SKKN Hướng dẫn giáo viên dạy học kiến thức địa phương trong môn Địa lý 8 ở trường THCS Nga Điền

SKKN Hướng dẫn giáo viên dạy học kiến thức địa phương trong môn Địa lý 8 ở trường THCS Nga Điền

 Trong chương trình giáo dục quốc dân, Địa lý là môn học quan trọng nên được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông từ lớp 6 cho đến lớp 12, nhằm mục đích trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về khoa học địa lý, cũng như vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để biết cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh, đồng thời đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nước, xu thế tất yếu của thời đại.

Địa lý là môn học có nhiều thuận lợi về giáo dục tình yêu quê hương đất nước, trong đó các kiến thức địa lý địa phương có vai trò cực kỳ quan trọng. Vì thế, một nhà văn Nga đã nói: “Tình yêu quê hương đất nước phải được bắt nguồn từ tình yêu đối với sự vật, hiện tượng gần gũi, thân quen nơi xóm, làng của mình và chúng ta chỉ thực sự yêu chúng khi hiểu biết sâu sắc về chúng”.

Chính việc giảng dạy địa lý địa phương tạo điều kiện cho thế hệ trẻ tìm hiểu và đánh giá đúng tiềm năng các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và thực trạng kinh tế - xã hội của địa phương, từ đó giúp họ định hướng nghề nghiệp, lao động sản xuất, góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp. Kiến thức địa lý địa phương (quê hương) có liên quan nhiều đến địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế xã hội cấp THCS

Kiến thức địa lý địa phương là tài liệu sống động để nắm những kiến thức địa lý cơ bản đó. Bởi vì thông qua những hiểu biết ban đầu về các sự vật, hiện tượng hết sức gần gũi, thân quen mà học sinh nhìn thấy hàng ngày ở địa phương sẽ tạo điều kiện để hình thành biểu tượng địa lý cho học sinh. Trong khi đó, biểu tượng địa lý lại là cơ sở để tạo nên khái niệm địa lý, vì nó phản ánh được những thuộc tính của khái niệm địa lý tương ứng . Ngược lại, việc đưa kiến thức địa lý địa ph ương trong dạy học địa lý sẽ góp phần bổ sung kiến thức về địa phương cho học sinh và làm giàu tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn các em. Đồng thời, bài giảng địa lý có sự liên hệ, chứng minh bằng thực tiễn nơi các em đang sinh sống và học tập sẽ trở nên hấp dẫn và có tính thuyết phục với học sinh hơn.

 

doc 19 trang thuychi01 8605
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Hướng dẫn giáo viên dạy học kiến thức địa phương trong môn Địa lý 8 ở trường THCS Nga Điền", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
STT
Nội dung
Trang
1
MỞ ĐẦU
1
1.1
Lý do chọn đề tài
1-2
1.2
Mục đích nghiên cứu
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2-9
2.2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
9
2.3
Các giải pháp thực hiện
11-18
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
18
3
KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
19
3.1
Kết luận
19
3.2
Kiến nghị
20
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
 Trong chương trình giáo dục quốc dân, Địa lý là môn học quan trọng nên được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông từ lớp 6 cho đến lớp 12, nhằm mục đích trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về khoa học địa lý, cũng như vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để biết cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh, đồng thời đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nước, xu thế tất yếu của thời đại. 
Địa lý là môn học có nhiều thuận lợi về giáo dục tình yêu quê hương đất nước, trong đó các kiến thức địa lý địa phương có vai trò cực kỳ quan trọng. Vì thế, một nhà văn Nga đã nói: “Tình yêu quê hương đất nước phải được bắt nguồn từ tình yêu đối với sự vật, hiện tượng gần gũi, thân quen nơi xóm, làng của mình và chúng ta chỉ thực sự yêu chúng khi hiểu biết sâu sắc về chúng”.
Chính việc giảng dạy địa lý địa phương tạo điều kiện cho thế hệ trẻ tìm hiểu và đánh giá đúng tiềm năng các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và thực trạng kinh tế - xã hội của địa phương, từ đó giúp họ định hướng nghề nghiệp, lao động sản xuất, góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp. Kiến thức địa lý địa phương (quê hương) có liên quan nhiều đến địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế xã hội cấp THCS 
Kiến thức địa lý địa phương là tài liệu sống động để nắm những kiến thức địa lý cơ bản đó. Bởi vì thông qua những hiểu biết ban đầu về các sự vật, hiện tượng hết sức gần gũi, thân quen mà học sinh nhìn thấy hàng ngày ở địa phương sẽ tạo điều kiện để hình thành biểu tượng địa lý cho học sinh. Trong khi đó, biểu tượng địa lý lại là cơ sở để tạo nên khái niệm địa lý, vì nó phản ánh được những thuộc tính của khái niệm địa lý tương ứng . Ngược lại, việc đưa kiến thức địa lý địa ph ương trong dạy học địa lý sẽ góp phần bổ sung kiến thức về địa phương cho học sinh và làm giàu tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn các em. Đồng thời, bài giảng địa lý có sự liên hệ, chứng minh bằng thực tiễn nơi các em đang sinh sống và học tập sẽ trở nên hấp dẫn và có tính thuyết phục với học sinh hơn. 
Dạy học địa lý địa phương ở các trường phổ thông hiện nay đã được chú ý nhiều hơn trước. Tuy nhiên, dung lượng kiến thức này vẫn còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong chương trình địa lý phổ thông. Ngoài các tiết dạy địa lý địa phương theo quy định, thầy (cô) giáo chưa thường xuyên đưa kiến thức địa lý địa phương vào bài giảng. Đặc biệt, giáo viên nắm kiến thức địa lý địa phương chưa sâu, chưa rộng đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Do đó, kiến thức địa lý địa phương của học sinh thường nghèo nàn, việc cung cấp và bổ sung kiến thức địa lý địa phương cho học sinh còn nhiều hạn chế, đây là vấn đề cần khắc phục, hơn nữa việc sắp xếp thời gian học thực tế về kiến thức địa lý địa phương còn nhiều khó khăn như: Những kiến thức địa lý địa phương thể hiện rõ ràng và lôi cuốn cho học sinh tìm hiểu thường ít và xa, khung thời gian lại hạn chế  chính vì thế gây cản trở nhiều đến việc dạy kiến thức địa lý địa phương (phần thực địa) cho học sinh, dẫn đến đa phần giáo viên chỉ bố trí dạy địa lý địa phương theo kiến thức lý thuyết là chủ yếu, điều đó chưa góp phần kích thích tính khám phá, tìm tòi của học sinh, nên bài dạy thường nhàm chán, dẫn đến hiệu quả không cao, kiến thức không sâu, việc giáo dục cho học sinh tình yêu quê hương đất nước sẽ bị hạn chế
Từ năm học 2016- 2017 tôi được điều động về công tác ở trường THCS Nga Điền, qua tìm hiểu về tình hình địa phương, bản thân lại là cán bộ quản lý có chuyên môn về môn Địa lý, vì thế thấy đây là vùng đất có nhiều cơ hội để phát huy về bộ môn Địa lý
Qua tìm tòi, khảo sát và nghiên cứu, nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng và rất cấp thiết cho nên tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm “ Hướng dẫn giáo viên dạy học kiến thức địa phương trong môn Địa lý 8 ở trường THCS Nga Điền ”
1.2 Mục đích nghiên cứu
- Đổi mới phương pháp, hình thức, nội dung dạy học về địa lý địa phương
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc hình thành kiến thức địa lý 
- Xây dựng niềm tin yêu khoa học, kích thích lòng ham mê trong việc tìm tòi, khám phá, ứng dụng trong bộ môn Địa lí 
- Nâng cao ý thức, trách nhiệm của học sinh với quê hương đất nước
- Giúp học sinh nhận thức kiến thức địa lí một cách tổng thể và toàn diện hơn.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
 Dạy học địa lý địa phương lớp 8 bằng trãi nghiệm thực tế
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát kiến thức đia lí thực tế
 - Phương pháp thu thập thông tin
 .- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
- Phương pháp viết báo cáo
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 
Huyện Nga Sơn nằm ở phía đông bắc tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 40 km về phía đông Bắc, cách quốc lộ 1A khoảng 14 km về phía đông và cách Hà Nội khoảng 120 km về phía nam. phía bắc và đông giáp tỉnh Ninh Bình, phía tây giáp huyện Hà Trung, phía nam giáp huyện Hậu Lộc, phía đông giáp Biển đông. Hơn 80% diện tích của huyện là đồng bằng, địa hình thoải từ tây sang đông. phía bắc của huyện có dãy núi Tam Điệp, phía nam có con sông Lèn chảy qua. Diện tích tự nhiên huyện là 144,95 km². [1]
Xưa kia Nga Sơn thuộc vùng đất biển cạn, đây là vùng có núi non, sông biển, hang động, các di tích huyền diệu và hoang sơ, hiện nay biển đã rút xa hàng chục cây số, Nga Sơn trở thành vùng đồng ruộng thấp, xen lẫn các núi sót (trước đây là các đảo)
Nga Điền là xã nằm phía đông bắc của huyện Nga Sơn, và cũng là phía đông bắc của tình Thanh Hóa, có diện tích: 11,17 km², là một xã hẹp về bề ngang nhưng lại có chiều dài tới hơn 11 km; Phía đông giáp các xã Định Hóa và Văn Hải thuộc huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, phía nam giáp xã Nga Phú, Nga An và Nga Giáp của huyện Nga Sơn, phía tây giáp xã Nga Thiện thuộc huyện Nga Sơn, phía bắc giáp xã Yên Thái, Yên Lâm thuộc huyện Yên Mô của tỉnh Ninh Bình. [2]
Về tự nhiên Nga Điền có gần như đầy đủ các yếu tố về tự nhiên, như: Có địa hình núi đá vôi (là phần cuối của dãy núi đá vôi Tam Điệp), có địa hình đồng bằng, có sông Hoạt, sông Càn, bãi bồi ven biển...
Trong các yếu tố tự nhiên ở đây, điển hình phải kể đến là: Núi, biển (xa xưa), sông, hang động, cửa Thần Phù, đồng bằng ... 
2.1.1 Cửa Thần Phù:  vốn là một cửa biển hiểm yếu xa xưa nằm trên tuyến đường thủy hành quân Nam tiến của người Việt nên được gắn với nhiều truyền thuyết ly kỳ trong dân gian và sử sách. Cửa Thần Phù ngày nay đã bị phù sa bồi đắp và trở thành vùng đất nằm cách bờ biển hơn 10 km. Trước đây khu vực này thuộc tỉnh Ninh Bình, dưới thời Nguyễn, một phần được tách về tỉnh Thanh Hóa. Cửa biển Thần Phù hiện nằm trên tuyến sông Nhà Lê, thuộc ranh giới giữa 2 xã Yên Lâm, Yên Mô, Ninh Bình và Nga Điền, Nga Sơn, Thanh Hóa. Khu vực Thần Phù nay ở thượng nguồn lưu vực sông Càn, con sông cùng với dãy núi Tam Điệp là ranh giới giữa 2 miền Trung - Bắc Việt Nam.
 Bia “Thần Phù” tại cửa thần phù xưa kia (nay nằm ngay sát chùa Hàn Sơn)
Theo Nam Ông mộng lục, Vua Lý Thái Tông mang quân Nam tiến để đánh dẹp Chiêm Thành, đến cửa biển này gặp gió to sóng dữ, không đi được; may nhờ một đạo sĩ có phép thuật cao cường dẹp yên sóng dữ. Khi ban sự trở về, đạo sĩ mất ở dọc đường. Vua cho lập đền thờ ở cửa biển, phong hiệu là "Áp Lãng Chân Nhân" (người dẹp yên được sóng dữ) và gọi tên nơi đây là cửa biển Thần Phù. 
2.2.2 Về địa hình: Núi ở đây có nhiều ngọn xếp nối nhau, cao vút như búp măng, với một số hang động còn lưu lại nhiều bút tích của người xưa
Núi non, sông nước Thần Phù đến nay vẫn còn giữ được dáng vẻ, cảnh sắc nguyên sơ của nó, Nguyễn Trãi đã mô tả:
“Thần Phù qua đó lúc canh khuya
Gió mát, trăng thanh cảnh tuyệt vời
Núi vút ngàn đầu non dựng đứng
Rắn bò một dải nước quanh đi ...”
	(Nguyễn Trãi-trích dịch bài thơ “Qua cửa biển Thần Phù”[3]
 Một góc vùng núi đá vôi thuộc Nga Điền, Nga Sơn
Rẻ theo nhánh sông bên phải vài trăm mét ra cửa biển, sẽ thấy ngọn núi đá sừng sững bên bờ. Đây là di tích Hồ Quý Ly bắn đá lấp sông để chống nhau với quân xâm lược Chiêm Thành cuối thế kỷ XIV
Tại đây, vua Lê Thánh Tông đã nhắc lại sự kiện này
“Chương Hoàng tải mãn điền hà thạch”
Dịch: “Chương Hoàng-(Hồ Quý Ly) chở đá lấy đầy sông”. [4]
Tiếp tục suôi dòng sông sẽ đến khúc sông nơi chúa Trịnh Sâm hơn 200 năm trước đã neo thuyền để thưởng ngoạn cảnh đẹp đêm trăng và cảm hứng đề thơ khắc lên vách núi đến nay vẫn còn
 Dịch thơ: “ Gió nhẹ, thuyền dâng trăng sáng trôi
	Lênh đênh chiếc lá thuận dòng chơi
	Làn sông ngấn biếc bờ đôi ngả
	Rặng núi hang xanh bóng giữa vời
	Thấp thoáng mâm châu am cổ hiện
	Thập thình chày ngọc giọt thu rơi ...”. [5]
 Vùng núi dấu tích của Hồ Quý Ly chống nhau với quân Chiêm Thành
2.2.3 Động Lục Vân: “Hang xanh am cổ” được nhắc đến chính là động “Lục Vân”, xưa kia động có chùa và những điêu khắc chạm trổ trực tiếp lên núi đá, nhưng nay đã bị hủy hoại hết chỉ còn thấy một số bút tích chữ Hán để lại trong và ngoài động. Ở đây động không rộng lắm nhưng ăn sâu vào trong vách núi, nay bị đất đá đổ lấp nên khó đi, giữa cửa động có một dải thạch nhủ màu vàng, nằm vắt ngang trông như hình rồng, đứng trước cửa động, ngắm nhìn núi non, sông nước hữu tình
Bia cổ trong hang tối ở Động Lục Vân
2.2.4 Bia Thần: Nơi đây có mỏm đá nhô ra sông, trên núi khắc một chữ “Thần” bằng chữ Hán rất lớn, chiều cao khuôn chữ tới hơn 1 m
Tương truyền, Lê Thánh Tông là tác giả đại tự trên, mới đây mới phát hiện người đề chữ này là Nhật Nam nguyên chủ- tức chúa Trịnh Sâm, chữ “Thần” được khắc ở vị trí núi sông hiểm yếu này, muốn chứng tỏ rằng đất nước Nam có thần linh canh giữ
2.2.5 Động Bạch Á: Động này nằm trong lòng một ngọn núi xuyên suốt từ Tây sang Đông, cao ráo, thoáng đãng, trong động không có thạch nhũ, có ngách trèo lên trên đỉnh núi, động có hai cửa nối nhau. Nên gió lồng lộng, sở dĩ có tên gọi vì nhìn từ xa tựa như một con quạ trắng đang dang rộng cánh, thuở xưa noi đây có chùa chiền và nhiều điêu khắc bằng đá trắng, nhưng đã bị hủy hoại
2.2.6 Sông ngòi: 
(Hiện có một số tài liệu còn nhầm lẫn giữa sông Hoạt và Sông Càn)
Một khúc sông Hoạt, tại Nga Điền, Nga Sơn
+ Sông Hoạt: Sông bắt nguồn từ núi Hang Cửa, vùng Yên Thịnh (Hà Trung) có diện tích lưu vực tính đến cầu Chính Đại (cách cửa sông 13km) là 250km2. Sông dài 55km, chảy qua huyện Hà Trung, thị xã Bỉm Sơn và men theo tạo địa giới giữa huyện Nga Sơn và huyện Kim Sơn (Ninh Bình). Do vị trí của sông nằm trong khu vực ít mưa (dưới 1.500mm), lại chảy qua nhiều vùng đá vôi nên dòng chảy mùa kiệt rất nghèo nàn và bị ảnh hưởng mạnh của thuỷ triều. Vào mùa mưa, do địa hình lòng chảo nên sông tiêu nước chậm và thường xuyên gây úng lũ ở Hà Trung (Hà Bắc, Hà Yên, Hà Giang, Hà Vân) và Nga Sơn. [6]
+ Sông Bút: Là một con sông nằm ở vùng giáp ranh giới hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Sông Bút bắt nguồn từ hồ Đồng Thái (huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình) chảy qua cửa biển Thần Phù (xưa kia) nhập với sông Hoạt tại ngả ba sông ở đoạn gần cầu Chính Đại (Xóm 7 Xã Nga Điền). Từ đây chảy về cửa Lạch Càn - ta gọi là Sông Càn. [7]
+ Sông Càn: Tên gọi sông Càn dành cho đoạn hạ lưu, dòng chảy tính từ ngã ba sông Bút và sông Hoạt (Tại Nga Điền, Nga Sơn) ra tới cửa biển (Kim Hải, Kim Sơn). [8]
Nơi giao nhau giữa sông Hoạt và sông Bút tại ngã ba sông ở làng Chính Đại
Các sông nơi đây chảy qua nhiều địa danh nổi tiếng thuộc dãy núi Tam Điệp như cửa biển Thần Phù, hồ Đồng Thái, Kim Sơn (Ninh Bình), động Từ Thức (Thanh Hoá). Sông cũng là đường biên phía tây nam của khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng. 
Một góc cảnh quan làng Chính Đại xã Nga Điền ngày nay
Như vậy: Có thể nói trong vùng về tự nhiên có đa dạng như: Hệ thống núi đá vôi, với nhiều hang động và địa hình catxtơ, về diện mạo tự nhiên nơi này khá là hùng vĩ, phong cảnh đẹp và nên thơ; hệ thống sông xen lẫn với núi làm cho cảnh sắc nơi đây càng thêm thơ mộng (vì thế nhiều danh nhân đã lưu lại các bài thơ cho vùng đất này những áng thơ hay...), đồng bằng thì nhỏ hẹp, xen lẫn núi tạo cho nơi đây có cảnh sắc vừa đồng bằng vừa núi, có phù sa lớn, màu mỡ; núi non và thảm thực vật tạo nên một dạng cảnh quang núi đá vôi hùng vĩ; hình tượng biển xa xưa nay đã rút xa còn in dấu với những ngấn sóng vỗ vào núi (như vịnh hạ long trên cạn)...
Với những điều kiện tự nhiên và dấu tích lịch sử xưa kia sẽ là điều kiện để gây hứng thú bộ môn lịch sử, địa lý, hóa học... góp phần khơi gợi tính ham mê, tìm tòi, khám phá của thầy (cô) giáo và các em học sinh, nhằm góp phần hình thành kiến thức cho các em một cách tổng thể và phát huy lòng yêu quê hương trong việc giữ gìn cảnh quan và các di tích nơi đây... –nếu người giáo viên biết cách khai thác.
2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
a. Khái quát về đơn vị trường THCS Nga Điền
- Thuận lợi:	
+ Trường THCS Nga Điền có 12 lớp với hơn 470 học sinh, 
+ Đội ngũ giáo viên có đầy đủ giáo viên các bộ môn, có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn 80 %; giáo viên bộ môn địa lý có 2 (đều có trình độ Đại học) 
+ Về phía học sinh: Đa phần các em ngoan, hiếu động, ham phám phá , điều đó có thuận lợi trong quá trình học tập, nhất là trong việc giáo viên hướng dẫn học sinh học tập các môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, hay thuận lợi cho việc học theo phương pháp trãi nghiệm thực tế
+ BGH nhà trường rất quan tâm tới công tác chuyên môn, điều đó thuận lợi cho công tác dạy và học của giáo viên và học sinh
- Khó khăn:
+ Nga Điền là xã phía đông bắc của huyện Nga Sơn, tiếp giáp với huyện Kim Sơn của tình Ninh Bình, điều kiện kinh tế khó khăn, dân đa số theo đạo Thiên Chúa Giáo, vì thế có ảnh hưởng không nhỏ công tác giáo dục 
 + Nhiều em chưa thật sự tích cực trong học tập, chưa có kỹ năng hoạt động hợp tác theo nhóm, chưa có những hiểu biết sâu sắc về kiến thức tự nhiên 
	+ Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, hiện là trường duy nhất trong huyện vẫn phải học 2 ca (do thiếu phòng học)
	+ Cán bộ, giáo viên đa phần là người ở xa, có người đi tới 20 km, điều đó dẫn đến tính nhiệt tình của giáo viên với công việc hạn chế 
b. Thực trạng:
Qua tìm hiểu thì được biết các bài liên quan tới tham quan thiên nhiên, hay các bài về địa lí tự nhiên đều thực hiện dưới dạng truyền tải theo kiểu lý thuyết, kiến thức địa lí địa phương tại ngay quê hương Nga Điền nhiều em học sinh chưa biết đến bao giờ (do địa bàn xa, nhiều em không gần đó chưa một lần hình dung ra nó, chỉ có những em địa bàn gần mới được biết một phần nào đó)
Vấn đề không được Dạy – Học theo phương pháp trãi nghiệm do:
Giáo viên ngại vất vả, tính nhiệt tình trong chuyên môn chưa cao
	- Các khu vực có điều kiện thiên nhiên cần học, quan sát và trãi nghiệm ở địa bàn xa so với trường học (tính từ trường tới các khu vực có dạng địa hình núi đá vôi, di tích tương đối xa – tới trên 6 km, có nơi tới trên 8km)
	- Để khám phá các dạng địa hình đó thì phương tiện đi lại chưa thuận lợi (cả đường bộ, đường núi, đường sông)
	- Phần do trước đây nhà trường chưa quan tâm đến lĩnh vực liên quan tới bộ môn này, vì thế nên phó mặc cho giáo viên truyền đạt kiểu lý thuyết 
	Chính vì những trở ngại trên nên đến các tiết có tham quan thiên nhiên thường không tổ chức được, điều đó không gây được hứng thú cho học sinh trong học tập môn địa lý
Thực trạng trên thể hiện rõ qua kết quả khảo sát mức độ hứng thú với môn địa lí 8 và so sánh kết quả môn địa lí năm học 2016 – 2017 tại trường THCS Nga Điền, Nga Sơn như sau: 
- Thời điểm khảo sát: Tháng 9/2017
Khối 
Rất hứng thú
Hứng thú
Ít hứng thú
Không hứng thú
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Khối 8 (117)
8
6,8
34
29,0
57
48,7
18
15,5
Kết quả bộ môn địa 8 (năm học 2016-2017)
Khối
Loại giỏi
Loại khá
Loại TB
Loại Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Khối 8 (117)
9
7,7
33
28,2
58
46,2
17
14,5
 	Kết quả khảo sát trên cho thấy hứng thú học tập và kết quả bộ môn có mối quan hệ hữu cơ với nhau; Nếu học sinh có hứng thú học tập bộ môn thì sẽ dẫn tới kết quả học tập được nâng cao, và ngược lại. 
 	Qua tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp, bản thân tôi đã xây dựng thêm kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo chuyên môn, đặc biệt là môn địa lý góp phần nâng cao chất lượng bộ môn địa lý của nhà trường
	Đề tài phạm vi cả hoạt động của CBGV và chỉ đạo dạy học địa lí địa phương học sinh khối 8 và khối 9 trong toàn trường, so sánh, phân tích kết quả chất lượng bộ môn của học sinh cuối năm học 2016-2017 và chất lượng môn của năm học 2017-2018 
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để góp phần trong việc chỉ đạo dạy học Địa lí địa phương ở trường THCS Nga Điền
Trên cơ sở tìm hiểu về thực trạng của phương pháp dạy học địa lí địa phương trước đây, tìm hiểu tâm lý giáo viên khi dạy về địa lí địa phương, tìm hiểu mức độ hứng thú của học sinh, qua khảo sát về điều kiện thiên nhiên địa phương vùng đất Nga Điền, Nga Phú, Tôi đã mạnh dạn đưa ra một vài kinh nghiệm trong quá trình chỉ đạo giảng dạy môn địa lí địa phương (địa lí 8,9) như sau:
2.3.1 Người quản lý phải có kiến thức tổng thể, sâu rộng về bộ môn:
	Là người quản lý có chuyên môn trong lĩnh vực sinh học và địa lí, khi tôi có quyết định chuyển công tác về trường THCS Nga Điền vào cuối tháng 8/2016, là địa bàn rất mới với bản thân, phần do khoảng cách xa nhà đi lại khó khăn, nên tôi chủ yếu là đi buổi (sáng đi tối về), chính vì thế nên ngoài các hoạt động trong nhà trường thì thời gian rãnh tôi tìm hiểu về vùng đất Nga Điền và các vùng lân cận (tìm hiểu về con người, lối sống, về thiên nhiên- Mục đích vừa thư giản và vừa bổ sung kiến thức cho bản thân để vận dụng trong quá trình công tác)
	Trong khi tìm hiểu về thiên nhiên nơi đây, tôi nhận thấy vùng đất này có cảnh quan rất đẹp, gắn nhiều với các dấu tích lịch sử từ thời xa xưa, chẳng hạn như: Trong vùng có da dạng các loại địa hình như: Núi đá vôi với địa hình Catxtơ tạo nên các hang động kỳ thú, sông ngòi uốn lượn theo mạch địa hình tạo nên cảnh quan nơi đây vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, đồng bằng nhỏ hẹp đan xen giữa núi và sông, làng mạc, Vùng trước kia là biển, có các địa danh: Cửa Thần Phù, Chích Trợ Sơn, Bia Thần, Động Trúc Sơn, Động Bạch Á
	Kết quả trãi nghiệm thực tế đã gợi cho bản thân thấy đây là những kiến thức thực tế có vai trò trong việc xây dụng thế giới quan khoa học, tạo niềm tin yêu bộ môn, kích thích ham mê trong học tập ở các bộ môn Lịch Sử, Địa Lí, Sinh Học
	Nhưng như thế chưa đủ mà phải niềm say mê cho đội ngũ giáo viên, điều này tôi nghỉ là rất quan trọng, vì thế tôi nảy sinh ra bước thứ 2
2.3.2. Tổ chức chuyến khám phá thực tế địa phương cho CBGV:
	- Trước hết đưa ra bàn với các đồng chí trong lãnh đạo nhà trường về ý tưởngc chuyến khám phá thực tế, được mọi người thích thú ủng hộ 
	- Lựa chọn thời điểm: Tổ chức vào dịp nghỉ hè (Đầu tháng 6/2017)
	- Đối tượng: Cán bộ, giáo viên và đồng nghiệp ham mê 
	- Lịch trình: Tham quan thiên nhiên các địa danh Chích Trợ Sơn, Cửa Thần Phù, Chùa Hàn Sơn, Đi thuyền theo dòng sông Hoạt, khám phá Động Trúc Sơn, Bia Thần, Động Bạch Á, leo núi khám phá địa hình núi đá vôi
- Phương tiện: Xe máy, thuyền và đi bộ
Một số hình ảnh chuyến tham quan thực tế vùng 
thiên nhiên Nga Điền của CBGV nhà trường
Tham quan bên dòng sông Hoạt, địa phận xã Nga Điền
Lối vào Động Trúc Sơn
Sau chuyến đi, vừa tạo niềm hứng khởi cho CBGV về cuộc trãi nghiệm thực tế, vừa xây dựng thêm kho tư liệu quí cho CBGV để góp phần trong quá trình giảng dạy, giáo viên cảm thấy tự tin hơn khi lên lớp dạy các bài liên quan tới thiên nhiên
2.3.3 Chỉ đạo dạy học địa lý Địa phương ứng dụng bằng phương pháp trãi nghiệm thực tế
a) Tiến trình thực hiện Bài 44: Thực hành: Tìm hiểu địa phương – Địa lí lớp 8
- Mục tiêu: Chỉ đạo giáo viên bộ môn Địa (đ/c Mai Thị Tính) tổ chức dạy theo phương pháp Tìm hiểu địa phương bằng trãi nghiệm
- 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huong_dan_giao_vien_day_hoc_kien_thuc_dia_phuong_trong.doc