SKKN Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm thông qua tiết sinh hoạt lớp

SKKN Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm thông qua tiết sinh hoạt lớp

Môi trường sống, hoạt động và học tập của giới trẻ ngày nay có sự thay đổi đáng kể. Sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực kinh tế - xã hội và giao lưu quốc tế đã và đang tạo ra những tác động đa chiều, phức tạp ảnh hưởng quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Thực tiễn này khiến các nhà giáo dục và những người tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kĩ năng sống (KNS) cho thế hệ trẻ, trong đó có học sinh (HS) trung học phổ thông (THPT).

Thật vậy, kỹ năng sống là điều hết sức quan trọng với tất cả mọi người, chứ không riêng gì học sinh. Tuy nhiên, học sinh là đối tượng thường được nhắm đến đầu tiên trong việc giáo dục kỹ năng sống, đặc biệt là học sinh THPT bởi lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn mà các em có sự phát triển vượt bậc về mặt thể chất và cũng có sự trưởng thành nhất định trong nhận thức; cách nhìn nhận của người lớn đối với các em cũng có sự thay đổi: các em không còn là trẻ con nữa nhưng cũng chưa được nhìn nhận như một người trưởng thành. Trong khi đó các em đã có những sự độc lập nhất định trong tư duy, trong hành vi ứng xử, trong cách nhìn nhận những sự việc diễn ra quanh mình,. dẫn đến các em luôn muốn khẳng định mình, muốn chứng tỏ cho người lớn biết các em thực sự đã trưởng thành, muốn được người lớn công nhận, được đưa ra ý kiến của cá nhân mình tuy nhiên, vì các em chưa nhận thức được một cách đầy đủ dẫn đến xuất hiện những suy nghĩ, những cách hành xử không đúng, không phù hợp với lứa tuổi, làm ảnh hưởng đến người khác thậm chí còn có thể gây hại cho chính bản thân các em[1].

 

docx 22 trang thuychi01 34033
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm thông qua tiết sinh hoạt lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT NGỌC LẶC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM THÔNG QUA TIẾT SINH HOẠT LỚP
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm
THANH HOÁ NĂM 2018
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môi trường sống, hoạt động và học tập của giới trẻ ngày nay có sự thay đổi đáng kể. Sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực kinh tế - xã hội và giao lưu quốc tế đã và đang tạo ra những tác động đa chiều, phức tạp ảnh hưởng quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Thực tiễn này khiến các nhà giáo dục và những người tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kĩ năng sống (KNS) cho thế hệ trẻ, trong đó có học sinh (HS) trung học phổ thông (THPT).
Thật vậy, kỹ năng sống là điều hết sức quan trọng với tất cả mọi người, chứ không riêng gì học sinh. Tuy nhiên, học sinh là đối tượng thường được nhắm đến đầu tiên trong việc giáo dục kỹ năng sống, đặc biệt là học sinh THPT bởi lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn mà các em có sự phát triển vượt bậc về mặt thể chất và cũng có sự trưởng thành nhất định trong nhận thức; cách nhìn nhận của người lớn đối với các em cũng có sự thay đổi: các em không còn là trẻ con nữa nhưng cũng chưa được nhìn nhận như một người trưởng thành. Trong khi đó các em đã có những sự độc lập nhất định trong tư duy, trong hành vi ứng xử, trong cách nhìn nhận những sự việc diễn ra quanh mình,... dẫn đến các em luôn muốn khẳng định mình, muốn chứng tỏ cho người lớn biết các em thực sự đã trưởng thành, muốn được người lớn công nhận, được đưa ra ý kiến của cá nhân mìnhtuy nhiên, vì các em chưa nhận thức được một cách đầy đủ dẫn đến xuất hiện những suy nghĩ, những cách hành xử không đúng, không phù hợp với lứa tuổi, làm ảnh hưởng đến người khác thậm chí còn có thể gây hại cho chính bản thân các em[1]. 
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, bạo lực học đường ngày càng gia tăng, học sinh tự tử vì nhiều nguyên nhân HS không hứng thú trong học tập, đánh nhau trong trường, bị xâm phạm,bị lợi dụng,...Hơn thế nữa, hiện tượng đi xuống về đạo đức trong nhà trường như vô lễ với giáo viên, nói trống không, chỉ chào thầy cô dạy mìnhcũng đang xảy ra ngày một nhiều. Trong gia đình, nhiều em rất thiếu kỹ năng làm việc nhà, kỹ năng tự phục vụ bản thân. Ngoài xã hội, hiện tượng các em ngu ngơ khi phải xử lý những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chícũng ngày một nhiều. Nguyên nhân là do các em không có khả năng ứng phó với những áp lực căng thẳng trong cuộc sống, không biết giải quyết xung đột, không tiết chế được cảm xúc bản thân. Theo các chuyên gia giáo dục (GD), nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống (KNS).
Vấn đề HS thiếu KNS, thiếu tính tự tin, thiếu tự lập, sống thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình, ích kỉ, vô tâm đang là những rào cản lớn cho sự phát triển toàn diện của thanh thiếu niên khiến không chỉ các bậc phụ huynh và giáo viên (GV) phiền lòng, mà đã trở thành vấn đề nóng của toàn xã hội trước xu thế xã hội phát triển ngày càng năng động.[3]
Vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho HS đặc biệt là HS phổ thông là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em, từ từng hành vi cá nhân đơn giản nhất từ đó hình thành tính cách và nhân cách. Nhưng rèn luyện kỹ năng sống cho HS như thế nào cho hiệu quả, thu hút được các em luôn là vấn đề trăn trở của các nhà trường, của những người làm công tác giáo dục và của toàn xã hội hiện nay.
Đứng trước vấn nạn sa sút về đạo đức lối sống của HS, năm học 2011- 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chỉ thị "tăng cường nội dung giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh", tích cực lồng ghép dạy học tích hợp GD KNS cho các em HS ở tất cả các môn học trong nhà trường.[3]
 Là một GV trong nhà trường, trực tiếp đứng trên bục giảng, qua những năm công tác tại trường Trung học phổ thông (THPT) Ngọc Lặc, tôi nhận thấy rằng các em HS của trường THPT Ngọc Lặc rất thiếu và yếu về KNS. Các em rất nhút nhát, không mạnh dạn tham gia các hoạt động tập thể, KN giao tiếp cực kì hạn chế, KN giải quyết mâu thuẫn lại càng hạn chế hơn, ví như chỉ với mâu thuẫn tình cảm nam nữ hay chỉ một xích mích nhỏ đã kéo ra đánh nhau,... Đặc biệt hơn ngay trong lớp học do tôi chủ nhiệm đã có em HS nữ phải bỏ dở việc học để ở nhà lập gia đình cũng chỉ vì thiếu những KNS cần thiết. Vì vậy tôi luôn trăn trở là làm thế nào để các em có được nhận thức đúng đắn về giá trị cuộc sống cũng như có cách giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống một cách tốt đẹp nhất. Cũng xuất phát từ đây, trong những giờ tôi lên lớp tôi luôn chú trọng việc dạy học lồng ghép GD KNS cho các em HS thông qua bộ môn của mình. Đặc biệt trong công tác chủ nhiệm, đây là cơ hội tốt nhất để gần gũi và GD KNS cho các em HS của lớp mình. Vì vậy trong công tác chủ nhiệm lớp 11A10 năm học 2016- 2017, tôi đã chủ động lên kế hoạch (KH) cho những tiết sinh hoạt lớp, những buổi sinh hoạt tập thể,... để làm sao qua những hoạt động tập thể trên các em có thêm được nhiều KNS cần thiết, từ đó giúp các em ngày một tiến bộ hơn.
Từ những thực trạng và mong muốn trên, cùng với những trải nghiệm và kết quả đạt được trong công tác chủ nhiệm, đặc biệt là công tác GD KNS cho các em HS lớp chủ nhiệm, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài:
“Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm thông qua tiết sinh hoạt lớp”.
Kính mong được sự quan tâm, góp ý của đồng nghiệp để sáng kiến của tôi thêm hoàn thiện và vận dụng cho những năm học tiếp theo.
2. Mục đích nghiên cứu: 
Đề tài ra đời nhằm GD KNS cho các em, qua đó giúp các em HS:
- Có khả năng giao tiếp, ứng xử một cách linh hoạt và đạt hiệu quả cao.
- Làm chủ được bản thân, sống tự tin, năng động.
- Biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống.
- Biết cách giải quyết những mâu thuẫn trong cuộc sống một cách dễ dàng.
- Sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và cộng đồng.
- Sống đoàn kết, có tình cảm hơn, mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình.
- Luôn biết kiềm chế cảm xúc, làm chủ được các hành vi ứng xử của bản thân.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài được áp dụng cho học sinh lớp chủ nhiệm 11A10 năm học 2016-2017
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: 
Thông qua việc nghiên cứu các tài liệu, văn bản liên quan..
4.2. PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: 
Thông qua các giờ sinh hoạt lớp, gặp gỡ trò chuyện với học sinh, tăng cường mối liên hệ với cha mẹ học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình...
4.3. PP thống kê, xử lý số liệu: 
Được tiến hành thông qua việc so sánh, đối chiếu số liệu về kết quả giáo dục của lớp đạt được so với năm trước khi chưa được áp dụng SKKN
4.4. PP viết báo cáo khoa học.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận 
Để GD KNS cho HS lớp chủ nhiệm đạt kết quả cao thì trước hết người GVCN phải hiểu rõ một số khái niệm cơ bản sau:
a. Kỹ năng sống là gì?
- Quan niệm của Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của liên hợp quốc( UNESCO):
+ KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hành ngày
+ Quan niệm khác coi KNS gắn liền với 4 trụ cột của giáo dục là : Học để biết ( Learning to know) ; Học để tự khẳng định(Learning to be ) ; Học để chung sống với người khác (Learning to live together ) và Học để làm(Learning to do)
- Quan niệm của Tổ chức y tế thế giới WHO : KNS là những kĩ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh. Rộng hơn, KNS là những năng lực mang tính tâm lí xã hội và kĩ năng về giao tiếp để tương tác hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống trong cuộc sống hàng ngày
- Quan niệm của Quỹ nhi đồng liên hợp quốc(UNICEF) : KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng
Tóm lại, KNS là năng lực tâm lí - xã hội của mỗi cá nhân, giúp con người có khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.[2]
Tổng hợp các nghiên cứu của các nước và thực tế ở Việt Nam, người ta xác định rằng có 13 KNS căn bản và quan trọng hàng đầu cho HS THPT gồm: 
+ KN tự nhận thức	+ KN xác định giá trị
+ KN kiểm soát cảm xúc	+ KN ứng phó căng thẳng
+ KN tìm kiếm sự hỗ trợ	+ KN thể hiện sự tự tin
+ KN giao tiếp	+ KN lắng nghe tích cực
+ KN thể hiện sự cảm thông	+ KN thương lượng
+ KN giải quyết mâu thuẫn	+ KN hợp tác
+ KN tư duy phê phán.[7]
b. Giáo dục kỹ năng sống là gì?
Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình tác động sư phạm có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực hiện công việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống hàng ngày [7]
GD KNS cho HS là việc làm rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển nhân cách của các em. GD KNS cần được tiến hành càng sớm càng tốt và có thể bắt đầu ngay từ bậc tiểu học, thậm chí còn có thể ở tuổi mầm non. Bởi vì lứa tuổi này những hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách đang dần được hình thành.[7]	
c. Tại sao phải giáo dục KNS cho học sinh?
Cần GD KNS cho học sinh vì:
- KNS góp phần thúc đẩy sự phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân
- KNS góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội bền vững
- Chương trình hành động Dakar (Diễn đàn GD cho mọi người - Senegan 2000) yêu cầu mỗi quốc gia phải triển khai giáo dục KNS cho người học.[2]
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Ngọc Lặc là một huyện nằm xa trung tâm của thành phố Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hoá khoảng 70 km về phía Tây. Đây là vùng đất có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (dân tộc Mường, Dao, Thái,). Trong những năm gần đây, Ngọc lặc đang trên đà phát triển để trở thành trung tâm của các huyện miền núi, là Đô thị miền Tây. Do vậy, sự phát triển của kinh tế, sự xuất hiện của các công ty, các khu công nghiệp, các ngành dịch vụ, giải trí, sự giao thoa giữa các nét văn hóa truyền thống với văn minh đô thị...cùng với sự phát triển bùng nổ về công nghệ thông tin...đang tạo ra nhiều vấn đề xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới các em học sinh THPT huyện nhà khi các em được học trong một môi trường hoàn toàn mới lạ (lên cấp 3, các em sẽ rời gia đình bao đời sống trong các thôn bản để ra trung tâm huyện học).
 Trường THPT Ngọc Lặc là một trong ba ngôi trường trong huyện (Trường THPT Dân Tộc Nội Trú Ngọc Lặc mới được thành lập và đi vào hoạt động 1 năm nay) có học sinh là người dân tộc thiểu số chiếm phần lớn: khoảng 90% số học sinh trong trường nên việc hình thành các KNS cho các em là cực kì cần thiết. Những hạn chế về GD KNS cho các em ở các cấp học trước cộng với điều kiện sống khó khăn; môi trường sống là ở các làng xã xa xôi; ông bà, bố mẹ và anh chị em trong gia đình lại là những người rất thiếu KNS nên mặc dù hiện tại các em được học tập và sinh sống ở khu vực thị trấn nhưng việc giao tiếp với bạn bè, với thầy cô giáo cũng như cách mà các em ứng phó với những tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày... là rất hạn chế. Việc giao tiếp hạn chế đã làm cho các em ngày càng rụt rè, tự ti, ít nói, khả năng diễn đạt kém,...Từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học tập của các em trong nhà trường cũng như cơ hội của các em sau này khi ra ngoài xã hội
Mặt khác, lứa tuổi 14-15 (học sinh vào lớp 10) là lứa tuổi đang có sự mất cân bằng về tâm sinh lí, muốn khẳng định mình, coi mình là người lớn, muốn được đối xử như người lớn, muốn được độc lập trong suy nghĩ và hành động, 
muốn thử sức mình và độc lập khám phá những cái mới để khẳng định mình là người lớn
Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ như các em thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Xa gia đình
và có nhiều cám dỗ của xã hội Nên chính giai đoạn này, nếu các em không có được những kĩ năng sống cần thiết sẽ dẫn đến các em dễ có những hành vi không đúng mực, dễ sa ngã nhất. 
Mặc dù từ năm học 2011-2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chỉ thị "tăng cường nội dung giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh", tích cực lồng ghép dạy học tích hợp GD KNS cho các em HS ở tất cả các môn học trong nhà trường. Tuy nhiên với thói quen dạy và học chưa có tích hợp GD KNS trước kia, nhiều GV cảm thấy rất khó khăn khi lồng ghép GD KNS cho HS vào giờ học. Hơn thế nữa, do thời lượng của giờ dạy giới hạn và việc phải đảm bảo nội dung chương trình học đã khiến cho nhiều GV bộ môn bỏ qua việc lồng ghép GD KNS vào bài học hoặc nếu có thì chỉ hời hợt qua loa. Mặt khác, GD KNS cho các em HS là rất cần thiết nhưng do mới được yêu cầu áp dụng rộng rãi nên còn chưa có tài liệu chuẩn cho các nhà trường vận dụng. Nhiều trường học hiểu chưa rõ về chương trình này lại càng hoang mang, không biết dạy cái gì và dạy như thế nào. Nhiều GV bối rối không biết phải GD KNS cho HS ra làm sao, lồng ghép vào khi nào và lồng ghép như thế nào cho hợp lí. Ngay cả chính bản thân một số GV cũng chưa có đủ những KNS cần thiết để áp dụng vào cuộc sống thì việc vận dụng các phương pháp GD KNS để truyền đạt nội dung tới các em HS lại càng khó khăn.[7]
Việc thực hiện GD KNS cho học sinh trường THPT Ngọc Lặc cũng không ngoại lệ. Tôi xin nêu một số trường hợp điển hình ở lớp 10A10 năm học 2015 -2016 như sau: Em Cẩm Linh khi được GV quan tâm và tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình mình thì em ngượng ngùng không chia sẻ; chỉ mới là HS lớp 10 nhưng em Huy Hoàng liên tục gây rối đánh nhau với các bạn, em Thương Hoài vì phút bồng bột đã để lại hậu quả, kết quả phải bỏ học ở nhà đi lao động, em Phương Thanh bỏ học đi làm ăn rồi quay trở lại trường học bỏ lỡ mất 2 năm tuổi trẻTất cả vấn đề này, nếu suy ngẫm một cách thật thấu đáo thì nguyên nhân phần nhiều là do các em chưa có đủ KNS để có thể đối mặt được với những thách thức, áp lực trong suộc sống.
Từ những vấn đề thực tiễn rất nhức nhối nêu trên, với vai trò là một GV trong nhà trường, với tinh thần trách nhiệm của một giáo viên chủ nhiệm (GVCN), tôi thấy mình cần phải thực hiện việc GD KNS cho các em HS mà trước hết là những HS lớp mình chủ nhiệm để các em có thể thích ứng với cuộc sống hiện đại tốt nhất. Vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài này.
3. Các giải pháp đã áp dụng. 
Việc đưa GD KNS vào giờ sinh hoạt lớp chủ yếu thông qua nội dung sinh hoạt trong từng buổi nhằm làm tăng tính chủ động của HS trong lớp, phát huy năng lực của từng cá nhân, nhấn mạnh vai trò của tập thể, để HS thấy được và từ đó luôn ý thức được tinh thần cũng như KN làm việc nhóm trong quá trình giải quyết các vấn đề chung. Chính vì vậy, tôi xin đưa ra các kịch bản sinh hoạt lớp mà tôi đã từng thực hiện với lớp chủ nhiệm trong quá trình tôi được nhận nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm như sau:
Mỗi tiết sinh hoạt lớp được chia thành 2 hoạt động chủ đạo.
Hoạt động 1 :
Lớp trưởng cùng với các tổ trưởng sơ kết tuần vừa qua. GVCN tuyên dương, khen thưởng những HS có thành tích tốt trong tuần, nhắc nhở HS vi phạm và nhận xét chung, phổ biến KH của tuần tới.( Hoạt động này chiếm tối đa 15 phút)
Hoạt động 2 : ( toàn bộ thời gian còn lại)
Tổ chức hoạt động tập thể theo chủ đề và kịch bản đã được GVCN và ban cán sự lớp chuẩn bị trước.
3.1. Kịch bản 1: Tổ chức trò chơi
* Những lưu ý khi tổ chức trò chơi cho các em HS lớp chủ nhiệm như sau:
- Không nên sa đà vào việc tổ chức các trò chơi mang tính giải trí đơn thuần, sẽ làm sai lệch mục đích của việc lồng ghép nội dung GD KNS trong giờ sinh hoạt.
- GVCN phải chuẩn bị trước và tham khảo thêm các trò chơi cho phù hợp, thay đổi nội dung và phương thức sinh hoạt để tránh nhàm chán. Có thể tham khảo thêm ý tưởng từ chính các em học sinh.
Một số trò chơi có thể tiến hành trong giờ sinh hoạt nhằm GD KNS cho HS
* Trò chơi 1: Mong muốn, hi vọng, quan tâm
 - Yêu cầu:
+ GV: Chuẩn bị một cái hộp không có nắp đậy bằng thùng cacton có bọc giấy và trang trí sinh động.( Việc này có thể có sự hỗ trợ từ trước của các bạn cán bộ lớp)
+ HS: Tất cả các HS trong lớp tham gia, mỗi em chuẩn bị một tờ giấy trắng và một cây bút viết.
* Chú ý : Do số lượng học sinh nhiều nên có thể tiến hành trò chơi này trong 2hoặc 3 tiết sinh hoạt và nên tổ chức ngay trong những tuần đầu tiên của năm học. Việc này sẽ giúp GVCN nắm bắt được hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng của HS lớp chủ nhiệm, từ đó có những biện pháp giáo dục phù hợp cũng như có những động viên chia sẻ kịp thời những khó khăn của các em.
- Cách tiến hành:
+ Các em HS độc lập làm việc, ghi đầy đủ những mong muốn, hy vọng của các em và những điều các em đang quan tâm đến vào tờ giấy của mình.(Để đảm bảo tính riêng tư, các em không ghi tên lên tờ giấy)
+ GV yêu cầu lớp trưởng thu lại tất cả những mảnh giấy này để vào hộp, sau đó yêu cầu mỗi HS ngẫu nhiên chọn ra một mảnh giấy trong hộp và đọc lên những mong muốn, hi vọng, quan tâm cho HS cả lớp cùng nghe.
+ GVCN chọn một HS lên viết ra những thông tin đó lên trên bảng.
+ GVCN tổng hợp lại những mong muốn, suy nghĩ, tâm tư và nguyện vọng của các HS. Từ đó GV đưa ra lời nhận xét, phân tích về những điều mà các em đang cần và đang quan tâm, những mơ ước và hoài bão của các em HS. Từ đó giúp các em thấy được những cái nào là thiết thực, là nhiệm vụ trước mắt, những gì là tương lai xa để các em định hướng được suy nghĩ, hành động của bản thân cho phù hợp với từng giai đoạn.
- Kĩ năng được hình thành và củng cố: 
+ KN tự nhận thức và KN xác định giá trị bản thân: Được hình thành trong hoạt động HS tự mình viết ra những mong muốn riêng của mình, nói lên những điều mình hi vọng sẽ đạt được và cả những điều mà mình quan tâm đến
+ KN lãnh đạo : lớp trưởng được giao nhiệm vụ thu các mẫu giấy của các bạn thể hiện vai trò lãnh đạo lớp.
+ Kĩ năng lắng nghe: Được hình thành khi GV nêu yêu cầu, thông báo luật, nội dung của trò chơi; HS phải lắng nghe để xác định rõ luật chơi và cách chơi.Và quan trọng hơn hết, các em biết lắng nghe các thông tin được đọc ra từ các mảnh giấy do chính các em và các bạn viết nên.
+ Kĩ năng thuyết trình: Được hình thành khi HS đứng dậy và đọc những điều được ghi trong các mảnh giấy lấy ra từ trong hộp.
+ Kĩ năng giao tiếp và ứng xử: Được hình thành và củng cố thông qua quá trình giao tiếp giữa các em HS với nhau, giữa GV và HS trong quá trình thực hiện trò chơi.
* Trò chơi 2 : Vẽ khuôn mặt với các biểu cảm khác nhau
- Yêu cầu : 
+ GV : chuẩn bị một số tờ giấy trắng nhỏ và phát cho HS
( Để trò chơi đạt được kết quả như mong muốn, GVCN nên có sự quan sát nhanh trạng thái tâm lí hiện tại của HS trong lớp, từ đó phát giấy đúng đối tượng mà mình mong muốn. Có thể phát ngẫu nhiên cho một vài em bình thường trong lớp để không bị “lộ ý đồ”)
+ HS : Số lượng tham gia khoảng 10 em / lần / buổi.
Cách tiến hành :
+ Các em HS sẽ vẽ vào tờ giấy trắng một khuôn mặt với đúng biểu hiện cảm xúc hiện tại của mình( vui, buồn, giận dữ, thất vọng,) và nộp lại.
+ GV sẽ lần lượt bốc ngẫu nhiên một khuôn mặt và yêu cầu HS đó thành thật nêu ra lí do vì sao em lại vẽ khuôn mặt như vậy: Do chuyện gia đình hay chuyện học hành trên lớp hay mối quan hệ bạn bè
+ Sau khi lắng nghe một cách chân thành, GV sẽ mời một số bạn trong lớp góp ý, thảo luận và cuối cùng đưa ra lời khuyên bổ ích, phù hợp cho các em.
- Kĩ năng được hình thành và củng cố:
+ KN kiểm soát cảm xúc: Được hình thành khi các em bình tĩnh nêu ra được vấn đề mà bản thân gặp phải, biết suy nghĩ thấu đáo và tìm ra được hướng giải quyết phù hợp để không có những cảm cúc tiêu cực ảnh hưởng đến bản thân.
+ KN tìm kiếm sự hỗ trợ: Được hình thành khi HS nhận được những sự tư vấn, phân tích hữu ích từ các bạn và cô giáo. Từ đó giúp HS thấy được khi gặp vấn đề, những tình huống khó khăn trong cuộc sống có thể tìm kiếm sự hỗ trợ từ thầy cô, bạn bè.
+ KN lắng nghe tích cực: Được hình thành khi các em biết lắng nghe những vấn đề của các bạn, từ đó có nh

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_giao_duc_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_lop_chu_nhiem_thong.docx