quả cao trong môn Địa lí ở trường THPT hiện nay

Chúng ta đã biết học gì thi ấy, thi gì học ấy, đây chỉ là quan niệm của một số người, hiểu như thế nào thì tùy ở mỗi người. Đối với môn Địa lí là một môn khoa học xã hội và khoa học thực nghiệm, nhiều khái niệm ta tưởng dễ dàng và đơn giản với giáo viên và học sinh.

Nhưng thực tế thì học sinh lại rất lúng túng, nhiều học sinh không thể nắm chắc được các khái niệm cơ bản dẫn đến không vận dụng được kiến thức vào học tập, nhất là với việc thi tự luận thay vào bởi thi trắc nghiệm như hiện nay. Vì vậy tôi nhận thấy để học sinh học được bộ môn Địa lí hiệu quả, thi hiệu quả và có hứng thú tìm tòi khám phá chủ động trong học tập, vấn đề bài giảng như thế nào ? nhất là Giáo viên phải nghiên cứu soạn bài học (Giáo án) một cách khoa học phù hợp với đối tượng học thì điểm số mới cao trong kì thi TNTHPTQG hiện nay. Rõ ràng vấn đề này là của giáo viên, đó là cách đổi mới phương pháp trong giảng dạy, phải thiết kế nội dung phù hợp để đánh giá được năng lực của từng đối tượng học sinh trước khi triển khai nội dung bài học mới có hiệu quả cao. Làm được như vậy chắc rằng khả năng tiếp thu của học sinh sẽ tốt hơn. Làm cho học sinh ngày càng thêm chăm chỉ, say sưa học tập, khát khao hiểu biết và rèn luyện tu dưỡng học tập tốt hơn. Vậy nội dung đánh giá, phân loại học sinh phải dựa trên cơ sở quan niệm về tính tích cực hoá hoạt động của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình thực hiện thông qua:

“ Hướng dẫn học sinh ôn thi Tốt nghiệp THPTQG đạt kết quả cao trong môn Địa Lí ở trường THPT hiện nay” giáo viên triển khai những cuộc thăm dò, trắc nghiệm (Tets)và đàm thoại (Xêmina) giữa thầy và trò, giữa trò với nhau rất sinh động, hấp dẫn và bổ ích, cũng như dạt kết quả mong đợi.

Trước tình hình đó bộ môn cũng đã tổ chức cải cách, đổi mới giảng dạy, cải tiến và đổi mới phương pháp, tổ chức cho giáo viên dạy Địa lí - học tập nghiên cứu các chuyên đề, tổ chức họp Soạn bài theo nghiên cứu bài học, thao giảng dự giờ, góp ý xây dựng để có hiệu quả trong giảng dạy cao hơn.

Qua giảng dạy thực tế, tôi đã có những kết quả nhất định trong bộ môn. Vậy tôi chọn nội dung sau đây để nói lên một phần kinh nghiệm mà bản thân đã thực hiện, cụ thể nội dung cơ bản sau: “ Hướng dẫn học sinh ôn thi Tốt nghiệp THPTQG đạt kết quả cao trong môn Địa Lí ở trường THPT hiện nay ”.

 

doc 24 trang thuychi01 15745
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh ôn thi tốt nghiệp thptqg đạt kết quả cao trong môn Địa lí ở trường THPT hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT MAI ANH TUẤN - NGA SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 HƯỚNG DẪN HỌC SINH ÔN THI TỐT NGHIỆP THPTQG ĐẠT KẾT QUẢ CAO TRONG MÔN ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY 
 Họ và tên: Hàn Thanh Hạnh
 Chức vụ: Tổ trưởng 
 SKKN thuộc lĩnh vực: Địa lí 
THANH HÓA, NĂM 2018
Mục lục
 Trang
1. Mở đầu ..3
1.1. Lí do chọn đề tài 3 - 4
1.2. Mục đích nghiên cứu .4
1.3. Đối tượng nghiên cứu.4
1.4. Phương pháp nghiên cứu4 -5
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.5
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...............5
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm ............5-6
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm..6-7-8
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..8,9,10,11,12 - 13
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường14 -15
3. Kết luận, kiến nghị..16
- kết luận..17
-Kiến nghị.18,19,20
 Tài liệu tham khảo..21
1. Mở đầu:
Chúng ta đã biết học gì thi ấy, thi gì học ấy, đây chỉ là quan niệm của một số người, hiểu như thế nào thì tùy ở mỗi người. Đối với môn Địa lí là một môn khoa học xã hội và khoa học thực nghiệm, nhiều khái niệm ta tưởng dễ dàng và đơn giản với giáo viên và học sinh.
Nhưng thực tế thì học sinh lại rất lúng túng, nhiều học sinh không thể nắm chắc được các khái niệm cơ bản dẫn đến không vận dụng được kiến thức vào học tập, nhất là với việc thi tự luận thay vào bởi thi trắc nghiệm như hiện nay. Vì vậy tôi nhận thấy để học sinh học được bộ môn Địa lí hiệu quả, thi hiệu quả và có hứng thú tìm tòi khám phá chủ động trong học tập, vấn đề bài giảng như thế nào ? nhất là Giáo viên phải nghiên cứu soạn bài học (Giáo án) một cách khoa học phù hợp với đối tượng học thì điểm số mới cao trong kì thi TNTHPTQG hiện nay. Rõ ràng vấn đề này là của giáo viên, đó là cách đổi mới phương pháp trong giảng dạy, phải thiết kế nội dung phù hợp để đánh giá được năng lực của từng đối tượng học sinh trước khi triển khai nội dung bài học mới có hiệu quả cao. Làm được như vậy chắc rằng khả năng tiếp thu của học sinh sẽ tốt hơn. Làm cho học sinh ngày càng thêm chăm chỉ, say sưa học tập, khát khao hiểu biết và rèn luyện tu dưỡng học tập tốt hơn. Vậy nội dung đánh giá, phân loại học sinh phải dựa trên cơ sở quan niệm về tính tích cực hoá hoạt động của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình thực hiện thông qua: 
“ Hướng dẫn học sinh ôn thi Tốt nghiệp THPTQG đạt kết quả cao trong môn Địa Lí ở trường THPT hiện nay” giáo viên triển khai những cuộc thăm dò, trắc nghiệm (Tets)và đàm thoại (Xêmina) giữa thầy và trò, giữa trò với nhau rất sinh động, hấp dẫn và bổ ích, cũng như dạt kết quả mong đợi.
Trước tình hình đó bộ môn cũng đã tổ chức cải cách, đổi mới giảng dạy, cải tiến và đổi mới phương pháp, tổ chức cho giáo viên dạy Địa lí - học tập nghiên cứu các chuyên đề, tổ chức họp Soạn bài theo nghiên cứu bài học, thao giảng dự giờ, góp ý xây dựng để có hiệu quả trong giảng dạy cao hơn.
Qua giảng dạy thực tế, tôi đã có những kết quả nhất định trong bộ môn. Vậy tôi chọn nội dung sau đây để nói lên một phần kinh nghiệm mà bản thân đã thực hiện, cụ thể nội dung cơ bản sau: “ Hướng dẫn học sinh ôn thi Tốt nghiệp THPTQG đạt kết quả cao trong môn Địa Lí ở trường THPT hiện nay ”.
1.1. Lí do chọn đề tài.
 Như chúng ta đã biết trong toàn bộ hệ thống nền giáo dục Việt Nam nói chung, tổ chức của các trường học nói riêng trong đó có hệ thống trường Trung học phổ thông, về cơ bản là để tổ chức giảng dạy và giáo dục học sinh phát triển năng lực một cách toàn diện. Vậy để giảng dạy học sinh học một cách tốt nhất, thi đạt điểm số cao, nhà trường phân công những giáo viên có kinh nghiệm đang giảng dạy bộ môn ngánh trách nhiệm trọng trách cao hơn đứng mũi chịu sào làm công tác chuyên môn để cùng với đồng nghiệp dạy cùng bộ môn trao đổi, góp ý học tập kinh nghiệm. Như vậy khi nói đến giáo viên có kinh nghiệm là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người làm công tác chuyên môn, đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người giáo viên phải làm, cần làm và nên làm cho thật tốt. Để một tập thể bộ môn vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả các trường nói chung trong hệ thống giáo dục trong đó ở trong trường Trung học phổ thông nói riêng, đó cũng là nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên . Một tập thể bộ môn vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động phát triển một cách toàn diện, nhất là hoạt động học tập ở trường. Bên cạnh đó khi giáo viên làm tốt công tác chuyên môn và có phương pháp, kĩ năng tốt thì sẽ tạo nhiều điều kiện, có thời gian để bồi dưỡng và hoàn thành tốt chuyên môn của mình. Vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Hướng dẫn học sinh ôn thi Tốt nghiệp THPTQG đạt kết quả cao trong môn Địa Lí ở trường THPT hiện nay ”.
 Đây là đề tài mà tôi đã thực nghiệm ở năm học 2016 - 2017, nhưng kết quả chưa đạt như mong đợi bởi vì: 
- Thứ nhất: Cấu trúc, xây dựng và soạn bài dạy và học chưa đúng cách, chưa đúng phom...
- Thứ hai: nội dung giảng dạy mới ở mức áp dụng cho học sinh học và thiên về làm bài ở dạng lí thuyết tự luận. Còn bộ môn hiện nay đã chuyển sang 100% thi trắc nghiệm khách quan ở kỳ thi Tốt nghiệp THPTQG.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
 - Để làm tốt công tác giảng dạy và học bộ môn học Địa lí ở trường THPT hiện nay phù hợp với đổi mới trong cách dạy, cách học và thi cử cũng như phổ biến kinh nghiệm hay vào thực tiễn để đồng nghiệp giảng dạy bộ môn Địa lí ở trong trường nói riêng, trong Huyện, trong Tỉnh Thanh Hóa và cả nước nói chung trao đổi góp ý và cùng thực hiện trong dạy học đạt kết quả cao nhất như mong đợi.
- Về nội dung: “ Hướng dẫn học sinh ôn thi Tốt nghiệp THPTQG đạt kết quả cao trong môn Địa Lí ở trường THPT hiện nay ”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 Học sinh lớp 10, 11 và nhất là học sinh lớp 12 ở Trường trung học phổ thông Mai Anh Tuấn - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
 - Kinh nghiệm giáo dục của bản thân trong quá trình làm công tác dạy và học môn Địa lí thực nghiệm qua nhiều năm ở trường THPT.
 - Trao đổi với các đồng nghiệp, các tiền bối trong và ngoài nhà trường, nhất là giáo viên giảng dạy môn Địa lí trên toàn Tỉnh Thanh Hóa có năng lực bộ môn và có nhiều kinh nghiệm.
 - Trao đổi với các cựu học sinh cũ đã ra trường về cảm tưởng của các em, cảm nhận của các em qua các quá trình học tập ôn thi và thi TNTHPTQG môn Địa lí ở các lớp tôi đã từng giảng dạy và các học sinh ở các lớp hiện nay tôi đang trực tiếp giảng dạy và các lớp tôi dạy thay đồng nghiệp.
 - Nghiên cứu thông qua các tài liệu, các chuyên đề đã được Sở ngành triển khai tích cực nhiều năm qua liên quan cũ và mới mà Sở GD và ĐT Thanh Hóa, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
- Sáng kiến kinh nghiệm được trình bày và thực hiện đúng mẫu và đúng với các bước tiến hành theo quy định.
- Sáng kiến kinh nghiệm có phương pháp và kĩ thuật dạy và học tích cực hơn, tốt hơn đáp ứng được và phù hợp với đổi mới giáo dục hiện nay, nhất là đối tượng học sinh lớp 12.
- Sáng kiến kinh nghiệm đánh giá được năng lực học sinh một cách chính xác hơn thông qua kết quả thi Tốt nghiệp THPTQG của năm học vừa qua.
- Sáng kiến kinh nghiệm được giáo viên giảng dạy và học sinh học tập say mê, hứng thú, thu hút được nhiều học sinh yêu quý môn học Địa lí.
- Sáng kiến kinh nghiệm đảm bảo trong việc dạy học và kiểm tra, thi cử qua các cuộc thi, hội thi, kỳ thi đáng giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh THPT hiện nay.
- Sáng kiến kinh nghiệm trình bày và cấu trúc, rõ ràng, đẹp, khoa học và chính xác.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Về cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
 Đối với hệ thống giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng, người giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh toàn diện. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp học, giáo viên trước hết phải là nhà giáo dục, là người tổ chức các hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, kĩ năng, những biến động về tâm sinh lí, tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các em. Giáo viên bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương sáng tác động tích cực đến việc hình thành phẩm chất đạo đức, nhân cách của học sinh. Mặt khác, giáo viên còn là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục... [4].
 Giáo viên là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh quản lý toàn diện học sinh trong quá trình học tập trên lớp mình phụ trách giảng dạy bộ môn. Điều này đòi hỏi giáo viên vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan tâm đến từng cá nhân, đối tượng trong lớp về mọi phương diện: học tập, tu dưỡng, lao động và kĩ năng sống thông qua bộ môn.
 Giáo viên là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử, cách học, cách tiếp cận môn học trên lớp mình phụ trách theo đúng chương trình và kế hoạch của nhà trường, của ngành đề ra và yêu cầu.
 Giáo viên là nhân vật chủ đạo để hình thành nhân cách cho từng học sinh trong tập thể lớp mà mình phụ trách môn học.
 Giáo viên là cầu nối, là nhân vật trung gian thiết lập các mối quan hệ hai chiều: Nhà trường - tập thể học sinh; tập thể học sinh - xã hội. Như vậy, một mặt giáo viên vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục học sinh, vừa là đại diện cho tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Mặt khác, giáo viên phải làm cho quan hệ giữa tập thể học sinh với xã hội trở nên gắn bó hơn. Giáo viên xây dựng, tổ chức tập thể lớp học thành đơn vị vững mạnh, tổ chức điều khiển, lãnh đạo các hoạt động giáo dục của cá nhân, tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục một cách toàn diện thông qua môn học.
 Giáo viên luôn luôn thiết lập và phát triển các mối quan hệ với các tổ chức, lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh thông qua bộ môn mình phụ trách giảng dạy.
 Giáo viên tổ chức tình huống, giao nhiệm vụ cho học sinh. Học sinh hăng hái đảm nhận nhiệm vụ, gặp khó khăn, nảy sinh vấn đề cần tìm tòi giải quyết. Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, vấn đề được diễn đạt chính xác hóa, phù hợp với mục tiêu dạy và học và các nội dung cụ thể đã xác định. [ 1 ]
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
 Có thể nói trong những năm qua, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, địa phương nói riêng đã và đang mang lại không ít những thuận lợi cho công tác giáo dục trong các nhà trường. Sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, đoàn thể cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía xã hội. Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của các nhà trường được xây dựng, trang bị ngày một khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học. Mô hình và chính sách đối với gia đình trẻ hiện nay ít con, kinh tế ngày càng được cải thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ em được quan tâm, nuôi dưỡng và chăm sóc ngày càng tốt hơn.
 Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã hỗ trợ nhà trường, hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh trong việc liên lạc, trao đổi, nắm bắt nhanh, kịp thời những thông tin, tin tức cần thiết, thiết thực trong phối hợp giáo dục; Đồng thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy và học của giáo viên trong những giờ lên lớp, trong những hoạt động tập thể làm cho học sinh thấy hứng thú, tâm đắc hơn. Sự phối kết hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường ngày càng trở nên chặt chẽ hơn.
 Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác giáo dục còn gặp không ít những khó khăn, thách thức lớn. Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học sinh: Xu hướng sống hưởng thụ, đua đòi ăn diện, chưng diện theo trang phục, mái tóc, bấm lỗ tai, mũi, xăm hình của các diễn viên, ca sĩ, MC trong phim ảnh, trên điện thoại, trong một số chương trình truyền hình và đặc biệt là game online, pheebucs... Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho giáo viên các môn học trong công tác giáo dục đạo đức, học tập, nối sống, kĩ năng sống toàn diện cho học sinh.
 Nguyên nhân chủ yếu đó là: Do nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ chú ý đến lợi nhuận trước mắt. Hầu hết các điểm truy cập Internet đều trang bị những trò chơi bạo lực, trò chơi ăn tiền rất thu hút và hấp dẫn học sinh cả hai giới ( Nam - Nữ ). Vì thế, hiện tượng trốn tiết, bỏ học, đi học muộn, đến lớp ngủ gà ngủ gật, giấu tiền, trộm cắp, diết người cướp của, tống tiền để chơi game là điều không tránh khỏi.
 Không những vậy, hậu quả do những tác động của những trò chơi nguy hiểm này dẫn đến các hành vi bạo lực, các tệ nạn xã hội khôn lường gây tổn thương đến gia đình, nhà trường, thầy cô, bạn bè, người thân và tổn hại tới xã hội.
 Mặt khác, nhiều gia đình do cuộc sống, do quá bận rộn với công việc nên thời gian quan tâm, gần gũi và dành cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần như phó mặc cho thầy cô giáo, nhà trường và xã hội, thậm chí cung cấp tiền bạc dư thừa cho con cái không nghĩ đến hậu quả. Nhiều phụ huynh chỉ gặp gỡ trao đổi với giáo viên bộ môn một lần, thậm chí không có lần nào trong một năm học, còn chủ yếu là trao đổi qua điện thoại trong những trường hợp cần thiết. Con trẻ thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi cuốn rơi vào sa ngã rất nhanh và rất dễ. Một số em do điều kiện, hoàn cảnh gia đình ở với ông bà, cô gì, chú bác.. và do được chiều chuộng và chăm sóc quá chu đáo nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo. Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang phát triển, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, tò mò, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, về kĩ năng sống, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh cá biệt, hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều, gia tăng và phổ biến trong xã hội.
 Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ giáo viên. Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác ít nhiều bị ảnh hưởng. Một thiếu sót khác là nhiều giáo viên tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có phương pháp thích hợp, sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như bị áp lực. Người dễ dãi thì lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm sâu sát. Thực tế, nhiều khi giữa thầy cô và học sinh không phải bao giờ cũng tìm được tiếng nói chung.
 * Giới hạn của đề tài:
 Nghiên cứu về thực trạng và biện pháp trong công tác giảng dạy môn Địa lí tại Trường THPT Mai Anh Tuấn - Nga Sơn - Thanh Hóa trong năm học 2017 - 2018 và những năm tiếp theo.
 * Thực trạng:
 Như lời mở đầu, bản thân chúng ta đã biết Địa lí được gọi là bộ môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên thực nghiệm có nhiều khái niệm tưởng chừng dễ dàng và đơn giản với học sinh và giáo viên. Nhưng trong thực tế thì học sinh lại rất lúng túng, khó hiểu, cho là rất trìu tượng. Rất nhiều học sinh không thể nắm chắc được, hoặc hiểu một cách mơ màng các khái niệm cơ bản dẫn đến không vận dụng được kiến thức vào học tập nhất là kỹ năng làm bài kiểm tra, bài thi trắc nghiệm khách quan hay tự luận và bài thực hành, cũng như không có hứng thú, say sưa trong học tập môn Địa lí.
 Giáo viên vẫn chủ yếu lệ thuộc vào tiến trình các bài học được trình bày trong sách giáo khoa, chưa “ dám” chủ động trong việc thiết kế tiến trình xây dựng kiến thức phù hợp với các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. [ 1 ]
 * Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên: Vào năm học 2015 - 2016 bản thân đã giảng dạy và kiểm tra, đánh giá, khảo sát chất lượng của khối lớp 12, trong đó có 3 lớp đại diện của khối đạt kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
12H
43
3%
37%
56%
4%
 12I
45
4%
26%
64%
6%
12K
46
7%
35%
65%
3%
 Qua kết quả trên tôi nhận thấy để học sinh học được bộ môn Địa lí và có hứng thú tìm tòi, khám phá, chủ động trong học tập, vấn đề học như thế nào, làm bài thi ra sao? rõ ràng vấn đề này là của giáo viên, đó cũng là cách đổi mới phương pháp trong cách dạy và cách học. Người giáo viên phải linh hoạt, phải biết cách thiết kế nội dung phù hợp để tổ chức cho học sinh học tập, đặc biệt phân loại được học sinh theo năng lực, có như vậy học sinh học tập mới có hiệu quả cao. Tôi mạnh dạn cải tiến nội dung và phương pháp.
Làm được như vậy chắc chắn rằng khả năng tiếp thu của học sinh sẽ tốt hơn. Học sinh sẽ chăm học, say sưa, khát khao hiểu biết và nhất là thi TNTHPTQG đạt kết quả cao như mong đợi. Vậy phân loại được năng lực học sinh phải dựa trên cơ sở quan niệm về tính tích cực hoá các hoạt động của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình thực hiện từ thực trạng cụ thể theo phạm vi nghiên cứu sau: 
“ Hướng dẫn học sinh ôn thi Tốt nghiệp THPTQG đạt kết quả cao trong môn Địa Lí ở trường THPT hiện nay ”.
2.3. Các các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề, vai trò, tác dụng, hiệu quả:
* Vấn đề nội dung và hình thức:
 - Có thể nói đây chính là một bài toán rất khó và phức tạp, nó bao hàm tất cả của các vấn đề trong quá trình triển khai và thực hiện có thể tổ chức hoạt động học tập thành hai loại chính khác nhau: 
 - Một loại nghiên cứu, sưu tầm những sự vật và hiện tượng, những quy luật chính làm cơ sở cho phần nội dung, hình thức thực hiện triển khai có hiệu quả trực tiếp đối với một khoảng thời gian ngắn kiểm tra kiến thức và hiểu biết, hứng thú, yêu thích về môn Địa lí.
 - Một loại xét đến cách phối hợp các hình thức tổ chức suy nghĩ phản xạ nhanh cho toàn lớp như: suy nghĩ, nghiên cứu theo cá nhân, hay tổ nhóm, cặp trong thời gian ngắn.
 - Sử dụng ATLAT Địa Lí Việt Nam và cách sử dụng.
 - Để thực hiện tốt các yêu cầu trên, thực tế giáo viên phải có nhiều kinh nghiệm, có xét đến tính quy luật, phải sưu tầm, nghiên cứu nhiều tài liệu, mất nhiều thời gian và công sức đọc và phân loại các câu hỏi và đưa ra đáp án chính xác. Và hình dung được mục đích sau khi thực hiện để thiết kế nội dung, hình thức phù hợp như đã định ra và đảm bảo với các dấu hiệu sau:
 - Có mối liên hệ với nội dung giảng dạy với cuộc sống, sản xuất thực tiễn xây dựng XHCN và phương hướng chính trị, tư tưởng.
 - Có sự tham gia tích cực của học sinh, tạo điều kiện phát triển tư duy lôgic cho học sinh và sáng tạo độc lập.
 - Trong dạy học cá nhân, GV tổ chức cho mỗi HS được làm việc thực sự với các đối tượng học tập ( tranh ảnh, ATLAT, sơ đồ, lược đồ, bản đồ, bảng thống kê, bài viết, sách giáo khoa..) để thu thập kiến thức, hoặc trả lời các câu hỏi, thực hiện bài tập do GV đề ra. [ 2 ]
 - Học sinh khi ra ngoài lớp, trường, ngoài đường về nhà tiếp tục động não tìm đáp án đúng. Nhờ đó mà học sinh tình trạng lười học, nói tục, xích mích, va chạm, vi phạm nội quy kỷ luật trong trường, ngoài đường đã chấm dứt không còn nhiều. Các em chăm chỉ, say sưu học tập, khát khao hiểu biết yêu mến, thích môn học Địa lí hơn. Đánh giá kết quả của học sinh ngay sau các kỳ thi .
- Để đánh giá được năng lực học sinh qua các kỳ thi TNTHPTQG trong môn Địa lí trong thời gian nhất định, có hiệu quả cao, ta cũng cần có một số biện pháp và phương pháp cụ thể sau:
* Bước vào buổi học::
- Điều cần thiết đầu tiên trước những vấn đề mới, trước sự ngơ ngác, sự im lặng, buồn tẻ, sự không hiểu, khó hiểu, no lắng của học sinh thi cuối cấp th TNTHPTQG. 
 Vậy giáo viên nên làm thế nào để trong thời gian ngắn, phải kiểm tra được kiến thức tư duy lôgic và những mối liên quan về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, để có được sự phấn khởi, vui vẻ và sinh động trong học sinh, để cho việc vận dụng vào bài học mới, vào kỳ thi Tốt nghiệp THPTQG sắp tới, bởi nội dung và hình thức học tập.
 * Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
 - 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huong_dan_hoc_sinh_on_thi_tot_nghiep_thptqg_dat_ket_qua.doc