SKKN Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm

SKKN Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm

Đổi mới phương pháp dạy học, giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là một yêu cầu bức thiết đối với ngành giáo dục, với mỗi nhà trường và mỗi giáo viên hiện nay. Sự phát triển như vũ bão của Khoa học công nghệ đã có những tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Trong điều kiện đất nước mở rộng giao lưu và hội nhập, một luồng văn hóa mới từ các nước đã tác động đến tư tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức cuả thế hệ trẻ, trong đó có học sinh THPT. Thế hệ trẻ hôm nay dẽ dàng học đòi, bắt chước, tiêm nhiễm những thói hư tật xấu từ xã hội, từ mạng Internet Trong các nhà trường, học sinh có xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, về sự liều lĩnh, ứng phó không lành mạnh. Một bộ phận không nhỏ có lối sống thụ động, sống ích kỉ, vô tâm, khép mình . Đồng thời kĩ năng thực hành giao tiếp, kĩ năng tự chủ trong cuộc sống, kĩ năng phục vụ bản thân còn yếu, kém. Thực tiễn này đã khiến các nhà giáo dục và những người tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ trong đó có học sinh THPT. Giáo dục kĩ năng sống hoặc giáo dục dựa trên tiếp cận kĩ năng sống có thể cung cấp cho các em các kĩ năng để giải quyết các vấn đề nảy sinh từ các tình huống thách thức. Mặt khác, kĩ năng sống là một phần quan trọng trong nhân cách con người trong xã hội hiện đại. Với mong muốn học sinh có những kĩ năng mềm cần thiết, đặc biệt là sự tự chủ trong cuộc sống, tôi chọn đề tài nghiên cứu: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm.

docx 21 trang thuychi01 5672
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÊN ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM.
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học, giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là một yêu cầu bức thiết đối với ngành giáo dục, với mỗi nhà trường và mỗi giáo viên hiện nay. Sự phát triển như vũ bão của Khoa học công nghệ đã có những tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Trong điều kiện đất nước mở rộng giao lưu và hội nhập, một luồng văn hóa mới từ các nước đã tác động đến tư tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức cuả thế hệ trẻ, trong đó có học sinh THPT. Thế hệ trẻ hôm nay dẽ dàng học đòi, bắt chước, tiêm nhiễm những thói hư tật xấu từ xã hội, từ mạng InternetTrong các nhà trường, học sinh có xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, về sự liều lĩnh, ứng phó không lành mạnh. Một bộ phận không nhỏ có lối sống thụ động, sống ích kỉ, vô tâm, khép mình. Đồng thời kĩ năng thực hành giao tiếp, kĩ năng tự chủ trong cuộc sống, kĩ năng phục vụ bản thân còn yếu, kém. Thực tiễn này đã khiến các nhà giáo dục và những người tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ trong đó có học sinh THPT. Giáo dục kĩ năng sống hoặc giáo dục dựa trên tiếp cận kĩ năng sống có thể cung cấp cho các em các kĩ năng để giải quyết các vấn đề nảy sinh từ các tình huống thách thức. Mặt khác, kĩ năng sống là một phần quan trọng trong nhân cách con người trong xã hội hiện đại. Với mong muốn học sinh có những kĩ năng mềm cần thiết, đặc biệt là sự tự chủ trong cuộc sống, tôi chọn đề tài nghiên cứu: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm. 
Sự thành công bước đầu của đề tài này ít nhiều đã mang lại sự tự chủ, tự tự tin cho học sinh trong học tập và trong cuộc sống.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Giáo dục những kỹ năng cần thiết cho học sinh như: Kỹ năng phản biện, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tự chủ, kỹ năng làm việc nhóm, , tạo sự tự tin cho học sinh khi bước vào cuộc sống. Qua đó, nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông thông qua việc tham gia theo dõi, quản lí lớp.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
Nghiên cứu các đề tài, các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về vấn đề giáo dục và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT; Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông; phân tích, tổng hợp những tài liệu lí luận về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông.
1.4.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
1.4.2.1.Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp được thực hiện nhằm tìm hiểu các nguyên nhân về thực trạng thiếu kỹ năng sống của học sinh THPT. Phương pháp được thực hiện với học sinh lớp 10A2, năm học 2016 - 2017.
1.4.2.2.Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Phương pháp được thực hiện nhằm thu thập thông tin về tính hiệu quả của đề tài. Đối tượng được điều tra gồm GVCN và học sinh các lớp có áp dụng đề tài trong học kì I, năm học 2017 – 2018. 
1.4.2.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp được thực hiện nhằm kiểm tra tính ứng dụng của đề tài. Đối tượng thực nghiệm là HS lớp 10A2, năm học 2016 – 2017.
II. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở viết sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. 1.Xuất phát từ quan điểm của Đảng, Nhà nước về Giáo dục và Đào tạo
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm thay đổi mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục trong các nhà trường, đồng thời đòi hỏi giáo dục phải có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện để cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ cao, góp phần tạo lập nền tảng và động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhận thức rõ được sứ mệnh của ngành giáo dục, Đảng và nhà nước đã chỉ đạo: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. Đồng thời yêu cầu ngành Giáo dục cần: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. [3]
Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước, Bộ giáo dục cũng có nhiều điều chỉnh, bổ sung trong đường lối chiến lược của ngành. Ngay từ những năm đầu của thế kỉ XXI, Bộ đã quy định: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo 
nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". [5]
Ở trang này, đoạn “Nhận thức rõ được sứ mệnh . trong dạy và học” tác giả tham khảo từ TLTK số 3. Đoạn "Phương pháp giáo dục phổ thông cho học sinh” tác giả tham khảo từ TLTK số 5. Còn lại do tác giả tự viết ra. 
Những chiến lược của Đảng, của ngành đưa ra nhằm nhằm đào tạo được nguồn nhân lực mới - những con người không chỉ có tri thức, có phầm chất đạo đức tốt mà còn rất cần phải có kĩ năng sống, kĩ năng hòa nhập. Chính vì thế, giáo dục kỹ năng sống trở thành một mục tiêu quan trọng đối với ngành giáo dục nước nhà.
2.1.1. 2.Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông.
* Khái niệm kỹ năng sống
Kỹ năng sống (life skills) là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi trong lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. 
Tổ chức Y tế Thế giới WHO (1993) định nghĩa: Kỹ năng sống là năng lực tâm lí, xã hội, là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về một tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội. Kĩ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này [7]. Cũng theo WHO, kỹ năng sống được chia thành hai loại là kỹ năng tâm lý xã hội và kỹ năng cá nhân, lĩnh hội và tư duy, với 10 yếu tố như: tự nhận thức, tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp ứng xử với người khác, ứng phó với các tình huống căng thẳng và cảm xúc, biết cảm thông, tư duy bình luận và phê phán, cách quyết định, giao tiếp hiệu quả và cách thương thuyết [1].
Theo UNICEF (UNICEF Thái Lan, 1995): Kỹ năng sống là khả năng phân tích tình huống và ứng xử, khả năng phân tích các ứng xử và khả năng tránh được 
các tình huống. Các kỹ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức “cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế “làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang tính chất xây dựng [7]. 
UNESCO (2003) quan niệm: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp con người có thể kiểm soát, quản lí có hiệu quả nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày [8].
Có thể thấy, mỗi định nghĩa về kỹ năng sống được thể hiện dưới những góc nhìn khác nhau, song đều thống nhất trên nội dung cơ bản. Ấy là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao; hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng. Nói cách khác, kỹ năng sống là tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông qua học tập, đúc rút kinh nghiệm để xử lý những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. 
* Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông.
Kỹ năng sống rất cần với tất cả mọi người, chứ không riêng gì học sinh. Tuy nhiên, học sinh là đối tượng thường được quan tâm đầu tiên trong việc giáo dục kỹ năng sống. Theo nhiều chuyên gia tâm lý, học sinh trung học phổ thông là giai đoạn phát triển rất cao về thể chất và có những biến chuyển tâm lý hết sức phức tạp. Tính chủ định trong nhận thức của các em đã phát triển, tri giác có mục đích đã đạt tới mức cao, quan sát trở nên có mục đích, hệ thống và toàn diện hơn. Cũng ở lứa tuổi này, các em có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và tính nhất quán hơn, tính phê phán cũng phát triển. Học sinh THPT có nhu cầu tìm hiểu đánh giá những đặc điểm tâm lí của mình. Các em có khả năng đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của bản thân mình và những người xung quanh, có những biện pháp kiểm tra đánh giá sự tự ý thức bản thân, biết đặt mình trong sự tương quan với những người khác để nhận ra vị trí của mình trong xã hội, hiện tại và tương lai [9]. Tuy nhiên, nếu thiếu sự hướng dẫn của giáo viên thì các em vẫn là những con người thụ động, dễ có những phản ứng thái quá. Đôi khi ví một lí do nào đó, các em sẽ trở nên bất mãn, chán nản, bỏ bê học tập. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, nhất là học sinh THPT là điều hết sức cần thiết bởi nó sẽ để lại trong quá trình phát triển nhân cách một định hướng tốt. Cái nôi đầu tiên cho việc hình thành kỹ năng sống không đâu khác chính là môi trường trường học, nơi hàng ngày diễn ra cuộc sống thực của các em. Nhưng rèn luyện kỹ năng cho học sinh như thế nào cho hiệu quả luôn là vấn đề trăn trở của các nhà trường, của những người làm công tác giáo dục và của toàn xã hội hiện nay.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Ở Việt Nam, những năm gần đây, Bộ Giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo các trường học phải tiến hành giáo dục kỹ năng sống (trong đó có nội dung giáo dục kỹ năng mềm) nhưng mới chỉ dừng lại ở các văn bản chỉ đạo chứ chưa có một giờ học cụ thể mang tên môn học kỹ năng sống hay kỹ năng mềm; tài liệu hướng dẫn còn sơ lược. Nếu các bộ môn văn hóa đều có chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng, tài liệu tham khảo..., thì các tài liệu giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chưa đảm bảo. Các Nhà trường vẫn tự xây dựng kế hoạch và tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm. 
Do áp lực cạnh tranh và toàn cầu hóa ngày càng cao, mỗi học sinh, sinh viên sau khi ra trường bên cạnh nền kiến thức vững chắc còn phải có kỹ năng ứng phó với hoàn cảnh; chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong khi thực hiện công việc được giao. Điều này, học sinh, sinh viên Việt Nam còn hạn chế, gây ra không ít những trở ngại cho các em khi vào đời. Hiện tượng học sinh THPT khá máy móc và thụ động khi đối mặt với những tình huống bất thường không phải hiếm gặp. Anh Tuấn, phụ huynh của một học sinh lớp 11 khối chuyên lý Trường THPT Hà Nội Amsterdam kể: “Bình thường con tôi là một đứa hoạt bát, khá lợi khẩu, giỏi công nghệ thông tin, am hiểu các vấn đề lịch sử - xã hội nên tôi khá bất ngờ khi con rất ngờ nghệch. Hè vừa rồi, con đi học thêm về thì bị hỏng xe đạp dọc đường. Cháu đã dẫn bộ chiếc xe về nhà suốt quãng đường hơn 1 km, trong khi túi có tiền. Nhìn mặt mũi cháu đỏ gay, mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà tôi phải kìm không cáu [10]. Ở một nghiên cứu khác, tác giả thống kê được: có 37% sinh viên không tìm được việc làm do yếu thiếu yếu tố kỹ năng thực hành xã hội (làm việc theo nhóm, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, giao tiếp...). 83% sinh viên ra trường bị các nhà tuyển dụng đánh giá là thiếu kỹ năng sống. Con số giật mình này được nêu tại buổi tọa đàm “Những kỹ năng thực hành xã hội cần thiết cho sinh viên” do Viện Nghiên cứu giáo dục Việt Nam tổ chức vào ngày 9-12 - 2016 [10]. Vì vậy, việc hình thành, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh ngay khi còn học phổ thông chính là đòi hỏi cấp thiết, giúp các em dần đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. 
2.3. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường THPT Lý Thường Kiệt là một trường ngoài công lập, đối tượng học sinh là những em không đạt nguyện vọng vào các trường công lập. Một bộ phận học sinh không có những kĩ năng cần thiết như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự chủ, kĩ năng phản biện. Trước thực trạng trên, các giáo viên của trường luôn trăn trở: Làm thế nào để rèn luyện kĩ năng sống cho các em?
Tập thể lớp 10A2, năm học 2016 – 2017 do tôi phụ trách có 45 học sinh, bố mẹ các em phần lớn là những người lao động tự do hoặc là công nhân tại các khu công nghiệp, thời gian dành cho con cái rất eo hẹp. Học sinh của lớp là những em dồi dào về thể lực, trí tuệ nhạy bén, thích tìm tòi, sáng tạo, thích tự khẳng định mình. Có em chăm chỉ, chuyên cần, có ý thức vươn lên trong học tập, ý thức kỉ luật tốt, năng lực quản lí tốt.  
Ngoài ra cũng có một số học sinh trầm, ít bộc lộ cảm xúc; một số em chưa 
ngoan, sống ích kỉ. Có những em không muốn đi học nhưng do sự thúc ép của gia đình nên đến trường miễn cưỡng. Những học sinh này bỏ học thường xuyên gây khó khăn cho GVCN trong việc quản lí. Nhiều em trong cuộc sống đời thường biết đi xe máy, biết sử dụng điện thoại di động, biết sử dụng máy vi tính và sử dụng các tiện nghi hiện đại, biết cách chọn trang phục hợp thời trang nhưng lại ứng xử chưa có văn hoá nơi công cộng. Việc xả rác ra lớp học, ra hành lang, trong ngăn bàn diễn ra thường xuyên. Những lời nói tục tĩu được các em sử dụng như ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày. Trong tư duy, biết cách nhận xét đánh giá người khác qua hành động, ngôn ngữ, cử chỉnhưng không dám khám phá năng lực của bản thân. Có khả năng ảnh hưởng đến các bạn nhưng lại thờ ơ với những biểu hiện xấu đang diễn ra xung quanh mình. Ngay cả đội ngũ cán bộ lớp cũng có tư tưởng đối phó, xem việc quản lí lớp là của thầy cô. Các em sống thụ động, ỉ lại, thiếu tự tin. Có em thầy cô giáo hỏi bài đã bật khóc vì không trả lời được. Có những em khi được xếp loại hạnh kiểm vào cuối tuần cảm thấy chưa thỏa đáng nhưng không biết bảo vệ ý kiến của mình trước tập thể. 
Đi tìm nguyên nhân của tình trạng trên, tôi tiến hành điều tra bằng phương pháp phỏng vấn tại lớp chủ nhiệm. Câu hỏi dành cho 45 em trong lớp là: 
Theo em, nguyên nhân nào khiến em thiếu tự tin trong cuộc sống? 
Kết quả thu được:
Nguyên nhân từ
Gia đình
Chương trình giáo dục
Bản thân
Yếu tố khác
Sốlượng (em)
10
25
8
2
Tỉ lệ (%)
22
56
18
4
Biểu đồ thể hiện cơ cấu nguyên nhân HS thiếu tự chủ, tự tin trong cuộc sống
Từ kết quả khảo sát, tôi nhận thấy nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu những kỹ năng mềm cần thiết có thể kể đến: 
Thứ nhất, từ phía gia đình, bố mẹ quá bao bọc con cái. Bất cứ một vấn đề gì dù nhỏ bố mẹ cũng làm hết, kể cả ý kiến của con muốn đề đạt với thầy cô cũng phải thông qua lời bố mẹ. Nhiều bậc cha mẹ quá bận rộn với công việc của mình mà không có thời gian trò chuyện với con cái. Cá biệt có những phụ huynh có tư tưởng khoán trắng cho Nhà trường, “trăm sự nhờ thầy, nhờ cô”. Điều này lâu dần tạo thói quen ỉ lại cho các em, khiến các em sống thu mình, khép kín. Các mối quan hệ xã hội và khả năng tham gia các hoạt động xã hội còn rất hạn chế. Thiếu sự gần gũi từ phía cha mẹ cũng khiến các em sống thờ ơ với mọi thứ xung quanh. 
Thứ hai, nhu cầu được thể hiện và tham gia các hoạt động xã hội của các em là rất lớn nhưng do chương trình giáo dục của nhà trường không đáp ứng được yêu cầu thực tế. Trong cách quản lí, GVCN chưa khích lệ được năng lực sẵn có trong bản thân các em. 
Thứ ba, về phía bản thân, học sinh luôn sợ sai lầm và phải chịu trách nhiệm về những việc mình đã làm. Tâm lí sợ sai, bị trách mắng khiến các em tìm cảm giác an toàn bằng cách im lặng, không dám thể hiện quan điểm của mình trước tập thể. Có chăng chỉ là bàn tán trong nhóm bạn của mình sau mỗi sự việc xảy ra.
2.3. Các biện pháp thực hiện. 
2.3. 1. Nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Vai trò của giáo viên chủ nhiệm rất quan trọng và ảnh hưởng rất nhiều đến học sinh trong tập thể lớp. Hay nói cách khác chủ nhiệm chính là linh hồn của tập thể lớp, vừa là nhà quản lí, vừa là nhà giáo dục trong một tập thể thu nhỏ. Quá trình làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn đặt ra mục tiêu: phải giáo dục học sinh trở thành những con người “vừa hồng vừa chuyên”, vừa là những con người có trí tuệ, vừa có nhân cách, vừa có kĩ năng. Làm thế nào để mỗi học sinh vừa là một con người được tôn trọng, được thể hiện các tính sáng tạo của mình một cách hồn nhiên, vô tư nhất? Điều đó rất cần đến vai trò của người GVCN. Tôi nhận thức được rằng: 
- Chủ nhiệm là người truyền cảm hứng cho học sinh qua mỗi giờ sinh hoạt, qua những hoạt động tập thể. Biết cách truyền cảm hứng sẽ giúp học sinh nhận thức sự cần thiết phải có kĩ năng sống.
- Có tình cảm thật sự đối với học sinh của mình, quan hệ với học trò như là 
người bạn lớn, vừa gần gũi, yêu thương, quan tâm vừa đáng tin cậy.
- Vừa nghiêm khắc vừa rất tâm lí. Luôn biết cách động viên kịp thời sự tiến bộ của học sinh.
2.3. 2. Xây dựng tiêu chí đánh giá, xếp loại cho tập thể nhằm phát huy khả năng tự chủ của học sinh.
Đầu năm học, tôi tiến hành xây dựng tiêu chí thi đua: 
TRƯỜNG THPT LÝ THƯỜNG KIỆT Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
 Lớp  	 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI HỌC SINH
NĂM HỌC 2017- 2018
	- Căn cứ vào điều lệ trường THPT (Ban hành kèm theo thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011) về văn bản quy định nhiệm vụ học sinh THPT
 - Căn cứ vào Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐT ban hành quy chế đánh giá, xếp loại học sinh Trung học cơ sở và học sinh Trung học phổ thông
	- Căn cứ vào tình hình thực tế của lớp 11B2, GVCN xây dựng những quy định về tiêu chí đánh giá xếp loại học sinh năm học 2017-2018 như sau:
I. Những yêu cầu cụ thể .
1. Nhiệm vụ của học sinh. 
- Thưc hiện nhiệm vụ học tập , rèn luyện theo chương trình , kế hoạch giáo dục của nhà trường.
- Đi học đúng giờ , không cố tình vào học muộn , nghỉ học phải xin phép, tham gia đầy đủ các buổi học theo quy định của nhà trường (cả sáng và chiều).
- Mang đầy đủ sách vở học tập theo thời khóa biểu, học, chuẩn bị bài trước khi đi học.
- Kính trọng cha mẹ ,thầy cô giáo ;đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập , rèn luyện , thực hiện nội quy nhà trường, chấp hành pháp luật của nhà nước.
-Rèn luyện thân thể , giữ gìn vệ sinh cá nhân.
-Tham gia các hoạt động tập thể của nhà trường , của lớp , giúp đỡ gia đình và thưc hiện trật tự an toàn giao thông.
-Giữ gìn , bảo vệ tài sản chung của lớp , nhà trường .
2. Quyền của học sinh.
	- Được bình đẳng , tôn trọng và bảo vệ trong việc học tập tại lớp.
	- Được hưởng các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật.
3.Hành vi, ngôn ngữ ứng xử, trang phục 
	- Hành vi, ngôn ngữ ứng xử của học sinh phải đảm bảo tính văn hóa, phù hợp với đạo đức và lối sống của lứa tuổi học sinh trung học. Không văng tục chửi thề khi giao tiếp.
	- Hàng ngày măc áo đồng phục của nhà trường, (buổi chiều có thể mặc áo trắng), quần màu tối sạch sẽ ,kín đáo. Không mặc áo phông không có cổ khi đến trường (kể cả buổi chiều). Đi giầy hoặc dép quai hậu.
4. Các hành vi học sinh KHÔNG được làm.
	- Xúc phạm nhân phẩm , danh dự giáo viên , người khác và học sinh khác .
 	- Làm việc khác, sử dụng điện thoại di động hoặc máy nghe nhạc trong giờ học, hút thuốc , uống rượu bia.. khi đang tham gia các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
	- Đánh nhau , gây rối trật tự , an ninh trong nhà trường và nơi công cộng.
	-Xả rác bừa bãi , mua, ăn quà trong giờ học .
II. Thang điểm các tiêu chí thi đua.
Mỗi họ

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_giao_duc_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_thong_qua_cong_tac_c.docx