SKKN Đề xuất một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động trải nghiệm lịch sử

SKKN Đề xuất một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động trải nghiệm lịch sử

 Đất nước phát triển đòi hỏi phải đổi mới toàn diện và mạnh mẽ nền giáo dục để đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực, tăng cường khả năng hợp tác, cạnh tranh cho hội nhập quốc tế; phục vụ ngày càng tốt hơn sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong tiến trình đổi mới ấy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường phổ thông và trong chương trình xây dựng môn học.

Hiện nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào dạy học cho học sinh trong các trường phổ thông, dưới nhiều hình thức khác nhau. Dạy học cần đảm bảo cho người học được tiếp cận với chương trình giáo dục kĩ năng sống phù hợp và kĩ năng sống cần được coi như một nội dung của chất lượng giáo dục.

 Theo công văn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28 tháng 01 năm 2015 của Bộ GDĐT về việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở GDMN, GDPT và GDTX , THPT yêu cầu “ đẩy mạnh hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh theo định hướng phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của học sinh gắn với định hướng nghề nghiệp ”

 Thực tiễn đã chứng tỏ việc giáo dục kĩ năng sống trong giáo dục và dạy học sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn đối với học sinh. Giáo dục kĩ năng sống là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Nhiều nước trong khu vực châu Á và trên thế giới đã thực hiện giáo dục kĩ năng sống trong dạy học và cho rằng quan điểm này đem lại hiệu quả nhất định.

 

doc 20 trang thuychi01 11290
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Đề xuất một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động trải nghiệm lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I- PHẦN MỞ ĐẦU.
1- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. 
 	Đất nước phát triển đòi hỏi phải đổi mới toàn diện và mạnh mẽ nền giáo dục để đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực, tăng cường khả năng hợp tác, cạnh tranh cho hội nhập quốc tế; phục vụ ngày càng tốt hơn sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong tiến trình đổi mới ấy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường phổ thông và trong chương trình xây dựng môn học.
Hiện nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào dạy học cho học sinh trong các trường phổ thông, dưới nhiều hình thức khác nhau. Dạy học cần đảm bảo cho người học được tiếp cận với chương trình giáo dục kĩ năng sống phù hợp và kĩ năng sống cần được coi như một nội dung của chất lượng giáo dục.
 	Theo công văn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28 tháng 01 năm 2015 của Bộ GDĐT về việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở GDMN, GDPT và GDTX , THPT yêu cầu “đẩy mạnh hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh theo định hướng phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của học sinh gắn với định hướng nghề nghiệp”
 	Thực tiễn đã chứng tỏ việc giáo dục kĩ năng sống trong giáo dục và dạy học sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn đối với học sinh. Giáo dục kĩ năng sống là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Nhiều nước trong khu vực châu Á và trên thế giới đã thực hiện giáo dục kĩ năng sống trong dạy học và cho rằng quan điểm này đem lại hiệu quả nhất định.
 	Trường THPT Cẩm Thủy 1 là loại hình một trường ở Miền núi Thanh Hóa nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Học sinh của trường chủ yếu là học sinh dân tộc là chính, kỹ năng sống của các em tương đối yếu . Chính vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo các môn học nói chung hay môn lịch sử nói riêng là một điều rất cần thiết. Điều đó sẽ giúp trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh; phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học. Bên cạnh đó giáo dục kĩ năng sống qua hoạt động thực tiễn lịch sử tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh, giúp cho việc học tập môn học lịch sử vốn dĩ bị học sinh coi là môn học khó và nhàm chán trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, thiết thực và có hiệu quả hơn.
 	Sau thời gian tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng thực tiễn, tôi thực hiện sáng kiến: “đề xuất một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động trải nghiệm lịch sử.” Với sáng kiến này, sẽ trang bị cho học sinh những kiến thức, kĩ năng sống cơ bản, chuẩn bị hành trang cho các em bước vào cuộc sống tự lập.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Nội dung giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo lịch sử rất đa dạng và mang tính tích hợp, tổng hợp kiến thức kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục giá trị sống, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục môi trường điều này giúp cho các nội dung giáo dục thiết thực hơn, gần gũi hơn với thực tế cuộc sống, giúp các em vận dụng vào trong thực tiễn cuộc sống một cách dễ dàng và thuận lợi hơn.
 Mục đích chính: Hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại. Nếu mục tiêu chủ yếu của dạy học trên lớp là phát triển trí tuệ thì mục tiêu chủ yếu của hoạt động TNST là phát triển phẩm chất. Cụ thể là: hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại thông qua những trải nghiệm thực tiễn.
Các chuyên gia giáo dục cũng khẳng định, hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của mình.
3- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
	- Nội dung giáo dục kỹ năng sống thông qua các bài học cụ thể của chương trình lớp 10 và lớp 12 SGK lịch sử: 
+ Các củ đề trong chương trình Lịch sử lớp 10 THPT
+ Các chủ đề của chương trình lớp 12 như: Nguyễn Ái Quốc, Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc 1919-1945, cuộc kháng chiến chống Pháp lần hai 1946-1954 và cuộc kháng chiến chống Mĩ
	- Hoạt động hướng dẫn của giáo viên và học tập sáng tạo của học sinh THPT Cẩm Thủy 1
	- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các mô hình học tập trải nghiệm sáng tạo lịch sử để tìm ra những cách thức, biện pháp phù hợp trong việc hình thành kỹ năng sống thông qua hoạt động sáng tạo lịch sử cho học sinh THPT.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
	- Phương pháp xây dựng kế hoạch, nâng cao nhận thức về hoạt động sáng tạo, hướng dẫn học sinh tìm hiểu về hoạt động sáng tạo, kiểm tra đánh giá các hoạt động trải nghiệm sáng tạo lịch sử.
	- Phương pháp tổng hợp, phân tích lí luận và thực tiễn.
	- Phương pháp khảo sát thực tế.
	- Phương pháp thể nghiệm.
	- Phương pháp so sánh đối chiếu
II- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1- CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống
a) Quan niệm về kĩ năng sống
Thuật ngữ kĩ năng sống (KNS) bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông Việt Nam từ những năm 1995-1996, thông qua Dự án “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế đã tiến hành giáo dục KNS gắn với các vấn đề giáo dục xã hội như: phòng chống ma túy, phòng chống mại dâm, phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích, phòng chống tai nạn bom mìn, bảo vệ môi trườngGiáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học (PPDH) gắn với bốn trụ cột giáo dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để chung sống, mà thực chất là một cách tiếp cận KNS. Đặc biệt, rèn luyện KNS cho học sinh (HS) đã được bộ Giáo dục và Đào tạo xác định là một trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường Phổ thông giai đoạn 2008-2013.
Vậy KNS là gì?
Có nhiều quan niệm khác nhau về KNS: Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng để có hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo UNICEF, KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ, kĩ năng.
Theo UNESCO, KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know) gồm các kĩ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả; Học làm người (Learning to be) gồm các kĩ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,Học để sống với người khác (Learning to live together) gồm các kĩ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc nhóm, thể hiện sự cảm thông; Học để làm (Learning to do) gồm kĩ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đạt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm,
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy KNS bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội nếu cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
KNS không phải tự nhiên có được mà phải hình thành dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành KNS diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục.
KNS vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính xã hội. KNS mang tính cá nhân vì đó là khả năng của cá nhân. KNS mang tính xã hội vì KNS phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, chịu ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa gia đình, cộng đồng, dân tộc.
Như vậy, có thể hiểu KNS là năng lực tâm lí xã hội, là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì trạng thái khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh; là khả năng phân tích tình huống và ứng xử các tình huống một cách hợp lí. Trong đó, KNS giúp chuyển dịch kiến thức “đã biết” với quá trình tư duy thành hành động thực tế để biết “làm gì và làm cách nào” là tích cực và hiệu quả nhất; là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của bản thân phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp kiểm soát, quản lí có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
b) Phân loại kĩ năng sống.
Có nhiều cách phân loại KNS, tùy theo quan niệm về KNS. Ví dụ:
Theo UNESCO, WHO và UNICEF, có thể xem KNS gồm các kĩ năng cốt lõi sau:
 Kĩ năng giải quyết vấn đề (proplem solving); Kĩ năng suy nghĩ/ tư duy phê phán (critical thinking); Kĩ năng giao tiếp hiệu quả (effective communication skills); Kĩ năng ra quyết định (decision – making); Kĩ năng tư duy sáng tạo (creative thinking); Kĩ năng giao tiếp ứng xử cá nhân (interpersonal relationship skills); Kĩ năng tự nhận thức/ tự trọng và tự tin của bản thân, xác định giá trị (selfawarenss building skills, incl self-awareness, self-esteem and self-confidence, ang values analysis); Kĩ năng thể hiện sự cảm thông (empathy); Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc (coping with stress and emotions).
 Trong giáo dục ở vương quốc Anh, KNS được chia thành 6 nhóm chính là:
 Hợp tác nhóm; Tự quản; Tham gia hiệu quả; Suy nghĩ/ tư duy bình luận, phê phán; Suy nghĩ sáng tạo; Nêu vấn đề và giải quyết vấn đề.
Dù phân loại theo hình thức nào thì một số kĩ năng vẫn được coi là kĩ năng cốt lõi như kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng giáo tiếp, kĩ năng đương đầu với cảm xúc, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn tích cực, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng đạt được mục tiêu
c) Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông.
* Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội.
Thực tế cho thấy có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con người, có nhận thức đúng chưa chắc đã có hành vi đúng. Ví dụ: Nhiều người biết hút thuốc lá là có hại cho sức khỏe, có thể dẫn đến ung thư vòm họng, ung thư phổinhưng họ vẫn hút thuốc; Có những người là luật sư, công an, thẩm phán,có hiểu biết rất rõ về pháp luật nhưng vẫn vi phạm pháp luậtĐó chính là vì họ thiếu KNS.
Có thể nói KNS chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có KNS phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp. Họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình. Ngược lại, người thiếu KNS thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống. Ví dụ người không có kĩ năng ra quyết định sẽ dễ mắc sai lầm hoặc chậm trễ trong việc đưa ra quyết định và phải trả giá cho quyết định sai lầm của mình; người không có kĩ năng ứng phó với căng thẳng sẽ hay bị căng thẳng hơn những người khác và thường có cách ứng phó tiêu cực khi bị căng thẳng, làm ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, học tập, công việccủa bản thân. Hoặc người không có kĩ năng giao tiếp sẽ khó khăn hơn trong việc xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh, sẽ khó khăn hơn trong hợp tác cùng làm việc, giải quyết những nhiệm vụ chung,
 Không những thúc đẩy sự phát triển cá nhân, KNS còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giúp ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con người. Việc thiếu KNS của cá nhân là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như: nghiện rượu, nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạcViệc giáo dục KNS sẽ thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội và giảm các vấn đề xã hội. Giáo dục KNS còn giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân được ghi trong luật pháp Việt Nam và quốc tế.
* Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ.
 Giáo dục KNS càng trở lên cấp thiết đối với thế hệ trẻ bởi vì: Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có KNS, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu mơ ước, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích độngĐặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục KNS, thiếu KNS, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian vừa qua như: nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn chơi sa đọa, ngáo đáchính là do các em thiếu những KNS cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng gải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp.
Vì vậy, việc giáo dục KNS cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm cho bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè, mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn và lành mạnh.
* Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển của đất nước. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải có những người lao động mới phát triển toàn diện, do vậy cần phải đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục phổ thông nói riêng. Nhiệm vụ đổi mới giáo dục đã được thể hiện rõ trong các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, trong Luật Giáo dục năm 2005.
Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục tiêu là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, mục tiêu giáo dục phổ thông đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã được đổi mới theo hướng “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật giáo dục năm 2005, Điều 5).
Như vậy, việc giáo dục KNS cho học sinh trong các nhà trường phổ thông là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
* Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ thông là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới .
Hiện nay, có hơn 155 nước trên thế giới quan tâm đến việc đưa KNS vào nhà trường, trong đó có 143 nước đã đưa vào chương trình chính khóa ở Tiểu học và Trung học. Tuy nhiên, chỉ có một số không đáng kể các nước đưa KNS thành một môn học riêng biệt, ví dụ: Ma-la-wi, Căm-pu-chia,Còn đa số các nước, để tránh sự quá tải trong nhà trường, thường tích hợp KNS vào một phần nội dung môn học, chủ yếu là khoa học xã hội như: giáo dục sức khỏe, giáo dục giới tính, quyền con người, giáo dục môi trườngMột số nước đã sử dụng tiếp cận “Whole School Approach” trong đó có hình thức xây dựng “Trường học thân thiện” nhằm thúc đẩy việc giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường.
Từ những lí do đã trình bày ở trên có thể khẳng định, việc giáo dục KNS cho học sinh trong các trường phổ thông là rất cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt.
1.1.2. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo
1.2.1. Khái niệm
Hoạt động TNST là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác nhau của đời sống nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình.
 “Trải nghiệm” là phương thức giáo dục và “sáng tạo” là mục tiêu giáo dục, phải được làm rõ. Hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn từ đó hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân.
Hoạt động TNST hướng đến những phẩm chất và năng lực chung như đã được đưa ra trong Dự thảo Chương trình mới, ngoài ra hoạt động TNST còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù sau: Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động; Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống; Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân; Năng lực định hướng nghề nghiệp; Năng lực khám phá và sáng tạo.
Chính vì vậy đầu ra của hoạt động TNST khá đa dạng và khó xác định mức độ chung, nhất là khi nó lại luôn gắn với cảm xúc – lĩnh vực mang tính chủ quan cao, cũng là cơ sở quan trọng của sự hình thành sáng tạo và phân hóa.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Thực trạng kĩ năng sống của học sinh trường THPT Cẩm Thủy 1
Trong thực tế, ở các trường THPT nói chung và trường THPT Câm thủy 1 nói riêng khi xây dựng chương trình dạy học, nội dung dạy học trên lớp, giáo viên đều phải xây dựng 3 mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ. Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và giáo viên đều nhận thức sâu sắc yêu cầu này. Tuy nhiên, có thể nói rằng do phải chạy theo thời gian, phải chuyển tải nhiều nội dung trong khi thời gian có hạn, giáo viên có khuynh hướng tập trung cung cấp kiến thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nhất là kỹ năng ứng xử với xã hội, ứng phó và hòa nhập với cuộc sống.
 Tình trạng thiếu kỹ năng sống đang khiến các em trong độ tuổi học THPT gặp nhiều lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề của bản thân dẫn đến tình trạng thiếu tự tin, khủng hoảng về tâm lý. Chính vì vậy nhiều học sinh, vì thiếu kỹ năng sống đã trở thành nạn nhân của những tệ nạn xã hội, thành những học sinh không ngoan, thành người con hư của gia đình, thậm trí còn dẫn đến vi phạm pháp luật ở tuổi vị thành niên.
Trong thời gian gần đây, giáo dục KNS cho học sinh được quan tâm nhiều hơn. Giáo dục KNS cho học sinh trường THPT Cẩm Thủy 1, hiện nay không bố trí thành một môn học riêng trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông bởi KNS phải được gi

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_de_xuat_mot_so_giai_phap_giao_duc_ky_nang_song_thong_qu.doc
  • docBẢNG DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT (1).doc
  • docBÌA SKKN 2019 -.doc
  • docMỤC LỤC.doc
  • docPHỤ LỤC.doc
  • docTÀI LIỆU THAM KHẢO SKKN 2019.doc