SKKN Giúp học sinh lớp 6 học tốt tiết luyện tập toán
Chương trình Toán rất đa dạng và phong phú, bởi vậy việc đề ra một phương pháp dạy học phù hợp với tất cả các dạng bài là điều khó có thể thực hiện được. Với mỗi dạng bài lên lớp có một phương pháp tối ưu nhất, phương pháp này thì phù hợp với kiểu bài này nhưng lại không thực sự phù hợp với kiểu bài khác. Do đó mỗi giáo viên cần cố gắng trau dồi nghiệp vụ sư phạm của mình để hướng dẫn học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng, phương pháp nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Nếu như tiết học lý thuyết cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản ban đầu thì tiết học luyện tập có tác dụng hoàn thiện các kiến thức cơ bản đó, nâng cao lý thuyết trong chừng mực có thể, làm cho học sinh nhớ và khắc sâu hơn vấn đề lý thuyết đã học. Tiết luyện tập không phải chỉ đơn thuần là giải các bài tập đã học, cho học sinh làm ở nhà hay cho học sinh làm ở trên lớp. Thầy luyện, trò tập làm đó là nội dung chủ yếu của tiết luyện tập.
Trong tiết luyện tập phần nào đó thầy được “ tự do” hơn trong việc lựa chọn nội dung dạy học so với tiết học lý thuyết, miễn sao đạt được mục đích yêu cầu đề ra. Học sinh cũng được “tự do” phát triển tư duy sáng tạo để đưa ra nhiều phương án giải quyết vấn đề khác nhau và rút ra được phương án nhanh nhất.
Đặc biệt tiết luyện tập học sinh có điều kiện thực hành, vận dụng các kiến thức đã học vào việc giải quyết các bài toán thực tế, các bài toán có tác dụng rèn luyện kỹ năng tính toán, rèn luyện các thao tác tư duy để phát triển năng lực sáng tạo sau này. Vì vậy việc dạy học tiết luyện tập rất quan trọng trong chương trình dạy học, đặc biệt đối với môn toán. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn toán lớp 6, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số phương án dạy tiết luyện tập toán 6 vào lớp học và gây được nhiều hứng thú học tập cho học sinh.
Vì những lí do trên tôi đưa ra đề tài: “Giúp học sinh lớp 6 học tốt tiết luyện tập toán” làm đề tài nghiên cứu.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ Chương trình Toán rất đa dạng và phong phú, bởi vậy việc đề ra một phương pháp dạy học phù hợp với tất cả các dạng bài là điều khó có thể thực hiện được. Với mỗi dạng bài lên lớp có một phương pháp tối ưu nhất, phương pháp này thì phù hợp với kiểu bài này nhưng lại không thực sự phù hợp với kiểu bài khác. Do đó mỗi giáo viên cần cố gắng trau dồi nghiệp vụ sư phạm của mình để hướng dẫn học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng, phương pháp nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Nếu như tiết học lý thuyết cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản ban đầu thì tiết học luyện tập có tác dụng hoàn thiện các kiến thức cơ bản đó, nâng cao lý thuyết trong chừng mực có thể, làm cho học sinh nhớ và khắc sâu hơn vấn đề lý thuyết đã học. Tiết luyện tập không phải chỉ đơn thuần là giải các bài tập đã học, cho học sinh làm ở nhà hay cho học sinh làm ở trên lớp. Thầy luyện, trò tập làm đó là nội dung chủ yếu của tiết luyện tập. Trong tiết luyện tập phần nào đó thầy được “ tự do” hơn trong việc lựa chọn nội dung dạy học so với tiết học lý thuyết, miễn sao đạt được mục đích yêu cầu đề ra. Học sinh cũng được “tự do” phát triển tư duy sáng tạo để đưa ra nhiều phương án giải quyết vấn đề khác nhau và rút ra được phương án nhanh nhất. Đặc biệt tiết luyện tập học sinh có điều kiện thực hành, vận dụng các kiến thức đã học vào việc giải quyết các bài toán thực tế, các bài toán có tác dụng rèn luyện kỹ năng tính toán, rèn luyện các thao tác tư duy để phát triển năng lực sáng tạo sau này. Vì vậy việc dạy học tiết luyện tập rất quan trọng trong chương trình dạy học, đặc biệt đối với môn toán. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn toán lớp 6, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số phương án dạy tiết luyện tập toán 6 vào lớp học và gây được nhiều hứng thú học tập cho học sinh. Vì những lí do trên tôi đưa ra đề tài: “Giúp học sinh lớp 6 học tốt tiết luyện tập toán” làm đề tài nghiên cứu. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận của vấn đề Trên địa bàn mà trường tôi trực thuộc, học sinh đa số là con em nông thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên việc đầu tư về vật chất cũng như thời gian cho việc học tập chưa cao, ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ bố mẹ các công việc gia đình, gần như không có thời gian để tự học. Vì vậy việc học luyện tập ở trên lớp là thực sự cần thiết đối với học sinh đặc biệt là học sinh trên địa bàn tôi phụ trách. Để tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, gây hứng thú học tập thì việc sử dụng phương pháp, cách thức. cách tổ chức dạy học một tiết luyện tập toán là thực sự cần thiết. II. Thực trạng của vấn đề Theo hướng đổi mới của phương pháp dạy học hiện nay, bản thân giáo viên với quan niệm quá trình học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội các kiến thức có sẵn mà còn là quá trình học sinh tự khám phá, tự phát hiện, tự tìm tòi đến với kiến thức mới nhờ sự hướng dẫn, giúp đỡ và tổ chức của giáo viên. Tuy nhiên theo tôi nhận định từ trước tới nay đa số giáo viên chưa thực sự chú trọng, đầu tư vào việc dạy các tiết luyện tập, mà xem luyện tập chỉ là tiết học dùng để chữa các bài tập đã giao về nhà cho học sinh. Vì vậy các tiết luyện tập bao giờ cũng chỉ tiến hành theo trình tự rập khuôn, giáo viên kiểm tra lý thuyết rồi gọi học sinh lần lượt lên chữa bài tập, giáo viên kết luận và cho điểm. Việc làm này đem lại sự nhàm chán cho bản thân giáo viên cũng như học sinh, tiết học diễn ra một cách buồn tẻ, học sinh không có hứng thú học tập. Nếu giáo viên trong quá trình dạy tiết luyện tập lại máy móc, cứng nhắc không quan tâm đến tính chất và yêu cầu cụ thể của từng tiết luyện tập, bao giờ cũng phải kiểm tra lý thuyết rồi mới cho ra bài tập đã đươch giao về nhà làm, không có các trò chơi giải trí, câu đố vui... thì không thể phát triển tư duy, mặt bằng văn hóa noi chung của học sinh không được nâng cao. Các bài tập bổ sung ở sách bài tập, giáo viên cần đọc và lựa chọn phù hợp. Sách giáo khoa rất quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh sử dụng máy tính bỏ túi để làm các phép tính một cách nhanh chóng và thuận tiện. nếu trong các tiết luyện tập giáo viên không quan tâm đến việc này thì học sinh sẽ không biết sử dụng thành thạo máy tính bỏ túi để tính. Bên cạnh đó học sinh mất dần hứng thú học toán, máy móc trong việc phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong bài tập, hạn chế khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác, các phẩm chất của tư duy linh hoạt, độc lập và sáng tạo không được phát triển, từ đó hình thành cho học sinh thói quen ỷ lại, không mạnh dạn trình bày ý tưởng của mình. Trước tình trạng và phân tích kết quả có thể xảy ra của thực trạng tôi thấy mình cần phải nắm vững mục tiêu, phương pháp dạy tiết luyện tập toán, góp phần tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động của học sinh nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng lóng say mê học tập và ý chí vươn lên. Để công việc đạt hiệu quả cao hơn, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn toán lớp 6 tôi đã mạnh dạn đưa một số phương án dạy tiết luyện tập vào quá trình giảng dạy của mình Để kiểm chứng kết quả nghiên cứu tôi đã khảo sát hai lớp trước khi thực hiện và thu được kết quả như sau: Lớp Số bài Điểm dưới TB Điểm 5 - 6 Điểm 7- 8 Điểm 9- 10 SL % SL % SL % SL % 6A 24 11 46 12 50 1 4 0 6B 25 14 56 10 40 1 4 0 0 III. Giải pháp và tổ chức thực hiện 1. Để thực hiện thành công một tiết luyện tập, giáo viên cần: - Tham gia đầy đủ các buổi học chuyên đề toán để kịp thời vận dụng được các phương pháp tích cực, phù hợp với đối tượng học sinh của mình. - Thường xuyên tham gia dự giờ đồng nghiệp để rút kinh nghiệm cho bản thân. - Tham khảo các tài liệu về việc đổi mới phương pháp dạy học để học hỏi kinh nghiệm như: Thiết kế bài giảng, Sách giáo viên, Sách bài tập... 2. Trong quá trình tìm tòi nghiên cứu, tôi nhận thấy để đem lại hiệu quả, phát triển tư duy của học sinh ở một tiết luyện tập toán, giáo viên cần quan tâm đến các vấn đề sau: - Tích cực hóa hoạt động tự luyện tập của học sinh từ khâu chuẩn bị ở nhà. - Khi luyện tập cho học sinh áp dụng thành thạo một quy tắc, công thức nào đó cần lựa chọn một số bài tập có cách giải quyết riêng, đơn giản hơn là áp dụng quy tắc tổng quát đã học. - Khuyến khích học sinh tìm nhiều lời giải khác nhau của cùng một bài toán. - Rèn cho học sinh khả năng chuyển từ tư duy thuận sang tư duy nghịch đối với một số bài toán khó để đưa ra hướng giải quyết đơn giản. - Tổ chức trò chơi bằng nhiều hình thức phong phú, góp phần tăng hứng thú học tập. - Rèn kỹ năng sử dụng máy tính bỏ túi để giảm nhẹ những khâu tính toán. - Giúp học sinh hệ thống kiến thức, rèn luyện kỹ năng, thuật toán, rèn nề nếp học. 3. Mục tiêu của tiết luyện tập - Hoàn thiện, nâng cao ( ở mức độ cho phép của chương trình ) lý thuyết qua hệ thống bài tập. - Rèn luyện kỹ năng, thuật toán, nguyên tắc giải toán ( tùy từng bài cụ thể). - Rèn luyện nếp học tập có khoa học, rèn luyện các thao tác tư duy, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo. 4. Tiến hành soạn bài và thực hiện tiết dạy trên lớp a. Nghiên cứu tài liệu: Cần nghiên cứu lại phần lý thuyết mà học sinh được học. Trong các nội dung lý thuyết, phải xác định rõ ràng kiến thức cơ bản và trọng tâm, kiến thức nâng cao hoặc mở rộng cho phép. Đối với bài tập cần biết: - Cách giải từng bài toán. - Tìm hết các cách giải một bài toán. - Xác định cách giải thường gặp, cách giải cơ bản. - Hiểu được ý đồ của tác giả khi viết bài toán. - Hiểu được mục đích và tác dụng của từng bài tập. Sau khi nghiên cứu kỹ các tài liệu mới xây dựng nội dung và đưa ra phương pháp cho tiết luyện tập. b. Xây dựng bài soạn * Mục tiêu ( càng cụ thể càng tốt) * Cấu trúc - Chữa các bài tập đã hướng dẫn và giao về nhà + Số lượng bài tập – dự kiến thời gian + Chốt lại các kiến thức qua các bài tập ( Lý thuyết, thuật toán cần ghi nhớ,...) - Cho học sinh làm bài tập mới ( chọn lọc trong SGK, SBT hoặc tự đưa ra). + Số lượng bài tập – dự kiến thời gian. + Mỗi bài đưa ra có dụng ý gì? +Chốt lại những vấn đề khi cho học sinh làm các bài tập. - Hướng dẫn học sinh học bài, làm bài ở nhà sau tiết luyện tập. + Hệ thống các bài tập cho về nhà làm. + Gợi ý đối với những học sinh yếu, các bài tập khó. * Tiến trình thực hiện: Cần có cách thực hiện các tiến trình trên lớp để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. c. Một số phương án dạy tiết luyện tập Trong một tiết luyện tập toán 6, người thầy có thể hướng dẫn cho học sinh nhiều phương án khác nhau, nhiều hướng đi khác nhau, tôi xin đưa ra 2 phương án tôi sử dụng để dạy tiết luyện tập đối với đối tượng học sinh của tôi như sau: * Phương án 1: - Hoạt động 1: Học sinh trình bày lời giải các bài tập cũ đã làm ở nhà, nhằm kiểm tra: + Học sinh hiểu lý thuyết đến đâu? + Kỹ năng vận dụng lý thuyết trong việc giải bài tập. + Học sinh mắc những sai lầm nào? + Cách trình bày lời giải bằng ngôn ngữ, bằng kí hiệu chuẩn xác chưa? - Hoạt động 2: Giáo viên chốt lại những vấn đề trọng tâm + Nhắc lại một số vấn đề chủ yếu về lý thuyết mà học sinh chưa vận dụng được khi giải bài tập. + Chỉ ra những sai sót của học sinh, những sai sót thường mắc phải mà giáo viên tích lũy được trong quá trình giảng dạy. + Hướng dẫn học sinh các trình bày, diễn đạt bằng ngôn ngữ, kí hiệu toán học.... - Hoạt động 3: Làm thêm bài tập mới, nhằm đạt được yêu cầu: + Hoàn thiện lý thuyết, khắc phục sai lầm học sinh thường mắc phải. + rèn luyện một vài thuật toán cơ bản mà học sinh cần ghi nhớ trong quá trình học tập. + Rèn luyện cách phân tích bài toán, tìm phương hướng giải quyết bài toán. * Phương án 2: - Hoạt động 1: Nhắc lại một cách có hệ thống các nội dung lý thuyết đã học, chú ý đến phương pháp giải các dạng toán. Giáo viên có thể mở rộng phần lý thuyết ở mức độ phổ thông nếu cần thiết. - Hoạt động 2: Kiểm tra sự vận dụng lý thuyết, kiểm tra kỹ năng tính toán, diễn đạt bằng ngôn ngữ, kí hiệu, trình bày lời giải của học sinh. + Cho học sinh lớp nhận xét ưu khuyết điểm trong lời giải, đánh giá đúng, sai hoặc đưa ra cách giải khác hay hơn. + Giáo viên chốt lại vấn đề: Phân tích những sai lầm và nguyên nhân dẫn đến những sai lầm nếu có. Khẳng định những bài làm, bước làm đúng, làm tốt của học sinh để kịp thời động viên. Đưa ra những cách giải khác ngắn gọn hơn, hay hơn hoặc vận dụng lý thuyết linh hoạt hơn( nếu có thể). - Hoạt động 3: Giáo viên cho học sinh làm một số bài tập mới nhằm mục đích: + Kiểm tra ngay sự hiểu biết của học sinh phần lý thuyết mở rộng mà giáo viên đưa ra ở đầu giờ học ( nếu có). +Khắc sâu, hoàn thiện lý thuyết qua các bài tập có tính chất phản ví dụ, các bài tập vui có tính thiết thực. * Tóm lại : Dù sử dụng phương án nào thì cũng có ba phần chủ yếu - Hoàn thiện lý thuyết. - Rèn luyện kỹ năng thực hành. - Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 5. Các ví dụ a. Tích cực hóa hoạt động tự luyện tập của học sinh từ khâu chuẩn bị ở nhà Ví dụ: Tiết 21- Luyện tập ( Sau tiết 20: Tia phân giác của góc- Toán 6 tập 2) - Mục tiêu : + Khắc sâu kiến thức về tia phân giác của một góc. + Rèn kỹ năng giải bài tập về tính góc, áp dụng tính chất về tia phân giác của một góc để làm bài tập. + Vẽ hình cẩn thận, chính xác. - Giáo viên tiến hành hoạt động 1 như sau: Ra bài tập kiểm tra bài cũ: + Vẽ góc mOn có số đo bằng 1800 + Vẽ tia phân giác Ot của góc mOn + Tính góc mOt, góc tOn. + Rút ra nhận xét? Để làm được bài tập này học sinh cần ôn tập kiến thức về vẽ góc khi biết số đo hoặc góc có số đo 1800 là góc bẹt. Học sinh còn phải biết cách vễ tia phân giác. t m n O Học sinh nhận xét: Tia phân giác của góc bẹt hợp với mỗi cạnh của góc một góc 900. Vì vậy giáo viên không cần hỏi :”Thế nào là tia phân giác của một góc” hoặc “Nêu cách vẽ tia phân giác của một góc” mà thông qua bài tập trên học sinh vẫn tái hiện lại các kiến thức đó. Ngoài ra còn rèn luyện kỹ năng tính toán từ đó rút ra nhận xét về tia phân giác của góc bẹt. Để quá trình tự luyện giải bài tập ở nhà của học sinh được tốt hơn giáo viên cần chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi, bài tập giao về nhà hợp lí để học sinh vận dụng ngay kiến thức vừa học vào giải quyết các yêu cầu đó mà không gặp nhiều khó khăn. b. Khi luyện tập cho học sinh áp dụng thành thạo một công thức nào đó, giáo viên cần lựa chọn một số bài tập có cách giải quyết đơn giản hơn là áp dụng quy tắc tổng quát đã học Ví dụ 1: Sau khi học bài “So sánh phân số”. Tiết luyện tập, giáo viên có thể cho học sinh làm một số bài tập so sánh phân số mà không nhất thiết phải áp dụng quy tắc đã học ( đưa về cùng mẫu dương, rồi so sánh tử với nhau), mà có thể dùng phân số trung gian để so sánh hoặc tìm phân số bù của hai phân số để so sánh. Chẳng hạn như so sánh phân số và giáo viên nên hướng dẫn học sinh so sánh với phân số trung gian là 0. Vì: > 0 ; > Hoặc so sánh hai phân số và Ta thấy phần bù của là ; phần bù của là ; Mà > nên < Ví dụ 2: Tìm BCNN và ƯCLN của các số không nhất thiết phải đúng theo quy tắc. Chẳng hạn như: Tìm ƯCLN ( 13, 78) = 13 ( Vì 13 là ước của 78) Tìm BCNN ( 12, 36, 72) = 72 ( Vì 72 là bội của 12 và 36). Những bài tập như vậy rất tốt để giúp học sinh rèn luyện trí tuệ linh hoạt, không máy móc và thay đổi phù hợp với điều kiện mới. Tuy nhiên giáo viên cần phải chọn thời điểm phù hợp, nếu không học sinh dần dần sẽ không còn tin vào quy tắc nữa. Học sinh cần được rèn luyện tư duy linh hoạt, vừa hiểu rõ quy tắc tổng quát để có thể áp dụng có hiệu quả cho mọi bài toán cùng dạng, đồng thời biết phân biệt có thể giải bằng phương pháp đơn giản hơn. c. Khuyến khích học sinh tìm hiểu nhiều lời giải khác nhau của một bài toán Ví dụ: Tiết 49 – Luyện tập ( SGK toán 6) Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 39a SGK. Tính tổng 1 + ( -3) + 5 + (-7) + 9 + (-11) Học sinh có thể tìm ra các cách sau: Cách 1: 1 + ( -3) + 5 + (-7) + 9 + (-11) = [1 + ( -3) ] +[ 5 + ( -7)] + [ 9 + ( -11)] = (-2) + ( -2) + ( -2) = - 6 Cách 2: 1 + ( -3) + 5 + (-7) + 9 + (-11) = ( 1 + 5 + 9) + [ ( -3) + ( -7 ) + ( -11)] = 15 + ( -21) = - 6 Cách 3: 1 + ( -3) + 5 + (-7) + 9 + (-11) = ( 1 + 9) + [ ( -3 ) + ( -7) ] + [ 5 +( -11)] = 10 + ( -10 ) + ( -6) = -6 Học sinh nhận xét về các cách làm. Giáo viên kết luận: Để cộng các số nguyên, ta có thể: + Cộng từ trái sang phải + Cộng các số nguyên dương với nhau, cộng các số nguyên âm với nhau, rồi cộng các kết quả lại. + Nhóm các số nguyên tròn trục, tròn trăm,... vào một nhóm rồi tính. Mỗi cách giải là một phương hướng khác nhau, giáo viên gợi ý để học sinh tìm ra nhiều cách giải. Việc tìm ra nhiều cách giải của một bài toán tất nhiên phải đòi hỏi học sinh phải so sánh các kết quả đó, để tìm ra lời giải hay nhất, hướng cho học sinh có sự sáng tạo phong phú. d. Trong tiết luyện tập, giáo viên cần quan tâm đến việc rèn luyện cho học sinh khả năng chuyển dễ dàng, nhanh chóng từ tư duy thuận sang tư duy nghịch để học sinh nắm vững hơn nội dung kiến thức đã được học ở tiết trước. Ví dụ 1: Tiết 24 – luyên tập ( SGK toán 6) Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 104 ( trang 42 SGK toán 6) Điền chữ số vào dấu * để a) chia hết cho 3; b) chia hết cho 9 Mục đích: Một số chia hết cho 3 ( cho 9) thì tống các chữ số của số đó chia hết cho 3 (cho 9) Học sinh hiểu rõ được điều này thì sẽ dễ dàng tìm được: * = { 2; 5; 8 }; * ={0; 9} Bài tập 105 ( trang 42 SGK toán 6) : Dùng ba trong bốn chữ số 4; 5; 3; 0 ghép thành các số có ba chữ số sao cho các số đó Chia hết cho 9. Chia hết cho 3 mà không chia hết cho 9 Đối với bài tập này đòi hỏi học sinh phải cộng tổng ba trong bốn số 4; 5; 3; 0 nếu tổng nào chia hết cho 9 thì ghép được số chia hết cho 9, tổng nào chia hết cho 3 mà không chia hết cho 9 thì ghép được số chia hết cho 3 mà không chia hết cho 9. 450; 540; 405; 504; b) 453; 435; 345; 354; 543; 534 Ví dụ 2: Tiết 65- Luyện tập ( SGK toán 6) Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 99( SGK toán 6: Áp dụng tính chất a( b – c) = ab – ac. Điền số thích hợp vào ô trống a. . (-13) + 8 . (-13) = ( -7 + 8) . (-13) = b. (-5). (-4 - ) = (-5). (-4) – (-5) . (-14) = Mục đích: Sủ dụng tính chất a( b – c) = ab – ac để biết nếu có ab – ac thì có thể viết thành a( b – c). Suy luận như vậy sẽ nhanh chóng tìm ra kết quả ( -7) ; ( -13); b) ( -14) ; ( -50) e. Xen vào các tiết luyện tập sau khi chữa bài tập giáo viên nên tổ chức các trò chơi giữa các nhóm, học tập bằng nhiều hình thức phong phú, góp phần tăng thêm tinh thần đoàn kết giữa học sinh trong lớp, giảm tính chất căng thẳng của tiết học toán. Thông qua các bài tập “đố”, “thi ghép chữ”, “thi tính nhanh”...học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh hơn và nhớ được lâu hơn. Ví dụ 1: Tiết 16- Luyện tập ( SGK toán 6) Giáo viên có thể tổ chức trò chơi “ đố” qua bài tập 82 SGK toán 6 Cộng đồng các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu dân tộc? Học sinh có thể đưa ra nhiều ý kiến, để biết kết quả chính xác học sinh tiến hành tính giá trị của biểu thức 34 – 33. Kết quả của phép tính chính là câu trả lời. ( 54 dân tộc). Ví dụ 2: Tiết 80 – Luyện tập SGK toán 6 Giáo viên có thể tổ chức trò chơi tính nhanh Hoàn chỉnh bảng sau: ( đề bài ghi trên 2 bảng phụ) -1 12 -1 Luật chơi: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 5 bạn chơi, mỗi bạn được điền kết quả vào 1 ô rồi chuyền phấn cho bạn tiếp theo. Kết quả của bạn trước được dùng vào phép tính của bạn kế tiếp, vì vậy 1 bạn sai thì kết quả của cả đội sẽ sai. Thời gian chơi là 5 phút. Kết thúc trò chơi giáo viên cho học sinh nhận xét và thưởng cho đội thắng cuộc. Ví dụ 3: Tiết 82 – Luyện tập SGK toán 6 Giáo viên có thể cho học sinh tiến hành làm phiếu học tập theo nhóm ( bài tập 55 trang 30 SGK toán 6) + Luật chơi: Mỗi ô điền đúng được 1 điểm, kết quả chưa rút gọn trừ 0,5 điểm . Nhóm nào phát hiện được những kết quả giống nhau điền nhanh được thưởng 1 điểm. Thời gian chơi 5 phút. Đội thắng cuộc sẽ được khen thưởng. Tuy nhiên, việc tiến hành tổ chức các trò chơi trong giờ học đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt, điều khiển tốt, nếu không học sinh dễ gây mất trật tự, lộn xộn, cãi nhau, gây ảnh hưởng đến các lớp xung quanh. f. Việc chuẩn bị dạy tiết luyện tập, điều quan trọng là phải bám sát tư tưởng chủ đạo là hoàn thiện hệ thống kiến thức, rèn luyện kỹ năng, thuật toán, rèn luyện nề nếp học tập. Để đảm bảo phát huy tối đa hoạt động của giáo viên và học sinh, tránh sự đơn điệu, thụ động như các tiết luyện tập toán trước đây. Giáo viên cần tìm tòi, thiết kế hệ thống câu hỏi, kèm theo bài tập để kiểm tra nhận thức của học sinh, tạo tình huống mới về kiến thức đã học, kích thích hứng thú học tập của học sinh Hệ thống câu hỏi, bài tập cần phải gắn liền với các biện pháp kỹ thuật của người giáo viên làm cho tiết học sinh động hơn, làm cho học sinh hiểu được kiến thức sâu sắc hơn. Ví dụ 2: Tiết 87- Luyện tập SGK toán 6 Mục tiêu của tiết dạy - Kiến thức: Củng cố và khắc sâu phép nhân phân số, các tính chất cơ bản của phép nhân phân số. - Kỹ năng: Vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học về phép nhân phân số và các tính chất cơ bản của phép nhân phân số để giảo toán. - Thái độ: Rèn tư duy logic, khơi dậy tình yêu đối với môn toán. Giáo viên có thể tiến hành theo trình tự sau: Bước 1: Giáo viên kiểm tra và yêu cầu học sinh làm bài tập đã giao về nhà để kiểm tra sự vận dụng lý thuyết vào làm bài tập của học sinh ( bài 75; 76 SGK toán 6). Bài 75: ( Đề bài ghi trên bảng phụ) Học sinh lên bảng điền vào ô trống: x ( Kết quả: ; ; ; ) 3 Học sinh lên bảng điền vào 3 ô ở hàng ngang thứ 2 Giáo viên: Từ kết quả của 3 ô hàng ngang thứ 2 ta điền được ngay các ô nào? Vì sao? Học simh sẽ điền được ngay 3 ô ở cột thứ hai, do áp dụng tính chất giao hoán của phép nhân. Giáo viên yêu cầu học sinh nêu tính chất giao hoán của phép nhân? Bước 2: Biết được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh thông qua bước 1, giáo viên chốt lại các vấn đề sau: Với mỗi bài tập có thể có nhiều cách giải khác nhau, vì vậy cần quan sát kỹ các phân số trong bảng hoặc trong biểu thức có quan hệ với n
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giup_hoc_sinh_lop_6_hoc_tot_tiet_luyen_tap_toan.doc