SKKN Đổi mới hình thức và phương pháp dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 nhằm rèn kĩ năng nói cho học sinh
Tiếng Việt vừa là môn học chính, vừa là môn công cụ giúp học sinh tiếp
thu các môn học khác được tốt hơn. Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ 4 kỹ năng trên, là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc dạy học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đối với HS lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của HS ở địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, HS nghèo vốn từ ngữ Do vậy, gây không ít khó khăn cho giáo viên, đòi hỏi người giáo viên phải tìm mọi cách để giúp đỡ các em.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học đòi hỏi người thầy phải biết vận dung linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh để giờ học diễn ra tự nhiên nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến thức bài.
Để thực hiện được mục tiêu giáo dục thì trách nhiệm của người giáo viên phải nâng cao và được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt năm học 2015 – 2016 là năm học thứ 2 thực hiện thông tư 30/2014/TT – BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về cách đánh giá học sinh tiểu học. Người thầy trong giai đoạn giáo dục hiện nay, không còn giữ vai trò trang bị kiến thức cho học sinh mà phải biết định hướng đúng đắn, giúp học sinh phát triển toàn diện về năng lực và phẩm chất đạo đức. Đánh giá được sự tiến bộ của học sinh theo giai đoạn về các mặt cụ thể: kiến thức, kĩ năng, năng lực, phẩm chất của từng em. Trong bậc Tiểu học môn Tiếng Việt vừa là môn học chính, vừa là môn công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác đ¬ược tốt, hơn nữa Tập làm văn là phân môn có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học, có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, đặc biệt là kỹ năng sản sinh văn học cho học sinh Tiểu học. Tập làm văn lớp Hai cung cấp cho học sinh các kĩ năng nói, viết, nghe, phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các dạng bài dạy về các nghi thức lời nói tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, phân môn Tập làm văn lớp Hai còn rèn cho HS kĩ năng diễn đạt và kĩ năng nghe. Ở lớp Một, thông qua môn Tiếng Việt học âm, vần, HS được luyện nói từng câu ngắn, đã được tập kể lại câu chuyện. Tuy nhiên, do vốn từ của các em còn ít nên việc diễn đạt còn rất hạn chế. Thực tế đến đầu năm lớp Hai hầu hết HS chỉ nói được những câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt còn rời rạc. Do đó, nhiệm vụ của giáo viên lớp Hai là tiếp tục rèn kĩ năng diễn đạt cho các em. Như vậy, nói rằng phân môn Tập làm văn góp phần to lớn trong việc hiện đại hoá mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học là hình thành, phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng đắn, tự nhiên, tự tin trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp mình.
MỤC LỤC I: PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1 1. Lý do chọn đề tài Trang 1 2. Mục đích nghiên cứu: Trang 2 3. Đối tượng nghiên cứu: Trang 2 4. Phương pháp nghiên cứu: Trang 2 I: NỘI DUNG Trang 3 1. Cơ sở lí luận Trang 3 2. Thực trạng của việc dạy môn Tập làm văn cho học sinh lớp 2 Trang 3 3. Những giải pháp Trang 4 3.1. Hướng dẫn phương pháp học tập làm văn Trang 4 3.2. Hướng dẫn học sinh thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu Trang 6 3.2.1. Tác dụng của các nghi thức lời nói tối thiểu Trang 6 3.2.2. Khi thực hành các nghi thức về lời nói tối thiểu phải chú ý cả cử chỉ, thái độ, tình cảm Trang 6 3.3. Hướng dẫn HS thực hành các hình thức về các nghi thức lời nói tối thiểu Trang 10 3.3.1. Làm việc cá nhân Trang 10 3.3.2. Làm việc theo cặp Trang 10 3.3.3. Làm việc theo nhóm Trang 11 3.3.4. Các trò chơi vận dụng Trang 11 4. Hiệu quả Trang 15 III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trang 17 I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Tiếng Việt vừa là môn học chính, vừa là môn công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác được tốt hơn. Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ 4 kỹ năng trên, là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc dạy học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đối với HS lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của HS ở địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, HS nghèo vốn từ ngữ Do vậy, gây không ít khó khăn cho giáo viên, đòi hỏi người giáo viên phải tìm mọi cách để giúp đỡ các em. Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học đòi hỏi người thầy phải biết vận dung linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh để giờ học diễn ra tự nhiên nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến thức bài. Để thực hiện được mục tiêu giáo dục thì trách nhiệm của người giáo viên phải nâng cao và được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt năm học 2015 – 2016 là năm học thứ 2 thực hiện thông tư 30/2014/TT – BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về cách đánh giá học sinh tiểu học. Người thầy trong giai đoạn giáo dục hiện nay, không còn giữ vai trò trang bị kiến thức cho học sinh mà phải biết định hướng đúng đắn, giúp học sinh phát triển toàn diện về năng lực và phẩm chất đạo đức. Đánh giá được sự tiến bộ của học sinh theo giai đoạn về các mặt cụ thể: kiến thức, kĩ năng, năng lực, phẩm chất của từng em. Trong bậc Tiểu học môn Tiếng Việt vừa là môn học chính, vừa là môn công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác được tốt, hơn nữa Tập làm văn là phân môn có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học, có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, đặc biệt là kỹ năng sản sinh văn học cho học sinh Tiểu học. Tập làm văn lớp Hai cung cấp cho học sinh các kĩ năng nói, viết, nghe, phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các dạng bài dạy về các nghi thức lời nói tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, phân môn Tập làm văn lớp Hai còn rèn cho HS kĩ năng diễn đạt và kĩ năng nghe. Ở lớp Một, thông qua môn Tiếng Việt học âm, vần, HS được luyện nói từng câu ngắn, đã được tập kể lại câu chuyện. Tuy nhiên, do vốn từ của các em còn ít nên việc diễn đạt còn rất hạn chế. Thực tế đến đầu năm lớp Hai hầu hết HS chỉ nói được những câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt còn rời rạc. Do đó, nhiệm vụ của giáo viên lớp Hai là tiếp tục rèn kĩ năng diễn đạt cho các em. Như vậy, nói rằng phân môn Tập làm văn góp phần to lớn trong việc hiện đại hoá mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học là hình thành, phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng đắn, tự nhiên, tự tin trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp mình. Chính vì muốn để các em có khả năng hiểu Tiếng Việt hơn, biết dùng từ một cách phù hợp trong các tình huống giao tiếp nên tôi đã chọn nghiên cứu và thực nghiệm đề tài “Đổi mới hình thức và phương pháp dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 nhằm rèn kĩ năng nói cho học sinh” 2. Mục đích nghiên cứu: Bản thân tên đề tài tôi đã chỉ rõ mục đích nghiên cứu: “Đổi mới hình thức và phương pháp dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 nhằm rèn kĩ năng nói cho học sinh”. Vì thế trong nội dung đề tài này tôi đi sâu nghiên cứu những vấn đề sau: Nghiên cứu nội dung chương trình mạch kiến thức trong phân môn Tập làm văn lớp 2. Qua đề tài này tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc rèn cho học sinh kỹ năng chính đó là: Sử dụng đúng nghi thức lời nói. Nhằm giúp học sinh phải chú ý đến quy tắc ngôn ngữ và quy tắc giao tiếp mà mục đích giao tiếp là những bài văn tốt. Khi dạy Tập làm văn cho học sinh cần phải chú ý tới việc dạy nói, viết đúng quy tắc giao tiếp, đúng nghi thức lời nói, nghĩa là phải chú ý đầy đủ những yếu tố ngoài ngôn ngữ nhưng để lại dấu ấn đậm nét trong ngôn ngữ. Giúp đỡ học sinh tự học và vận dụng vốn hiểu biết của bản thân vào quá trình học tập của các em. Riêng bản thân tôi cũng không ngừng học tập trau dồi cho mình một kĩ năng vững vàng về phương pháp tập làm văn. Từ đó tôi thấy rõ trọng trách của người giáo viên chủ nhiệm lớp là phải từng bước giúp học sinh làm tập làm văn nhằm nâng cao chất lượng học cho các em. 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 2A- Trường Tiểu học Quảng Thịnh 4. Phương pháp nghiên cứu Trong qua trình nghiên cứu, tôi đã áp dụng một số phương pháp sau: Phương pháp nghiên cứu thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo. Phương pháp lí luận. Phương pháp phân tích tích ngôn ngữ, so sánh đối chiếu, thống kê và xử lý các số liệu thu được. Phương pháp tổng hợp, điều tra, khảo sát thực tế. Phương pháp luyện tập, thực hành. Phương pháp thống kê, trao đổi, tranh luận. Trong các phương pháp trên, khi nghiên cứu tôi vận dụng hài hoà các phương pháp để tìm ra các giải pháp của mình đạt kết quả tối ưu nhất. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Làm văn có nghĩa là tạo lập văn bản. Nhiệm vụ chính của phân môn Tập làm văn là rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo lập văn bản. Ở đây thuật ngữ “văn bản ” được dùng để chỉ sản phẩm hoàn chỉnh của lời nói trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Đó không nhất thiết là một bài văn gồm nhiều câu; nhiều đoạn; cũng không nhất thiết phải ở dạng viết; càng không phải chỉ là loại văn kể chuyện hay miêu tả theo phong cách nghệ thuật. Trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, sản phẩm lời nói hoàn chỉnh mà một người tạo lập được có thể chỉ là một câu chào, một lời cảm ơn hay vài dòng thăm hỏi, chúc mừng trên tấm thiếp... Thật vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy, dạy học sinh học văn tốt sẽ góp phần rèn luyện đạo đức và tính cách con người. Ta dạy cho các em viết đúng yêu cầu, viết đủ số lượng câu, viết gọn, rõ ràng, mạch lạc và sáng tạo là góp phần rèn luyện cho các em ý thức học tập, tính kỷ luật, tính cẩn thận, thận trọng trong công việc, lòng tự tin của bản thân Đồng thời, học tốt môn Tập làm văn chính là cơ sở, là nền tảng để học tốt các môn học khác nhằm thực hiện đúng mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra nhằm đào tạo con người mới. Nội dung bài học về Tập làm văn lớp 2 giúp học sinh thực hành rèn luyện các kỹ năng nói, viết, nghe, phục vụ việc học tập và giao tiếp hằng ngày, cụ thể: Trong đề tài này tôi xin được giới thiệu cách dạy Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi; tự giới thiệu; cảm ơn; xin lỗi; khẳng định; phủ định; mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị; chia buồn, an ủi; chia vui, khen ngợi; ngạc nhiên, thích thú; đáp lại lời chào, lời tự giới thiệu; đáp lời cảm ơn; đáp lời xin lỗi; đáp lời khẳng định; đáp lời phủ định; đáp lời đồng ý; ; đáp lời chia vui; đáp lời khen ngợi; đáp lời từ chối; đáp lời an ủi. Ngôn ngữ dưới dạng viết giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập làm văn là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. 2. Thực trạng của việc dạy học môn tập làm văn cho học sinh lớp 2. a.Về phía giáo viên Qua thực tế dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp trong trường tôi nhận thấy: - Cách tổ chức các hoạt động trong giờ tập làm văn còn lúng túng. Giáo viên chưa biết nội dung trọng tâm cần truyền tải đến học sinh mà chỉ biết dựa vào sách giáo viên và thậm chí đi theo sự hướng dẫn trong sách giáo viên để dạy bài nào cũng giống bài nào. Giáo viên chưa thực sự đầu tư vào chất lượng bài soạn, kiền thức còn hạn hẹp - Khả năng diễn đạt của giáo viên còn hạn chế, ngôn ngữ chưa được trau chuốt, giáo viên còn “bí từ” khi giảng. Kiến thức bài còn bó hẹp hoàn toàn trong sách giáo khoa và chỉ biết nêu lên trình tự trong sách giáo khoa chứ chưa biết khắc sâu, chốt nội dung khi dạy xong một tiết học. Trên thực tế đa số giáo viên khai thác bài học theo cách tuân thủ đã được biên soạn trong sách giáo khoa mà việc tuân thủ theo sách giáo khoa đến nay có phần không còn phù hợp nữa, nhất là trong bối cảnh đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới cách đánh giá học sinh theo Thông tư 30 như hiện nay. b. Về phía học sinh Các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn câu còn cụt lủn. Hoặc câu có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn chưa rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả. Mặt khác, do thực tế học sinh mới được làm quen với phân môn Tập làm văn ở lớp 2 nên học sinh còn nhiều bỡ ngỡ, chưa có phương pháp học tập bộ môn một cách khoa học và hợp lý. Phân môn Tập làm văn là một phân môn mới lạ với học sinh nên các em rất tò mò, háo hức được học, được tìm hiểu. Đối với học sinh tiểu học việc nhận thức của học sinh đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng mà đồ dùng dạy học cần thiết như băng hình, tranh ảnh, mẫu vật .... phục vụ cho tiết học chưa đáp ứng đủ cho từng bài học. Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản trực quan nên việc viết câu văn trong các tình huống của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Vốn sống và vốn kiến thức trong giao tiếp của học sinh nhất là học sinh vùng nông thôn quê chúng tôi còn hạn chế Việc dạy tập làm văn cho học sinh lớp 2 là một việc khó. Chính vì vậy, đó là động lực thúc đẩy yêu cầu mỗi giáo viên dạy lớp 2 chú ý quan tâm đến việc dạy Tập làm văn cho học sinh. Qua khảo sát thực tế đối với 35 em học sinh lớp 2A và 33 em học sinh lớp 2B trước khi áp dụng sáng kiến tôi đã ra đề khảo sát và thu được kết quả sau: * Đề Khảo sát đầu năm học 2015- 2016 Bài 1: Nói lời cảm ơn của em trong những trường hợp sau: Bạn cùng lớp giúp em làm trực nhật. Bố mua cho em cái cặp sách mới. Bài 2: Nói lời xin lỗi của em trong những trường hợp sau: Em lỡ tay làm bẩn vở của bạn. Em mải chơi quên việc mẹ đã dặn. Bảng 1: Chất lượng khảo sát phân môn Tập làm văn hai lớp 2A Lớp Sĩ số HS Hoàn thành Chưa hoàn thành Tỉ lệ % TS % 2A 35 30 85.7 5 14.3 Qua thực tế giảng dạy và từ những thực trạng trên, tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía; Người dạy và người học. Do vậy tôi mạnh dạn đưa ra những giải pháp sau đây, hy vọng sẽ nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp tôi. 3. Những giải pháp 3.1. Hướng dẫn học sinh phương pháp học tập làm văn Muốn có kết quả tốt trước hết phải giúp học sinh nắm được phương pháp học tập làm văn theo từng kiểu, dạng bài. a. Mỗi tiết học Tập làm văn trong tuần thường gồm 2, 3 bài tập; riêng các tuần Ôn tập giữa học kỳ và cuối học kỳ, nội dung thực hành về Tập làm văn được rải ra trong nhiều tiết ôn tập. Ở từng bài tập, hướng dẫn học sinh thực hiện theo hai bước: - Bước 1: Chuẩn bị: Xác định yêu cầu của bài tập, tìm hiểu nội dung và cách làm bài, suy nghĩ để tìm từ, chọn ý, diễn đạt câu văn - Bước 2: Làm bài: Thực hành nói hoặc viết theo yêu cầu của bài tập; có thể tham khảo các ví dụ trong sách giáo khoa để nói, viết theo cách của riêng mình. b. Hướng dẫn học sinh làm bài tập: - Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập (bằng câu hỏi, lời giới thiệu, tranh ảnh) - Giúp học sinh chữa một phần của bài tập làm mẫu (một HS chữa mẫu trên bảng lớp hoặc cả lớp làm vào vở) – HS thực hành. - HS làm bài vào vở. GV uốn nắn. - GV tổ chức cho HS trao đổi, nhận xết về kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ về tri thức. c. Đánh giá kết quả thực hành, luyện tập ở lớp, hướng dẫn hoạt động tiếp nối (ở ngoài lớp, sau tiết học). - Hướng dẫn HS nhận xét kết quả của bạn, tự đánh giá kết qủa của bản thân trong quá trình luyện tập trên lớp; nêu nhận xét chung, biểu dương những HS thực hiện tốt. - Nêu yêu cầu, hướng dẫn HS thực hiện những hoạt động tiếp nối nhằm củng cố kết quả thực hành luyện tập ở lớp (Thực hành giao tiếp ngoài lớp học, sử dụng kỹ năng đã học vào thực tế cuộc sống) d. Quy trình và phương pháp dạy học đối với mỗi bài Tập làm văn nên tiến hành như sau: - Hướng dẫn HS đọc kỹ đề để nắm được yêu cầu của đề. - GV giải mẫu (hoặc HS nêu cách giải mẫu) rồi hướng dẫn HS giải tiếp đề. Nên giải miệng trước rồi sau đó cho HS viết bài giải vào vở. Khi giải miệng bài tập, có thể có nhiều lời giải, GV hướng dẫn HS thảo luận về các lời giải ấy, xác nhận những lời giải chấp nhận được và HS tuỳ chọn một lời giải để viết vào vở. - Mỗi bài tập làm xong đều được chữa ngay. Không đợi đến cuối tiết mới chữa tất cả vì nhịp độ theo dõi chữa bài của các em không đều nhau, các em chậm có thể không kịp chữa. - Khi tất cả các bài tập đã được chữa xong, GV có lời nhận xét chung, rút kinh nghiệm. Mỗi tiết Tập làm văn, GV nên chú ý đến một số em hoàn thành bài nhanh, một số em làm bài còn chậm song có tiến bộ để nội dung nhận xét không chung chung quá. GV không quên nhận xét về những yêu cầu tích hợp trong tiết học; kĩ năng nói, tư thế ngồi viết, cầm bút, chữ viết và nhất là lưu ý, nhắc nhở HS thực hành những điều đã học được. 3.2. Hướng dẫn học sinh thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu: 3.2.1. Tác dụng của các nghi thức lời nói tối thiểu: Trước hết GV cần cho HS thấy được sự cần thiết và tác dụng của các nghi thức lời nói tối thiểu. Ví dụ: - Lời chào khi mới gặp nhau cũng như trước khi chia tay là phép lịch sự, thể hiện người có văn hoá trong tiếp xúc, khiến cho mọi ngời thấy thân mật, gần gũi nhau hơn. - Việc tự giới thiệu một đôi điều cần thiết về bản thân giúp cho những người mới gặp nhau lần đầu thấy thân thiện, hoà đồng hơn. - Cảm ơn và xin lỗi là những tình huống giao tiếp thường gặp trong cuộc sống. Một người nào đó (có thể là người thân trong gia đình, có thể là thầy cô hay bạn bè ở trường, có thể là người hàng xóm láng giềng hay những người xa lạ ta mới gặp) đã giúp ta một điều gì đó (có thể là một lời khuyên, một việc làm, một vật tặng ) ta đều phải cảm ơn. Ngược lại, ta phải xin lỗi khi trót để xảy ra một điều gì đó gây hậu quả không hay cho người khác. Ví dụ một lời nói, một việc làm dẫu vô tình hay khi nóng nảylàm xúc phạm, gây ảnh hưởng không tốt đến người khác. Đấy là lý do vì sao ta phải cảm ơn hay xin lỗi. - Khẳng định có nghĩa là thừa nhận là có, là đúng. - Phủ định có nghĩa trái ngược: bác bỏ sự tồn tại, sự cần thiết của một cái gì, một điều gì đó. - Mời là tỏ ý muốn hay yêu cầu người khác làm việc gì đó một cách lịch sự, trân trọng. 3.2.2. Khi thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu phải chú ý cả cử chỉ, thái độ, tình cảm. * Khi chào hỏi hoặc tự giới thiệu: lời nói, giọng nói, vẻ mặt, ánh mắt, nụ cườiphải tuỳ từng đối tượng mình gặp gỡ và những điều này cũng chứa đựng nội dung tiếp xúc. Cách chào hỏi, cách xưng hô phải phù hợp với từng người, từng hoàn cảnh cụ thể. Lời chào hỏi cần tự nhiên, lịch sự, cử chỉ thân mật. - Khi chào hỏi người trên (bố, mẹ thầy ,cô...) em cần thể hiện thái độ như thế nào? Để thể hiện thái độ đó, em cần chú ý gì về: vẻ mặt, giọng nói, cử chỉ? - Khi chào hỏi bạn bè, em cần thể hiện thái độ gì đối với bạn? Ví dụ: Chào bạn khi gặp nhau ở trường: - Chào bạn! Hoặc: - Chào cậu! - Chào các bạn! - Chào An! * Lời cảm ơn hay xin lỗi khi nói phải chân thành, lịch sự, lễ phép và đi liền với cách biểu hiện, tình cảm, thái độ củả mình khiến mọi người thông cảm, bỏ qua cho lỗi của em. Em nhớ xác định rõ đối tượng cần cảm ơn: - Nếu là bạn bè (cùng lứa tuổi), lời cảm ơn cần thể hiện thái độ chân thành, thân mật. Ví dụ: Mình cảm ơn bạn. - Nếu là người trên (cao tuổi hơn), lời cảm ơn cần thể hiện thái độ lễ phép, kính trọng. Ví dụ: Cháu cảm ơn bác ạ! - Nếu là người dưới (nhỏ tuổi hơn ), lời cảm ơn cần thể hiện thái độ chân thành, yêu mến. Ví dụ: Chị cảm ơn em. Trước hết phải để cho người được cảm ơn hay xin lỗi thấy được sự chân thành của mình. Rồi tuỳ đối tượng là người thân hay xa lạ, là bề trên hay bạn bè.mà ta có cử chỉ, lời lẽ cho phù hợp. Từng cử chỉ, nét mặt, giọng nói...đều góp phần bộc lộ nội dung của lời cảm ơn hay xin lỗi. Nội dung của lời cảm ơn hay xin lỗi đều có ba phần: + Thứ nhất là các từ ngữ biểu hiện như cảm ơn, chân thành cảm ơn, xin lỗi, vô cùng xin lỗi... + Thứ hai là ta cảm ơn hay xin lỗi ai? + Thứ ba là cảm ơn hay xin lỗi về điều gì, việc gì? - Cách diễn đạt lời cảm ơn hay xin lỗi cũng rất phong phú, đa dạng. Ví dụ: Em lỡ bước, giẫm vào chân bạn. Em nói: + Xin lỗi bạn nhé! + Mình xin lỗi bạn. + Xin lỗi bạn, mình vô ý quá! * Khi nói lời khẳng định hay phủ định, ngữ điệu của lời nói có phần quan trọng đối với nội dung. Cần nhấn giọng ở những từ ngữ có nghĩa khẳng định hay phủ định. HS cần chú ý: Lời khẳng định thường có các từ có; còn lời phủ định thường có các từ hoặc cặp từ không, không đâu, có...đâu, đâu có. Ví dụ: + Mẹ có mua báo không? + Có, mẹ có mua báo. Hoặc: + Không, mẹ không mua báo. Chú ý: Các mẫu câu chỉ khác nhau ở những từ in đậm còn đều nêu ý giống nhau nhưng được diễn đạt bằng ba cách khác nhau: + không...đâu; ...có ... đâu; đâu có.... * Lời mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị thường gắn với cử chỉ, nét mặt, giọng nói. Vì vậy khi nói ta cần có cử chỉ, giọng điệu cho phù hợp. Ví dụ: Bạn đến thăm nhà em. Em mở cửa và mời bạn vào chơi: - Vui quá, chào Lan! Mời bạn vào nhà chơi. (nếu bạn mới quen) Hoặc: - Hải đấy à, Hải vào nhà chơi đi. (nếu bạn thân) * Khi nói lời chia buồn, an ủi cần bày tỏ tình thương yêu, sự quan tâm, thông cảm với nhau. Chú ý giọng hỏi thăm phải nhẹ nhàng, tình cảm. Khi nói lời an ủi với người trên, em cần tỏ thái độ ân cần nhưng lễ phép (thể hiện qua giọng nói và cách xưng hô). Ví dụ: Khi cây hoa do ông bà (trồng) bị chết. Em nói: - Bà ơi! Bà đừng buồn. Cháu sẽ cùng bà trồng lại cây khác, bà nhé! Hoặc: - Bà đừng buồn, con sẽ nhờ bố kiếm cây khác trồng lại để bà vui. * Khi nói lời chia vui cần chú ý: ngời mình chia vui là ai? Chia vui về chuyện gì? Tình cảm, thái độ, cử chỉ khi nói phải nh thế nào cho phù hợp? Chúng ta cần nói với thái độ chân thành, tự nhiên, vui vẻ nhằm thể hiện sự chia vui hay khâm phục, tự hào, phấn khởi. Ví dụ: Nói lời chúc mừng của em với chị Hương: - Em xin chúc mừng chị! Hoặc: - Chúc chị học giỏi hơn nữa! - Chúc chị năm sau được giải cao hơn. - Chị học giỏi quá, em rất tự hào về chị. * Khi khen, trong câu thường dùng các từ rất, quá, thật làm sao, và khi viết dùng dấu chấm than ở cuối câu. Ví dụ: Bạn An học rất giỏi: - Bạn An học mới giỏi làm sao! - Bạn An học giỏi ghê! - Bạn An học giỏi thật! * Thể hiện sự ngạc nhiên, thích thú: Giọng nó
Tài liệu đính kèm:
- skkn_doi_moi_hinh_thuc_va_phuong_phap_day_phan_mon_tap_lam_v.doc