SKKN Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh qua một số bài dạy môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông

SKKN Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh qua một số bài dạy môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông

Cuộc sống xã hội ngày càng phát triển, càng có nhiều điều kiện thuận lợi để thỏa mãn nhu cầu, cũng như chăm sóc đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Đặc biệt với lứa tuổi học sinh trung học phổ thông các em đã có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cơ thể, hoàn thiện nhân cách của mình.

Ngày nay, cùng với sự bùng nổ thông tin, với phương tiện nghe nhìn hiện đại, thông tin hàng ngày, hàng giờ tác động đến trẻ em nhất là học sinh trung học phổ thông- lứa tuổi nhạy cảm. Những phim ảnh về cuộc sống gia đình, về tình yêu ảnh hưởng rất nhanh đến các em. Việc thiếu kiến thức và thiếu các hoạt động giải trí lành mạnh. Đặc biệt là những ngày tháng gần đây trên các kênh thông tin các trẻ em gái bị xâm hại tình dục ở mọi nơi ảnh hưởng lớn đến hành vi lệch lạc ở trẻ em về giới tính và tình dục đã xảy ra nhiều điều đáng tiếc cần phải được uốn nắn kịp thời.

Tuy nhiên đây cũng là thời kỳ mà các em có sự hoàn thiện về tâm sinh lí, các em đã biết chú ý đến làm đẹp bản thân trước người khác giới, có nhiều mối quan hệ với người khác giới, nhất là lúc này các em đã xuất hiện những rung cảm đầu đời. Để chuẩn bị cho lứa tuổi này bước vào đời sống gia đình, tình dục một cách lành mạnh, an toàn, ngăn ngừa hậu quả xấu có thể xảy ra, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho xã hội, gia đình và bản thân thì giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản lành mạnh, an toàn trở thành một nhu cầu thiết yếu hơn bao giờ hết.

Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản có hiệu quả sẽ tác động đến sự hiểu biết, thái độ, hành động của các em học sinh. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của các em trong việc bảo toàn và nâng cao chất lượng nòi giống, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần ổn định và phát triển gia đình, xã hội.

Nội dung giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản đã được đưa vào lồng ghép ở một số môn học ở trường trung học phổ thông như môn: sinh học, địa lý,. trong đó có môn giáo dục công dân. Môn giáo dục công dân có nhiều lợi thế trong việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh, bởi vì đây là môn học cung cấp cho các em những giá trị chuẩn mực về đạo đức, văn hóa, pháp luật. để từ đó giúp học sinh có những hiểu biết, có những hành vi ứng xử đúng đắn trong mối quan hệ với bạn bè khác giới, với sức khỏe sinh sản bản thân, với gia đình và xã hội.

 

doc 26 trang thuychi01 6160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh qua một số bài dạy môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
 Trang
I.PHẦN MỞ ĐẦU ...2 
1.1. Lí do chọn đề tài.2
1.2. Mục đích nghiên cứu..2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.2
1.4. Phương pháp nghiên cứu3
II.PHẦN NỘI DUNG3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm3
2.2. Tính tất yếu khách quan và thực trạng vấn đề giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT.4
2.3. Thực trạng giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh trong trường THPT thông qua một số bài dạy môn giáo dục công dân.9
2.3.1. Mục tiêu giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản qua môn giáo dục công dân9
2.3.2. Hệ thống những bài giáo dục công dân có thể lồng ghép.10
2.3.3. Thiết kế một tiết dạy, có lồng ghép nội dung giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản 14
III.KẾT LUẬN21
3.1. Kết luận21
3.2. Kiến nghị...21
I.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Cuộc sống xã hội ngày càng phát triển, càng có nhiều điều kiện thuận lợi để thỏa mãn nhu cầu, cũng như chăm sóc đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Đặc biệt với lứa tuổi học sinh trung học phổ thông các em đã có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cơ thể, hoàn thiện nhân cách của mình.
Ngày nay, cùng với sự bùng nổ thông tin, với phương tiện nghe nhìn hiện đại, thông tin hàng ngày, hàng giờ tác động đến trẻ em nhất là học sinh trung học phổ thông- lứa tuổi nhạy cảm. Những phim ảnh về cuộc sống gia đình, về tình yêu ảnh hưởng rất nhanh đến các em. Việc thiếu kiến thức và thiếu các hoạt động giải trí lành mạnh. Đặc biệt là những ngày tháng gần đây trên các kênh thông tin các trẻ em gái bị xâm hại tình dục ở mọi nơi ảnh hưởng lớn đến hành vi lệch lạc ở trẻ em về giới tính và tình dục đã xảy ra nhiều điều đáng tiếc cần phải được uốn nắn kịp thời.
Tuy nhiên đây cũng là thời kỳ mà các em có sự hoàn thiện về tâm sinh lí, các em đã biết chú ý đến làm đẹp bản thân trước người khác giới, có nhiều mối quan hệ với người khác giới, nhất là lúc này các em đã xuất hiện những rung cảm đầu đời... Để chuẩn bị cho lứa tuổi này bước vào đời sống gia đình, tình dục một cách lành mạnh, an toàn, ngăn ngừa hậu quả xấu có thể xảy ra, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho xã hội, gia đình và bản thân thì giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản lành mạnh, an toàn trở thành một nhu cầu thiết yếu hơn bao giờ hết.
Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản có hiệu quả sẽ tác động đến sự hiểu biết, thái độ, hành động của các em học sinh. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của các em trong việc bảo toàn và nâng cao chất lượng nòi giống, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần ổn định và phát triển gia đình, xã hội.
Nội dung giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản đã được đưa vào lồng ghép ở một số môn học ở trường trung học phổ thông như môn: sinh học, địa lý,... trong đó có môn giáo dục công dân. Môn giáo dục công dân có nhiều lợi thế trong việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh, bởi vì đây là môn học cung cấp cho các em những giá trị chuẩn mực về đạo đức, văn hóa, pháp luật... để từ đó giúp học sinh có những hiểu biết, có những hành vi ứng xử đúng đắn trong mối quan hệ với bạn bè khác giới, với sức khỏe sinh sản bản thân, với gia đình và xã hội.
Để hiểu về tầm quan trọng của giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản đối với học sinh trung học phổ thông qua môn giáo dục công dân, tôi chọn đề tài “giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh qua một số bài dạy môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông”.làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm xác định một cách cụ thể các nội dung và phương pháp giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh qua môn giáo dục công dân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 Chủ yếu là học sinh trung học phổ thông
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích, tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp phỏng vấn giáo viên và học sinh.
- Phương pháp quan sát (thông qua các tiết giảng dạy và các hoạt động).
:
II.PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
 Quan niệm về giáo dục giới tính 
Vào đầu thế kỷ XX nhu cầu về giáo dục giới tính cho trẻ em đã xuất hiện ở một số nước phương Tây như Mỹ, Đông Âu... Xuất phát từ quan điểm tính dục là quyền tự do của con người, là quyền bình đẳng giữa nam và nữ, là trách nhiệm đạo đức của công dân với xã hội. Giáo dục giới tính đã trở thành môn học ở nhiều nước trên thế giới, được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông với các tên gọi khác nhau: ví dụ như Thái Lan gọi là Giáo dục đời sống gia đình. Thụy điển gọi là Vệ sinh tình dục. Tại Malaysia, Bộ giáo dục cũng đã đưa vấn đề này vào trường học từ năm 1967-1968 và hiện nay nó có cả bề dày về việc đào tạo cán bộ giáo viên chuyên sâu để giảng dạy về vấn đề này
Ở Việt Nam từ những năm 1988 thì giáo dục giới tính cũng đã được đưa vào giáo dục thí điểm ở một số trường phổ thông. Được sự đồng ý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, sự ủng hộ của dư luận xã hội, sự mong chờ của thế hệ trẻ, với sự tài trợ của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNEPA) và sự giúp đỡ kỹ thuật của UNESCO khu vực, đề án “giáo dục đời sống gia đình và giới tính” ký hiệu là VIE/88/P09, đã biên soạn nội dung chương trình và tài liệu giảng dạy về “giáo dục đời sống gia đình” cho giai đoạn thực nghiệm (1988 - 1991). Về sau đã có thêm nhiều tài liệu liên quan đến nội dung giáo dục giới tính, cũng như giáo dục sức khỏe sinh sản trong nhà trường phổ thông như dựa án VIE/94/P01, VIE/97P13... 
Trong sự phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện nay thì sự hiểu biết cơ bản về giới tính của mỗi người có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là kiến thức không thể thiếu để mỗi người tự bảo vệ sức khỏe của mình và của cộng đồng; biết quan hệ, ứng xử với người khác phù hợp với chuẩn mực giới tính và đạo đức xã hội, đồng thời biết bảo vệ hạnh phúc gia đình, duy trì nòi giống, phòng chống các bệnh xã hội 
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), tuổi vị thành niên là giai đoạn từ 10 – 19 tuổi, nằm trong khoảng thời gian từ lúc dậy thì đến lúc trưởng thành. Ở nước ta có 50% dân số dưới 20 tuổi, trong đó 20% có độ tuổi từ 10-19, tức là khoảng 15 triệu người thuộc lứa tuổi vị thành niên. (Giáo dục dân số – sức khỏe sinh sản vị thành niên – Bộ giáo dục và đào tạo – ủy ban dân số, gia đình và trẻ em – Hà Nội – 2005, tr.37)
 Theo bộ y tế, tình hình nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng. Mỗi năm có khoảng 1,2-,1,4 triệu trường hợp nạo phá thai, chiếm 20-25%. (Giáo dục dân số – sức khỏe sinh sản vị thành niên – Bộ giáo dục và đào tạo – ủy ban dân số, gia đình và trẻ em – Hà Nội – 2005, tr.34).
Tại Trung tâm Kế hoạch hóa gia đình TPHCM, mỗi ngày có hàng chục ca đến làm thủ tục khám và xin bỏ thai. Theo thống kê, số lượng thai phụ dưới 18 tuổi đến phá thai trung bình một năm khoảng 911 ca. So với những năm 1990, từ năm 2001 trở đi số trẻ vị thành niên đến phá thai ở đây đã tăng gấp 3 lần. (Báo Người lao động 2003). 
Bên cạnh đó, việc mắc các bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục tăng lên nhanh chóng ở thanh thiếu niên. Theo ủy ban quốc gia phòng chống AIDS, tỉ lệ người nhiễm HIV ở lứa tuổi 20-29 đã tăng từ 15% năm 1993 lên 62% vào cuối năm 2002 và số nhiễm HIV ở lứa tuổi vi thành niên chiếm 8,3% các trường hợp nhiễm. (Giáo dục dân số – sức khỏe sinh sản vị thành niên – Bộ giáo dục và đào tạo – ủy ban dân số, gia đình và trẻ em – Hà Nội – 2005, tr.34).
Như vậy, việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, trong đó có một bộ phận lớn là học sinh đang học tập ở trường THPT là vấn đề cần thiết và cấp bách. Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản nhằm cung cấp cho các em những kiến thức, kỹ năng sống đầy đủ về giới tính, sức khỏe sinh sản, về tình bạn, tình yêu Đây là việc làm cần thiết bên cạnh việc giảng dạy văn hóa để góp phần tạo ra một tương lai thật tươi sáng cho học sinh nhất là học sinh THPT.
 Quan niện về giáo dục sức khỏe sinh sản.
Giáo dục sức khỏe sinh sản có nội dung, yêu cầu gần như tương đồng với giáo dục giới tính. Giáo dục sức khỏe sinh sản đã được tiến thành cùng với quá trình giáo dục giới tính, giáo dục dân số ở nước ta.
Giáo dục sức khỏe sinh sản là quá trình trang bị cho các em những kiến thức về sức khỏe sinh sản. Những kiến thức về sự thay đổi về thể chất cũng như tinh thần, cảm xúc của tuổi dậy thì cho cả nam và nữ. Những kiến thức về biện pháp tránh thai; những nguyên nhân và hậu quả khi mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục. Bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, cách phòng ngừa xử trí nếu không may bị mắc. Thông qua nhận thức đúng đắn về các vấn đề trên giúp học sinh nhận thức đúng đắn và có thái độ đúng mực đối với những vấn đề liên quan đến sức khỏe sinh sản, từ đó hình thành cho học sinh có được những hành vi đúng đắn về đạo đức lối sống, giúp các em xử lý các vấn đề tình bạn, tình yêu, hôn nhân chủ động, có trách nhiệm quan hệ lành mạnh an toàn với bạn khác giới.
Giáo dục là quá trình tác động có định hướng, cho nên giáo dục sức khỏe sinh sản sẽ có ý nghĩa quan trọng quyết định sự phát triển đúng hướng, tránh được các sai lệch và hạn chế được những bất lợi; tạo ra các tác động cùng chiều đối với sự phát triển cơ thể và hình thành nhân cách tích cực cho học sinh.
2.2. Tính tất yếu khách quan và thưc trạng vấn đề giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT.
. Đặc điểm của học sinh THPT hiện nay
 * Sự phát triển nhanh về mặt cơ thể:
Chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, càng tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho con người phát triển cơ thể bản thân tốt hơn. Với lứa tuổi học sinh THPT đây chính là giai đoạn mà các em đạt đến sự phát triển hoàn thiện về mặt thể chất. Phần lớn học sinh THPT đã phát triển nhanh về chiều cao và cân nặng đạt đến mức cao nhất, có những em trai cao tới trên 1m75, em gái cao trên 1m65, có cân nặng phù hợp với vóc dáng của mình. Các em đã trở thành những chàng trai to cao, khỏe mạnh, những cô gái xinh xắn, duyên dáng hơn trong mắt mọi người. Nhiều em có sự thay đổi về giọng nói, thường thì em gái có giọng nói trong, nhẹ thanh hơn, các em trai có giọng nói ấm hơn, trầm hơn; xuất hiện mụn trứng cá, hệ thống lông, tuyến bã, tuyến mồ hôi cũng phát triển nhanh
Đặc biệt đây là lúc mà các em có sự phát triển hoàn thiện về cơ quan sinh dục và phát dục. Các em gái đã phát triển mạnh tuyến vú, xuất hiện “kinh nguyệt”, rụng trứng; các em trai đã có hiện tượng “mộng tinh” hay xuất tinh... Đây là những điều kiện đảm bảo khả năng làm cha, làm mẹ của lứa tuổi này. Do sự phát triển hoàn thiện về mặt cơ thể này nên nhiều học sinh nữ khi có quan hệ tình dục sớm, không an toàn đã dẫn đến hậu quả mang thai ngoài ý muốn gây nguy hại cho sức khỏe bản thân. 
* Những thay đổi về mặt tâm lý:
Cùng với những biến đổi cơ thể ở tuổi học sinh THPT, đời sống tâm lý cũng có những thay đổi sâu sắc. 
- Ý thức “muốn làm người lớn”
Ở tuổi này các em có xu hướng tách ra, ít phụ thuộc vào cha mẹ, có tâm lý muốn làm người lớn, coi mình là người lớn. Lứa tuổi này không còn muốn đi chơi cùng ba mẹ, muốn tự chọn bạn, được thức khuya, được ăn mặc theo ý thích, không muốn tâm sự cùng cha mẹ dù bất cứ chuyện gì xảy ra như hồi bé. Các em muốn độc lập trong suy nghĩ và hành động nên nhiều khi chống đối lại gia đình, chuyển từ sinh hoạt gia đình sang sinh hoạt bạn bè, ngưỡng mộ thần tượng. Nhiều em do có tâm lý muốn khẳng định mình là người lớn nên đã bắt đầu yêu đương, tán tỉnh đã hẹn hò với bạn khác giới, đã tò mò tìm hiểu những câu chuyện, đoạn phim về quan hệ tình dục, đã bắt chước những hành vi tình dục của người lớn khi có điều kiện thuận lợi, tự quyết định hướng đi cho riêng mình. Có em khi gặp rắc rối trong chuyện tình cảm với bạn bè thường chủ động để tự mình giải quyết mà không tham khảo ý kiến của người lớn trong gia đình. Do lối suy nghĩ này nên nhiều em đã có những hành động mù quáng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe sinh sản bản thân.
- Những cảm xúc giới tính
Ở tuổi học sinh THPT sự phát dục đã kích thích các em bắt đầu quan tâm đến người khác giới, làm xuất hiện những cảm giác, cảm xúc giới tính mới lạ. Những rung cảm mới lạ này đôi khi lướt qua một cách nhanh chóng, nhưng cũng có khi kéo dài. Các em thường che dấu cảm xúc của mình bằng các biểu hiện khác nhau như: Bông đùa, ngượng ngùng, suồng sã, ồn ào... Những rung cảm được giữ kín này chứa đựng biết bao tâm trạng: thiện cảm, buồn rầu, nhớ nhung, muốn được nghe một lời dịu dàng âu yếm, một cử chỉ quan tâm, một nụ cười trìu mến. Trong mọi trường hợp đó là những cảm xúc trong sáng. Mọi sự can thiệp thô bạo, thiếu tế nhị sẽ làm cho các em cảm thấy bị chế giễu và hổ thẹn.
Nhưng không phải ở lứa tuổi này các em đều có những rung cảm như vậy, cũng có một số em sớm bị cuốn hút vào con đường yêu đương tính ái. Tâm trạng của những em này thay đổi rất nhanh và biến động mạnh. Lý trí chưa đủ giúp các em làm chủ được những rung cảm mãnh liệt của sự yêu đương quá sớm. Đầu óc bị phân tán, thời gian và tâm trí bị cuốn hút vào đó nên kết quả học tập, lao động và sức khỏe bị giảm sút rõ rệt.
- Tự ý thức và đánh giá về bản thân
Do muốn được làm người lớn, muốn được đối xử như người lớn, nên các em có những hành vi bắt chước người lớn, dễ tự ái, dễ bị kích động. Các em muốn đi sâu vào bản thân mình, đồng thời lại cũng muốn tỏa ra xã hội. Các em thường đặt cho mình câu hỏi: ta là ai? Ta có thể làm được gì? Lứa tuổi này đã chú ý nhiều tới hình thức bên ngoài, có những lúc ngắm ngía mình hồi lâu qua gương Chú ý đến nội tâm của mình như ghi nhật kí, tự phê phán mình, hoặc có lúc ngồi thừ ra để lục soát tâm hồn, lòng tự ái được biểu hiện không chỉ giới hạn ở sự tôn sùng bản thân mà còn biểu hiện ở tính ganh đua, hiếu thắng trong giao tiếp với người khác. Các em thường bận tâm đến chuyện làm thế nào để mọi người chú ý đến mình nhất là bạn khác giới, vì vậy nếu là thiếu nữ sẽ có biểu hiện thích làm dáng, trang điểm; là con trai thích tỏ ra dáng mày râu, hay khoe khoang, ăn nói kiểu cách khác đời.
Lứa tuổihọc sinh THPT đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời, những dấu hiệu về tâm lý và cơ thể trên đã báo hiệu một thời kì phát triển mới của các em. Vì vậy cần có sự tác động kịp thời và phù hợp để hướng các em đến sự phát triển hoàn thiện về nhân cách.
Những yếu tố tác động tới sự phát triển tâm sinh lý của học sinh
* Sự thay đổi về lối sống và các chuẩn mực xã hội
Với những biến đổi mạnh mẽ từ nền kinh tế - xã hộiViệt Nam trong những năm vừa qua một mặt đã mang đến những điều kiện thuận lợi hơn về cơ sở vật chất trong sự chăm sóc và nâng cao sức khỏe vị thành niên, trong đó có không ít các em ở độ tuổi THPT. Mặt khác do một số thay đổi về lối sống và các chuẩn mực xã hội lại đang tác động theo hướng tiêu cực đến hành vi sức khỏe sinh sản vị thành niên, tạo nên những nguy cơ về sức khỏe cho lứa tuổi này.
Lối sống đề cao hưởng thụ và dục vọng của cá nhân được xem như là những mặt trái của hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đang có xu hướng xuất hiện ngày càng gia tăng ở Việt Nam. Một bộ phận lứa tuổi học sinh THPT đặc biệt các em sống ở các thành phố, khu đô thị, các trung tâm, do chưa có sự giáo dục tốt từ phía nhà trường và gia đình hoặc do nhận thức quá kém đã bị ảnh hưởng rất nhiều từ lối sống thực dụng này. Lối sống này đã tác động đến các hiện tượng như gia tăng sử dụng các chất kích thích, chất gây nghiện, sự buông thả trong sinh hoạt tình dục, hiện tượng nạo phá thai diễn ra với con số đáng kinh ngạc.
Một số chuẩn mực xã hội dường như không được chấp nhận trong quá khứ như sinh hoạt tình dục trước hôn nhân, sống thử đang có xu hướng được giới trẻ chấp nhận. Điều này đã tạo ra sự tự do hơn trong lĩnh vực giao lưu tình cảm và thỏa mãn nhu cầu sinh lý tình dục, nhưng mặt khác nó là yếu tố làm tăng nguy cơ bị lây các bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục và có thai ngoài ý muốn ở tuổi học sinh trong khi các em chưa có kinh nghiệm và hạn chế về kiến thức trong việc áp dụng các biện pháp phòng tránh các nguy cơ đối với sức khỏe sinh sản bản thân.
Ngoài ra do một số mặt trái của quá trình phát triển ở nước ta như tệ tham nhũng, tệ nạn xã hội, tội phạm gia tăng, trật tự xã hội còn kém cùng với nhịp sống nhanh trong xã hội hiện đại cũng là những yếu tố tác động tới lối sống buông thả, coi thường đạo đức xã hội của bộ phận nhỏ lứa tuổi học sinh THPT gây ảnh hưởng tới sức khỏe của các em. 
* Sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng
Trong những năm trở lại đây, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng phát triển đa dạng về loại hình hướng đến mục tiêu phục vụ tất cả các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên điều này cũng gây ra những tác động ngược chiều nhau. Một mặt do sự khai thác tốt, tiếp cận thuận lợi từ các phương tiện thông tin đại chúng này đã đem đến cho lứa tuổi học sinh một lượng thông tin, kiến thức khổng lồ về tự nhiên cũng như xã hội, là dịp để các em tìm tòi thêm những nguồn tri thức mới phục vụ đắc lực cho công việc học tập tốt hơn, các em được hưởng thụ những giá trị tinh thần từ các tác phẩm tiểu thuyết, phim ảnh, ca nhạc... Nhưng ngược lại, cũng do sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông này đã mang đến những tác động tiêu cực với học sinh như: các em dễ dàng tìm thấy những loại hình phim ảnh, sách báo bạo lực, khiêu dâm, dễ gây cho các em tính tò mò, ham muốn làm thử, sống thử. Chính điều này đã góp phần hình thành lối sống không lành mạnh, lối sống tình dục buông thả của một bộ phận vị thành niên.
Một trong những phương tiện truyền thông đặc biệt có tác động tới học sinh đó là mạng Internet. Có thể nói mạng internet đã đem đến sức mạnh kì diệu cho con người trong việc khai thác và trao đổi thông tin. Và hơn ai hết nhóm học sinh THPT với đặc điểm nhanh nhạy, dễ tiếp thu những cái mới trong xã hội, nhu cầu thu nạp thông tin kiến thức cao trong quá trình học tập và phát triển nên các em rất có khả năng học và sử dụng các tiện ích từ mạng Internet. Mạng internet còn thỏa mãn được nhu cầu giao tiếp, tâm sự với bạn bè khắp nơi ở tuổi học sinh. Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực này, gần đây xã hội đã đặt ra nhiều vấn đề về mặt trái của công nghệ này, chẳng hạn nhiều học sinh đã lạm dụng internet để chát, chơi điện tử ảnh hưởng đến sức khỏe và sự hình thành nhân cách của các em. Nguy hiểm hơn là không ít học sinh THPT đã truy cập vào các trang web hoặc xem các phim ảnh đồi trụy liên quan đến lối sống buông thả, tình dục không an toàn, sự dễ dãi, cả tin trong quan hệ với người quen biết qua mạng dẫn đến bị lừa gạt bị xâm hại tình dục. Bên cạnh việc truy cập vào các trang web khiêu dâm, không ít các học còn tham gia vào các diễn đàn thảo luận về vấn đề tình dục trên mạng. Tất cả những điều này trở thành mối nguy hại với sức khỏe của .
Theo nhận định của một giáo viên tin học của một trường THPT, mạng Internet phát triển như hiện nay, nhà nào cũng có máy tính thì học sinh nào cũng có thể tiếp cận được với phim ảnh, truyện có nội dung không lành mạnh. Ở lứa tuổi mới lớn bắt đầu tò mò chuyện người lớn, chúng rất dễ bị thu hút bởi những bộ phim đen và sẽ dễ bị kích thích. Không ít trẻ đã tập yêu đương, thử làm chuyện của người lớn, mà gia đình không hề hay biết. 
* Những tác động từ phía gia đình học sinh
Gia đình là môi trường giáo dục nhân cách đầu tiên cho mỗi con người, đó là nơi gần gũi nhất với mỗi hoc sinh, có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển toàn diện của các em. Gia đình không chỉ đảm bảo cho các em có đời sống no đủ, được học hành tử tế mà đó còn là nơi giáo dục những phẩm chất nhân cách cần thiết để các em bước vào đời.
Trong những năm gần đây với việc thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, tỷ lệ giảm sinh đã có kết quả đáng mừng. Nhiều gia đình Việt Nam chỉ sinh từ một đến hai con, số lượng gia đình sinh con thứ 3 đã giảm rõ rệt qua các năm. Việc có con ít đã góp phần tích cực vào việc chăm sóc và đầu tư tốt hơn cho con cái trong nhiều lĩnh vực, con cái trong những gia đình ít con mà có điều kiện kinh tế khá giả càng được chăm sóc tốt hơn, chúng được ăn ngon, mặc đẹp, được vui chơi giải trí, được học hành ở những trường lớp chất lượng cao, được chăm sóc sức khỏe tốt... Đây chính là động lực để các em phát triển toàn diện hơn. Tuy nhiên, ở một bộ phận gia đình, do có ít con nên tình cảm của gia đình dồn hết cho người con, đến mức quá nuông chiều, đáp ứng mọi đòi hỏi của con và sự nuông chiề

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giao_duc_gioi_tinh_va_suc_khoe_sinh_san_cho_hoc_sinh_qu.doc