SKKN Áp dụng phương pháp trắc nghiệm để kiểm tra các môn học lý thuyết
Giáo dục quốc phòng cho học sinh là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, là một nội dung cơ bản trong việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Là môn học chính khóa trong chương trình giáo dục cấp THPT góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước về kiểm tra và đánh giá, dựa vào thực tiễn giáo dục hiện nay cho phép khẳng định về kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục là công việc phải tiến hành có hệ thống nhằm kiểm tra đánh giá các mức độ học tập của người học đối với mục tiêu đã xác định. Mặt khác chất lượng giáo dục còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác cho nên công tác kiểm tra đánh giá cần phải đảm bảo tính toàn diện trên các mặt nội dung yêu cầu. Có rất nhiều phương pháp kiểm tra được áp dụng từ trước đến nay như: Phương pháp luân đề(viết), phương pháp quan sát, phương pháp trắc nghiệm,.Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm và tác dụng khác nhau tùy theo điều kiện môn học có thể vận dụng các phương pháp kiểm tra để bảo đảm công bằng khách quan đánh giá đúng chất lượng.
MỤC LỤC I/. ĐẶT VẤN ĐỀ.Trang 2 II/. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.Trang 4 II.1 Cơ Sở Lí Luận Của Vấn Đề....Trang 4 II.2 Thực Trạng Của Vấn Đề .Trang 5 II.3 Các Biện Pháp Đã Tiến Hành......Trang 8 II.4 Kết Quả Thực Nghiệm . ..................Trang 9 III/. KẾT LUẬN ...Trang 10 TÀI LIỆU THAM KHẢO.Trang 12 I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Giáo dục quốc phòng cho học sinh là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, là một nội dung cơ bản trong việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Là môn học chính khóa trong chương trình giáo dục cấp THPT góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước về kiểm tra và đánh giá, dựa vào thực tiễn giáo dục hiện nay cho phép khẳng định về kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục là công việc phải tiến hành có hệ thống nhằm kiểm tra đánh giá các mức độ học tập của người học đối với mục tiêu đã xác định. Mặt khác chất lượng giáo dục còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác cho nên công tác kiểm tra đánh giá cần phải đảm bảo tính toàn diện trên các mặt nội dung yêu cầu. Có rất nhiều phương pháp kiểm tra được áp dụng từ trước đến nay như: Phương pháp luân đề(viết), phương pháp quan sát, phương pháp trắc nghiệm,.....Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm và tác dụng khác nhau tùy theo điều kiện môn học có thể vận dụng các phương pháp kiểm tra để bảo đảm công bằng khách quan đánh giá đúng chất lượng. Nghiên cứu chương trình giáo dục quốc phòng và an ninh, mục đính, yêu câu, nhiệm vụ và nội dung chương trình đào tạo. Dựa trên cơ sở lý luận được trình bày trong các văn bản quy định thực hiện chương trình giáo dục quốc phòng và an ninh phải căn cứ vào các nội dung: - Kiến thức lý thuyết giáo dục quốc phòng và an ninh theo chương trình quy định. - Kỹ năng thực hiện kỹ thuật các môn giáo dục quốc phòng và an ninh. - Thể lực (khả năng thực hiện các chỉ tiêu rèn luyện môn giáo dục quốc phòng và An ninh). Thực hiên kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục quốc phòng và an ninh. theo các nội dung trên trong các trương THPT nói chung và trường THPT Trần Phú Nga Sơn nói riêng là công việc rất khó khăn vì các lý do: Quỹ thời gian, số lượng học sinh đông, do vậy công việc là điểm, chấm điểm không thể áp dụng trong một thời gian ngắn nhất là kiểm tra lý thuyết. Cần phải nghiên cứu cải tiến, áp dụng phương pháp kiểm tra cho phù hợp, đảm bảo tính khách quan và nhanh thì có thể thực hiện được việc kiểm tra nhiều nội dung được tốt. Việc kiểm tra theo 3 nôi dung trên còn liên quan đến nhiều khâu như: Thực hiện chương trình tổ chức kiểm tra đánh giá ....cho nên việc áp dụng thực hiện kiểm tra cần phải được chuẩn bị và nghiên cứu kỹ lưỡng. Nghiên cứu về các phương pháp cho thấy; các phương pháp đều có ưu điểm, nhược điểm có tác dụng khác nhau, không thể kết luận phương pháp này tốt hay phương pháp khác, việc kiểm tra mmôn giáo dục quốc phòng và an ninh đòi hỏi kiểm tra lý thuyết phải nhanh, khách quan. Nhằm giải quyết nhu cầu trên chúng tôi nghiên cứu áp dụng phương pháp kiểm tra bằng trắc nghiệm. Từ lý do trên tôi tiến hành: “Áp dụng phương pháp trắc nghiệm để kiểm tra các môn học lý thuyết”. 1. Mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu: 1.1. Mục đích nghiên cứu: - Nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả giảng dạy giáo dục quốc phòng và an ninh ở trường THPT. - Giúp cho việc đánh giá chất lượng tiếp thu một số kiến thức tính tự giác tích cực của người học. 1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Khái quát cơ sở lý thuyết làm căn cứ cho việc sử dụng phương pháp kiểm tra bằng trắc nghiệm. - Bằng phương pháp sư phạm, nghiên cứu phương pháp trắc nghiệm để kiểm tra các môn học lý thuyết. 1.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: a. Phương pháp tham khảo tài liệu. Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài, trong thời gian nghiên cứu chúng tôi đã đọc, phân tích tổng hợp và thu thập tài liệu khoa học chuyên môn có liên quan đến đề tài. Trong đó, các tài liệu về giáo dục quốc phòng và An ninh trường học. b. Phương pháp phỏng vấn và phát phiếu hỏi. Chúng tôi tiến hành phương pháp phỏng vấn trực tiếp, lấy ý kiến một số học sinh thường xuyên tham gia tập luyện và một số học sinh của cả các lớp 12A. 12B. 12C của nhà trường. Từ đó chúng tôi có giải pháp cụ thể để có thêm những dữ liệu chắc chắn hơn nữa trong việc giải quyết nhiệm vụ. c. Phương pháp toán học thống kê. Sau khi thu thập các ý kiến phỏng vấn từ các học sinh, chúng tôi đã dùng toán thống kê xử lý các số liệu thu được để đi đến kết luận cho đề tài. d. Phương pháp quan sát sư phạm. Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi tiến hành điều tra và quan sát các buổi học ở trường, môn học giáo dục quốc phong và an ninh. Thông qua đó chúng tôi có dữ liệu chuyên môn để đi đến giải quyết các nhiệm vụ của đề tài. 2. Tổ chức nghiên cứu: 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Tôi tiến hành thực nghiệm: Học sinh lớp 12A, Trường THPT Trần Phú - Nga Sơn năm học 2016-2017. 2.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/2016 đến tháng 04/2017. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Cơ sở lí luận của vấn đề: 1.1. Ưu điểm của phương pháp trắc nghiệm khách quan: - Ưu điểm nhanh, mất ít thời gian để chấm bài, có thể kiểm tra với số lượng học sinh đông. Nếu sử dụng máy tính chấm bài thì càng nhanh và đảm bảo khách quan. - Kiểm tra đươc giới hạn rộng về nội dung môn học. - Bảo đảm khách quan không phụ thuộc vào quan hệ người chấm và người làm bài. - Gây hứng thú và tích cực học tập đối với học sinh. - Thi trắc nghiệm khách quan có ưu điểm rõ ràng đánh giá phạm vi kiến thức rộng hơn hình thức thi tự luận. Với số lượng câu hỏi nhiều hơn tự luận, mỗi câu lại có 4 phương án trả lời nên khối lượng kiến thức đưa vào để kiểm tra và thi khá lớn. 1.2. Nhược điểm của phương pháp trắc nghiệm khách quan: Soạn đề thi trắc nghiệm lâu và công phu. 1.3. Các vấn đề có liên quan tới soạn thảo đề thi trắc nghiệm: Trong chương trình giáo dục phổ thông có 5 hình thức trắc nghiệm cơ bản được sử dụng khi kiểm tra thường xuyên, thi kết thúc học kỳ Trung học phổ thông và tuyển sinh Đại học. a. Các câu hỏi trắc nghiệm: - Trắc nghiệm câu hỏi trả lời ngắn. - Trắc nghiệm đúng - sai. Chỉ gồm hai sự lựa chon đúng hoặc sai. - Trắc nghiệm đối chiếu cặp đôi(ghép đôi). Với nhóm đối tượng đã cho, phải ghép nối một đối tượng của nhóm thứ nhất với một số đôt tượng của nhóm thứ hai thỏa mãn yêu cầu của bài. - Trắc nghiệm nhiều lựa chọn. Là trắc nghiệm bao gồm hai phần: Phần mở đầu: (câu dẫn) Nêu vấn đề và cách thực hiện. Phần thông tin: Nêu các câu trả lời(các phương án) để giải quyết vấn đề trong các phương án này học sinh phải chỉ ra một phương án đúng. - Trắc nghiệm điểm khuyết: Căn cứ các dữ liệu thông tin đã cho hoặc đã biết để điền vào chỗ trống theo yêu cầu của bài(có thể phần điền khuyết là một số câu trả lời ngắn của một câu hỏi). b. Các bước tiến hành khi biên soạn trắc nghiệm: Để viết một bài trắc nghiệm tốt nhất cần làm những gì? Câu trả lời khá đơn giản nhưng lại không dễ dàng. Chúng ta có thể trả lời là để viết được các bài trắc nghiệm tốt cần phải thực hiện theo hai bước: Bước 1: Định rõ các mục tiêu dạy học. Bước 2: Viết các câu hỏi trắc nghiệm ngắn gọn phù hợp với các nội dung này. - Xác định yêu cầu, mục đích của từng học phần trong chương trình. - Xác định nội dung cần kiểm tra trong từng học phần. - Lập bảng liệt kê các phạm trù nội dung bài trắc nghiệm. - Thời gian làm bài, số lượng câu hỏi và cách cho điểm bài trắc nghiệm. 2. Thực trang khi kiểm tra và thi trắc nghiệm khách quan: - Việc ra đề thi dựa trên cơ sở phát triển năng lực, trí tuệ của học sinh ở 6 mức độ cơ bản: từ đơn giản đến phức tạp: nhận biết, ghi nhớ trí thức: thông hiểu, lí giải; Vận dụng; Phân tích; Tổng hợp; Đánh giá, bình xét. Trước hết học sinh phải nhớ hết kiến thức đơn giản, đó là nền tảng vững vàng để có thể phát triển năng lực nhận thức ở cấp cao hơn. Nội dung đề kiểm tra, thi phải bao hàm đầy đủ các mức độ khác nhau của nhận thức. Tùy theo tính chất, yêu cầu của mỗi kỳ thi để định ra kiến thức để đưa vào đề kiểm tra, thi phải phù hợp với từng mức độ nhận thức. - Đề kiểm tra, thi phải có mức độ khó hợp lí, phù hợp với thời gian làm bài của học sinh, tránh những đề thi hoặc chỉ kiểm tra trí nhớ hoặc đánh đố học sinh. Không nên ra đề kiểm tra, thi hiểu phải thuộc lòng, học vẹt. Đề kiểm tra, thi phải đánh giá được khả năng lí giải, ứng dụng, phân biệt và phán đoán của học sinh. - Nội dung đề kiểm tra, thi tập trung đánh giá phạm vi kiến thức rộng, bao quát chương trình học, tránh tập trung nhiều vào những mảng nhỏ kiến thức sẽ dẫn đến những mảnh rời rạc, chắp vá trong kiến thức của học sinh. a. Về kiến thức: Với 6 mức độ nhận thức: - Nhận biết: Nhận biết thông tin, ghi nhớ, tái hiện thông tin, là mức độ yêu cầu thấp nhất của trình độ nhận thức thể hiện ở chỗ học sinh có thể và chỉ cần ghi nhớ hoặc nhận ra khi được đưa ra hoặc dựa trên các thông tin có tính đặc thù của một khái niệm, một sự vật, một hiện tượng, học sinh phát biểu đúng một định nghĩa, định lí, đinh luật nhưng chưa giải thích và vận dụng được chúng. * Có thể cụ thể hóa mức độ nhận biết bằng các động từ: + Nhận ra, nhớ lại các khái niệm, định lí, định luật, tính chất. + Nhận dạng(không cần giải thích) được các khái niệm, hình thể, vị trí tương đối giữa các đối tượng trong các tình huống đơn giản. + Liệt kê, xác định các vị trí tương đối, các mối quan hệ đã biết giữa các yếu tố. - Thông hiểu: Hiểu được ý nghĩa của các khái niệm, hiện tượng, sự vật; Giải thích được, chứng minh được là mức độ cao hơn nhận biết nhưng là mức độ thấp nhất của việc thấu hiểu sự vật, hiện tượng, nó liên quan đến ý nghĩa của các mối quan hệ giữa các khái niệm, thông tin mà học sinh đã học hoặc đã biết. * Có cụ thể hóa mức độ thông hiểu bằng các động từ: Diễn tả bằng ngôn ngữ cá nhân về khái niệm, định lí, định luật, tính chất, chuyển đổi được từ hình thức ngôn ngữ này sang hình thức thức ngôn ngữ khác(ví dụ, từ lời sang công thức, ký hiệu, số liệu và ngược lại). + Biểu thị, minh họa, giải thích được ý nghĩa của các khái niệm, định nghĩa, định lí, định luật. + Lựa chọn, bổ sung sắp xếp lại những thông tin cần thiết để giải quyết một vấn đề nào đó. + Sắp xếp lại lời giải bài toán theo cấu trúc loogic. - Vận dụng: Vận dụng nhận biết, hiểu biết thông tin để giải quyết vấn đề đặt ra: là khả năng đòi hỏi học sinh phải biết vận dụng kiến thức, biết sử dụng phương pháp, nguyên lý hay ý tưởng để giải quyết một vấn đề nào đó. Yêu cầu áp dụng được các quy tắc, phương pháp, khái niệm, nguyên lý, định lý, định luật, công thức để giải quyết một vấn đề trong học tập hoặc thực tiễn. Đây là mức độ thông hiểu cao hơn mức độ thông hiểu trên. * Có thể cụ thể hóa mức độ vận dụng bằng các động từ: + So sánh các phương án giải quyết vấn đề. + Phát hiện lời giải có mâu thuẫn, sai lầm và chỉnh sửa được. + Giải quyết được các tình huống mới bằng cách vận dụng các khái niệm, định lí, định luật, tính chất đã biết. + Khái quát hóa, trừu tượng hóa từ tình huống quen thuộc, tình huống đơn lẻ sang tình huống mới, tình huống phức tạp hơn. - Phân tích: Chia thông tin ra các thành phần thông tin nhỏ sao cho có thể hiểu được cấu trúc, tổ chức của nó và thiết lập mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. Yêu cầu chỉ ra các bộ phận cấu thành, xác định mối quan hệ giữa các bộ phận, nhận biết và hiểu được nguyên lí cấu trúc của các bộ phận cấu thành. Đây là mức độ cao hơn vận dụng vì nó đòi hỏi sự thấu hiểu cả về nội dung lẫn tình thái cấu trúc của thông tin, sự vật, hiện tượng. * Có thể cụ thể hóa mức độ vận dụng bằng các động từ: + Phân tích các sự kiện, dữ kiện thừa, thiếu hoặc đủ để giải quyết được vấn đề. + Xác định được mối quan hệ giữa các bộ phận trong toàn thể. + Cụ thể hóa các vấn đề trừu tượng. - Tổng hợp: Sắp xếp, thiết kế lại thông tin, các bộ phận từ các nguồn tài liệu khác nhau và trên cơ sở đó tạo lập nên một hình mẫu mới. Yêu cầu tạo ra được một chủ đề mới, một vấn đề mới. Một mạng lưới các quan hệ trừu tượng(sơ đồ phân lớp thông tin). Kết quả học tập trong lĩnh vực này nhấn mạnh vào các hành vi sáng tạo, đặc biệt là trong việc hình thành các mô hình hoặc cấu trúc mới. * Có thể cụ thể hóa mức độ vận dụng bằng các động từ: + Kết hợp nhiều yếu tố riêng thành một tổng thể hoàn chỉnh. + Khái quát hóa những vấn đề riêng lẻ, cụ thể. + Phát hiện các mô hình mới đối xứng, biến đổi hoặc mở rộng từ mô hình đã biết ban đầu. - Đánh giá: Bình xét, nhận định, xác định được giá trị của từng tư tưởng, một phương pháp, một nội dung kiến thức. Đây là một bước mới trong việc lĩnh hộ kiến thức được đặc trưng bởi việc đi sâu vào bản chất của đối tượng, sự vật, hiện tượng. Yêu cầu xác định được các tiêu chí đánh giá và vận dụng dược để đánh giá. Đây là mức độ cao nhất của nhận thức vì nó chứa đựng các yếu tố của mọi mức độ trên. * Có thể cụ thể hóa mức độ vận dụng bằng các động từ: + Phân tích những yếu tố, dữ kiện đã cho để đánh giá sự thay đổi về chất của sự vật, sự kiện. + Nhận định nhân tố mới xuất hiện khi thay đổi các mối quan hệ cũ. + Đánh giá, nhận định giá trị của các thông tin, tư liệu theo một mục đích, yêu cầu xác định. + Xác định được các tiêu chí đánh giá khác nhau và vận dụng để đánh giá thông tin, sự vật, sự kiện. b. Về kỹ năng: Với 2 mức độ: Làm được(biết làm) và thông thạo(làm thành thạo). 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. - Thi bằng hình thức trắc nghiệm khách quan, học sinh không được học tủ, học lệch mà phải học đầy đủ, toàn diện và không được bỏ bất kỳ kiến thức cơ bản có trong chương trình sách giáo khoa. Với phạm vi bao quát rộng của đề thi học sinh khó có thể chuẩn bị tài liệu trong khi thi. Do vậy, việc chuẩn bị kiến thức học sinh được nhà trường, các thầy cô giáo quan tâm thực sự. - Làm đề thi trắc nghiệm khách quan, học sinh không nên dành thời gian quá nhiều cho câu hỏi nào đó. Nếu chưa giaỉ quyết được thì nên chuyển sang câu hỏi khác, nếu câu hỏi khó thì nên loại các phương án nhiễu dễ nhận được nhất. Ví dụ: Có bốn phương án trả lời, chưa biết phương án nào đúng thì loai trước hai phương án nhiễu đã nhận được chính xác còn lại, khi lựa chọn phương án trả lời sẽ nhanh và xác xuất trả lời đúng sẽ cao hơn. - Đối với những câu hỏi có phần trả lời là những kết quả phải thông qua các bước toán học, học sinh cần hết sức linh hoạt và tỉnh táo nhất là không tính đến kết quả đã cho thì càng không thể có được kết luận chính xác, cần suy luận để loại trừ những phương án nhiễu. Do vậy, việc rèn khả năng phán đoán, suy luận nhanh trên cơ sở nắm vững kiến thức đã được chuẩn bị đầy đủ là rất quan trọng và cần thiết cho học sinh thi theo hình thức trắc nghiệm đạt kết quả cao. 4. Kết quả thực nghiệm: Tôi tiến hành thực nghiệm trên số lượng 46 học sinh lớp 12A. trường THPT Trần Phú – Nga Sơn, năm học 2016 - 2017. Trong kỳ I, tôi tiến hành kiểm tra bằng phương pháp truyền thống(luận đề). Trong học kỳ II tôi tiến hành kiểm tra theo phương pháp trắc nghiệm khách quan. Kết quả được biểu diễn ở bảng 1. Kết quả so sánh cho thấy: Điểm kiểm tra bằng 2 phương pháp của lớp thực nghiệm đánh giá chất lượng học sinh ở mức tương đương. Số học sinh đạt yêu cầu từ 5 - 10 điểm của hai lần kiểm tra bằng nhau, nhưng tỷ lệ giỏi ở phương pháp kiểm tra trắc nghiệm cao hơn nhưng không đáng kể. Bảng 1. Kết quả kiểm tra bằng hai phương pháp của lớp thực nghiêm n = 46 TT Đánh giá kết quả Điểm Phương pháp luận đề Phương pháp trắc nghiêm Số bài Tỷ lệ % Số bài Tỷ lệ % 1 2 3 4 5 Bài bỏ trắng Bài điểm giỏi Bài điểm khá Bài điểm trung bình bài điểm yếu, kém 0 9 - 10 7 - 8 5 - 6 1 - 4 0 0 24 18 04 0 0 52,17 39,13 8,70 0 01 23 18 04 0 2,17 50 39,13 8,70 Để xác định rõ thêm về mức độ phù hợp của phương pháp kiểm tra trắc nghiệm, tôi tiến hành lấy phiếu hỏi ý kiến của 90 học sinh hai lớp 12B và lớp 12C trong nhà trường, năm học: 2016 - 2017. Kết quả hỏi ý kiến về hai phương pháp được trình bày ở bảng 2. Bảng 2. Kết quả phỏng vấn học sinh n= 90 TT Nội dung phỏng vấn Số học sinh Tỷ lệ % 01 02 03 Số học sinh thích kiểm tra lý thuyết theo phương pháp: - Luận đề: - Trắc nghiệm: Số học sinh cho rằng: Kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm dễ học và gây hứng thú. Số học sinh cho rằng: áp dụng phương pháp trắc nghiệm kiểm tra các môn học lý thuyết là phù hợp: 31 59 59 68 34,40 65,60 65,55 75,55 Kết quả thực nghiệm cho thấy: Đánh giá chất lượng bằng hai phương pháp đều có tác dụng tương đương nhau, nhưng kiểm tra trắc nghiệm nhanh gây hứng thú cho học sinh học tập dễ học và phù hợp với môn lý thuyết giáo dục quốc phòng và an ninh hơn đối với phương pháp luận. III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: 1 . Kết luận: - Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm có nhiều ưu điểm như. Chấm bài nhanh, khách quan, kiểm tra được kiến thức sâu, rộng, có thể kiểm tra với số lượng đông và phù hợp với điều kiện thực tế môn học giáo dục quốc phòng và An ninh trong các trường THPT nói chung và trường THPT Trần Phú Nga Sơn nói riêng. Sử dụng phương pháp này như là biện pháp tích cực để thực hiện kiểm tra toàn diện các nội dung đánh giá chất lượng giáo dục quốc phòng và an ninh. - Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm sẽ giúp cho việc đánh giá chất lượng tiếp thui một khối lượng kiến thức trong một thời gian ngắn nhằm nâng cao kiến thức tính tự giác tích cực của người học. - Nghiên cứu lý luận về quá trình dạy học, về đổi mới phương pháp dạy học, đi sâu vào phương pháp kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh, đặc biệt là phương pháp trắc nghiệm để kiểm tra các môn học lý thuyết. 2. Ý kiến đề xuất: - Cần mạnh dạn thử nghiệm áp dụng phương pháp trắc nghiệm để kiểm tra các môn học lý thuyết. - Sở GD-ĐT cần quan tâm đến việc tập huấn chuyên đề để giáo viên giảng dạy nắm vững các phương pháp hơn, mạnh dạn nghiên cứu áp dụng phương pháp trắc nghiệm để kiểm tra lý thuyết hoặc vấn đáp. - Bản thân tôi là giáo viên không ngừng tự học, tự nghiên cứu tăng cường tham gia dự giờ, nghiên cứu toàn bộ nội dung sách giáo khoa để đánh giá chất lượng môn giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường THPT. Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Hiệu trưởng Nguyễn Chí Cường Thanh Hóa, ngày 25 tháng 05 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của cá nhân, không sao chép nội dung của người khác Người viết SKKN Mai Sỹ Nghĩa TÀI LIỆU THAM KHẢO Trắc nghiệm và đo lường trong giáo dục(Tài liệu của vụ Đại học,Bộ GD&ĐT), Hà Nội năm 1995. Đổi mới phương pháp dạy học trường THPT - Viện KHGD 1999. Sách bồi dưỡng thường xuyên các đợt tập huấn Sở GD&ĐT Thanh Hoá Phương pháp toán học thống kê nhà xuất Hà Nội. 5. Tài liệu hướng dẫn thiết kế bài giảng trên POWRPOINT khai thác từ Intenet. 5. - Intenet.
Tài liệu đính kèm:
- skkn_ap_dung_phuong_phap_trac_nghiem_de_kiem_tra_cac_mon_hoc.doc