Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại Việt Nam
Môn Ngữ văn có vị trí quan trọng trong nhà trường bởi chức năng đặc biệt của nó. Nhà văn Mác-xim-Go-rơ-ki từng nói “Văn học là nhân học” dạy học văn là dạy người ta cách sống, cách làm người, cách ăn ở thủy chung, nhân hậu, biết trọng nghĩa khinh tài, biết yêu điều ngay thẳng và ghét sự độc ác, phản trắc, thiếu trung thực, gian tà. Đồng thời nó cũng là tiếng gọi cứu nước thấm đượm ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm, tràn ngập tình cảm anh hùng, khích lệ tinh thần dân tộc và lòng dũng cảm của mọi người, cổ vũ mọi người đóng góp hy sinh cho Tổ quốc, cho sự nghệp chung. Đó chính là giá trị văn học của dân tộc. Giá trị ấy phong phú trên nhiều mặt, bộc lộ mỗi thời một khác nhưng cùng vun đắp đời sống tinh thân dân tộc.
Hiện nay, do sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển nhanh của khoa học, một mặt xã hội đề ra những yêu cầu ngày càng cao đối với thế hệ trẻ, mặt khác cũng làm cho hứng thú và nguyện vọng của thế hệ trẻ ngày càng phát triển. Vì thế học sinh có điều kện để tìm hiểu tường tận để thỏa mãn hứng thú và nguyện vọng của mình thông qua mạng internet, sách tham khảo, học thêm, các lớp đào tạo kỹ năng sống, các lớp hướng nghiệp .Do đó đòi hỏi ở người thầy phải có tầm hiểu biết rộng, người thầy phải thường xuyên theo dõi những xu hướng, những định hướng của môn mình phụ trách. Đồng thời phải tự học, tự bồi dưỡng để cung cấp cho học sinh những kiến thức chuẩn xác và liên hệ được nhiều kiến thức cũ và mới, giữa bộ môn khoa học này với bộ môn khoa học khác.
Từ năm 2002, chương trình THPT môn Ngữ văn, Bộ Giáo dục đã hướng dẫn: Quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt trong toàn bộ môn học từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu trong quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và trong quá trình học tập của học sinh. Nội dung tích hợp liên môn cũng nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trên tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Năm học mới 2014-2015, Bộ GD&ĐT chỉ đạo các cơ sở giáo dục khuyến khích giáo viên dạy học theo hướng “tích hợp liên môn”.
Nội dung Trang Phần 1: Mở đầu 1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm 3 2. Mục đích của sáng kiến 5 3. Phạm vi, đối tượng áp dụng của sáng kiến 5 4. Thời gian thực hiện và triển khai sáng kiến 5 Phần 2: Nội dung I. Cơ sở lí luận của sáng kiến 6 II. Thực trạng của vấn đề 8 III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 10 IV. Hiệu quả của sáng kiến 19 Phần 3: Kết luận và kiến nghị 23 Tài liệu tham khảo 25 SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên sáng kiến:Tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại Việt Nam Tác giả sáng kiến: Từ Thị Kim Tuyến Mã sáng kiến: 095104 Tam Dương, tháng 12 năm 2017 Trang 1. Lí do chọn đề tài: Môn Ngữ văn có vị trí quan trọng trong nhà trường bởi chức năng đặc biệt của nó. Nhà văn Mác-xim-Go-rơ-ki từng nói “Văn học là nhân học” dạy học văn là dạy người ta cách sống, cách làm người, cách ăn ở thủy chung, nhân hậu, biết trọng nghĩa khinh tài, biết yêu điều ngay thẳng và ghét sự độc ác, phản trắc, thiếu trung thực, gian tà. Đồng thời nó cũng là tiếng gọi cứu nước thấm đượm ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm, tràn ngập tình cảm anh hùng, khích lệ tinh thần dân tộc và lòng dũng cảm của mọi người, cổ vũ mọi người đóng góp hy sinh cho Tổ quốc, cho sự nghệp chung. Đó chính là giá trị văn học của dân tộc. Giá trị ấy phong phú trên nhiều mặt, bộc lộ mỗi thời một khác nhưng cùng vun đắp đời sống tinh thân dân tộc. Hiện nay, do sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển nhanh của khoa học, một mặt xã hội đề ra những yêu cầu ngày càng cao đối với thế hệ trẻ, mặt khác cũng làm cho hứng thú và nguyện vọng của thế hệ trẻ ngày càng phát triển. Vì thế học sinh có điều kện để tìm hiểu tường tận để thỏa mãn hứng thú và nguyện vọng của mình thông qua mạng internet, sách tham khảo, học thêm, các lớp đào tạo kỹ năng sống, các lớp hướng nghiệp.Do đó đòi hỏi ở người thầy phải có tầm hiểu biết rộng, người thầy phải thường xuyên theo dõi những xu hướng, những định hướng của môn mình phụ trách. Đồng thời phải tự học, tự bồi dưỡng để cung cấp cho học sinh những kiến thức chuẩn xác và liên hệ được nhiều kiến thức cũ và mới, giữa bộ môn khoa học này với bộ môn khoa học khác. Từ năm 2002, chương trình THPT môn Ngữ văn, Bộ Giáo dục đã hướng dẫn: Quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt trong toàn bộ môn học từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu trong quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và trong quá trình học tập của học sinh. Nội dung tích hợp liên môn cũng nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trên tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Năm học mới 2014-2015, Bộ GD&ĐT chỉ đạo các cơ sở giáo dục khuyến khích giáo viên dạy học theo hướng “tích hợp liên môn”. Dạy học liên môn trong môn Ngữ văn học là giúp người học nhận thức được tác phẩm văn học trong môi trường văn hóa - lịch sử sản sinh ra nó hay trong môi trường diễn xướng của nó; thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn học và lịch sử phát sinh; văn học với các hình thái ý thức xã hội khác đồng thời khắc phục được tính tản mạn trong kiến thức văn hóa của học sinh. Thực tế cho thấy, những khác biệt về kinh nghiệm sống, văn hóa, giáo dục, cách dùng ngôn ngữ, thể loại khiến cho tầm đón nhận của học sinh so với tầm đón nhận tác phẩm yêu cầu có độ vênh khá lớn. Học sinh không hiểu do đó không thể yêu thích những tác phẩm văn chính luận hiện đại dù các em vẫn biết đó là những tác phẩm đỉnh cao của văn học dân tộc.Vì vậy, việc đưa học sinh về môi trường văn hóa của thời đại, kéo tầm đón nhận của các em về trùng khít với yêu cầu tầm đón nhận của tác phẩm là việc cần thiết cả về mặt khoa học lẫn giáo dục. Vì thế, trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy việc tham khảo tài liệu từ các lĩnh vực khác có vai trò quan trọng trong việc khôi phục, tái hiện hình ảnh quá khứ tài liệu tham khảo giúp người học xây dựng được tầm“đón nhận phù hợp với văn bản” Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu liên môn còn giúp người học có thêm cơ sở để hiểu rõ quy luật phát triển của văn học, hình thành củng cố nhiều phương pháp nghiên cứu văn học. Tài liệu tham khảo về lịch sử văn hóa là phương tiện có hiệu quả để giúp giáo viên làm rõ nội dung sách giáo khoa kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn ở trường THPT, tôi luôn trăn trở với câu hỏi: Phải làm thế nào để học sinh phải hiểu rõ ràng, cụ thể những giá trị nội dung, nghệ thuật, tư tưởng của một tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm chính luận hiện đại nói riêng? Phải tích hợp như thế nào cho phù hợp, đặc biệt đối với những tác phẩm văn chính luận mà ở đó học sinh vừa phải hiểu được nội dung nghệ thuật vừa phải nắm được quan điểm chính trị của người viết. Mà hệ thống quan điểm chính trị đó có sự thay đổi hoàn thiện trong từng giai đoạn lịch sử? Làm cách nào để học sinh hiểu và đánh giá chính xác quan điểm tư tưởng của tác giả là điều không dễ. Tôi đã thử nhiều giải pháp, mỗi giải pháp đem lại thành công nhất định.Vì thế qua mỗi lần thử nghiệm, tôi đã tự điều chỉnh và tự hoàn thiện dần phương pháp dạy học. Tôi nhận thấy sử dụng phương pháp tích hợp kiến thức của các môn mà học sinh đã và đang được học như môn Lịch sử, môn GDCD, phân môn Làm văn, Tiếng Việt vào trong bài giảng đã đạt hiệu quả nhất định. Xuất phát từ những lý do trên, tôi xin đề xuất một số biện pháp, cách thức “ Tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại Việt Nam" 2. Tên sáng kiến: Tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại Việt Nam 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Từ Thị Kim Tuyến - Địa chỉ : Trường THPT Trần Hưng Đạo –Tam Dương - Vĩnh Phúc. - Số điện thoại: 0978311604 - Email: tukimtuyen.gvtranhungdao@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Từ Thị Kim Tuyến 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Đề tài này, tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về phương pháp dạy học tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại Việt Nam. Từ đó, học sinh tìm ra được giá trị của dạy học tích hợp liên môn một cách chủ động sáng tạo, khoa học và hiệu quả thông qua dạy học tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại bên cạnh các phương pháp dạy học khác. Đồng thời cũng có thể vận dụng phương pháp này vào tất cả những giờ đọc văn khác 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử, (ghi ngày nào sớm hơn) ( Năm học 2017-2018) 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. PHẦN I - PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN I. Cơ sở lí luận của sáng kiến 1. Khái niệm tích hợp Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, là tính liên kết và tính toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Trong Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 của Bộ GD&ĐT, khái niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc.” (tr. 27) Trên thế giới, tích hợp đã trở thành một trào lưu sư phạm hiện đại, nó góp phần hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, có dự tính những hoạt động tích hợp, trong đó học sinh học cách sử dụng phối hợp kiến thức, kỹ năng; có khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của ình vào giải quyết các tình huống cụ thể. Những năm gần đây, nhiều phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu, áp dụng ở THPT như: dạy học tích cực, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp tạo ô chữ, phương pháp sử dụng công nghệ thông tin trong dạy họcTất cả đêu nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh và phát triển tư duy sáng tạo chủ động cho học sinh. Tích hợp liên môn trong dạy học các môn nói chung và môn Ngữ văn nói riêng thực sự là phương pháp hữu hiệu, tạo ra môi trường giáo dục mang tính phát huy tối đa năng lực tri thức của học sinh đêm đến hứng thú mới cho việc dạy học ở trường phổ thông. 2. Quan điểm vận dụng tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường THPT Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường THPT chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác như hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này. Nói khác đi, đó là lối dạy học khép kín “trong nội bộ phân môn”, biệt lập các bộ phận Văn học, Tiếng Việt và Làm văn vốn có quan hệ gần gũi về bản chất, nội dung và kĩ năng cũng như mục tiêu, đủ cho phép phối hợp, liên kết nhằm tạo ra những đóng góp bổ sung cho nhau cả về lí luận và thực tiễn, đem lại kết quả tổng hợp và vững chắc trong việc giải quyết những tình huống tích hợp hoặc những vấn đề thuộc từng phân môn. 3. Dạy học tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại Việt Nam Việc dạy học tích hợp liên môn trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại không chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt HS từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ thuộc nội bộ phân môn Tích hợp kiến thức Địa lý, Lịch sử, Giáo dục công dân, Tiếng Việt, Làm văn, kĩ năng sống trong dạy học tác phẩm chính luận hiện đại thực sự đã khơi dậy cho học sinh niềm đam mê, ham hiểu biết đối với tác phẩm chính luận. II. Thực trạng vấn đề Là một phương phức để tạo lập văn bản, văn nghị luận, chính luận có những đặc trưng riêng. Khác với phương thức tự sự, miêu tả nhằm tái hiện con người, văn nghị luận lấy việc đề xuất, bàn bạc, thảo luận, phê bình vấn đề có ý nghĩa xã hội làm nội dung chủ yếu, hướng tới người thuyết phục, người đọc, người nghe tin vào ý kiến đúng đắn cũng như phương thức trình bày, lập luận chủ đề của người viết. Lối tư duy trong văn nghị luận khác với lối tư duy lối tư duy hình tượng. Trong chính luận là lối tư duy logic, nó dựa trên những dữ kiện, phán đoán để tư duy. Thông thường, lối thể hiện của của văn là tình tiết, diễn biến được thể hiện, triển khai theo mạch cảm xúc. Còn trong văn chính luận, nó lại diễn biến theo diễn biến của sự kiện đó hoặc diễn biến theo trình tự nhận thức và theo cách khai triển vấn đề. Cụ thể, nếu trong văn học được thể hiện qua các tình tiết, hành động, lời nói thì trong chính luận, chủ đề tác phẩm được thể hiện qua hệ thống luận điểm, luận chứng, luận cứ. Nói cách khác, văn nghị luận là văn được thể hiện qua phương pháp nghiên cứu khoa học rất chặt chẽ. Tác phẩm chính luận trực tiếp bày tỏ tư tưởng, lập trường, thái độ chính trị của người viết đối với vấn đề chính trị. Qua tác phẩm học sinh còn nắm bắt được cảm xúc, khát vọng, tâm huyết của người viết. Để từ đó khi liên hệ đến hiện thực đời sống, học sinh có những suy nghĩ, hành động đúng. Tuy nhiên, về phía GV: giáo viên lúng túng trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh, một số GV ngại soạn giáo án tích hợp liên môn do mất nhiều thời gian tìm hiểu tài liệu liên quan. Về phía GV học sinh thường ngại học, không nhớ, không hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật, tư tưởng của tác phẩm chính luận, thực trạng phổ biến trong các tiết học tác phẩm chính luận là học sinh thụ động ngồi nghe giảng. Bảng điều tra mức độ hứng thú học tập của học sinh các tiết dạy văn chính luận ở lớp 12A2, 12A3 năm học 2017-2018 khi giáo viên chưa dạy tích hợp liên môn Lớp Sĩ số Húng thú học tập Không hứng thú học tâp Số lượng % Số lượng % 12A2 32 12 37,5 20 62,5 12A3 33 11 33,3 22 66,7 Bảng chất lượng bài kiểm tra 15 phút sau khi học bài “Tuyên ngôn Độc lập” khi chưa sử dụng phương pháp tích hợp liên môn Lớp Sĩ số Giỏi Khá Tb Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 12A2 32 0 0 3 9,5 19 59,3 10 31,2 12A2 33 0 0 3 9,2 18 54,5 12 36,3 Khi được hỏi tại sao các em không húng thú học tập và kết quả kiểm tra nội dung kiến thức không cao, thì câu trả lời chủ yếu tập trung vào các lý do sau: - Do nội dung bài khô khan; - Do các bài này ít được đưa vào bài kểm tra học kỳ; - Do bối cảnh xã hội của tác phẩm và học sinh hiện nay là hoàn toàn khác nhau. Hs không hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử nước ta lúc đó; - Do chưa thấy được giá tri tư tưởng thực sự của tác phẩm; - Do học sinh ít quan tâm đến nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử; - Do học sinh chủ yếu thi đại hộc khối A,B nên không thích học văn; - Do phương pháp giảng dạy của giáo viên. Như vậy, trong số các nguyên nhân khiến cho HS không hứng thú học và kết quả kiểm tra thấp có liên quan đến giáo viên, đó chính là phương pháp giảng dạy. Nếu không thay đổi phương pháp dạy học, HS sẽ cảm thấy nhàm chán, tẻ nhạt, không hiểu được giá trị và ý nghĩa to lớn của tác phẩm chính luận. III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 1. Điều kiện để thực hiện - Chuẩn bị của GV + Để xây dựng bài giảng theo hướng tích hợp kiến thức liên môn, giáo viên cần: Xác định đúng nội dung kiến thức nào trong bài cần tích hợp, tích hợp với kiến thức thuộc môn học hay lĩnh vực nào, tích hợp ở mức độ nào; chọn hình thức tích hợp: giáo viên diễn giảng bằng lời, cung cấp trên giáo cụ trực quan hay đưa ra nhiệm vụ học sinh thu thập, tìm hiểu ở nhà trước hoặc sau bài học; + Xây dựng thiết kế bài giảng: phải bám sát kiến thức bài học, mục tiêu thời lượng dành cho mỗi đơn vị kiến thức trong bài học để đưa ra phương pháp và cách tổ chức dạy học phù hợp; cần đa dạng hóa các hình thức luyện tập sáng tạo để phát huy khả năng liên tưởng, tưởng tượng của HS; dự kiến được các tình huống phát sinh trước hoạt động tích hợp liên môn; + Chuẩn bị phương tiện dạy học SGK, SGV, bài soạn, phiếu học tập, hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá và các tiêu chí kiểm tra, đánh giá xếp loại HS; + Chuẩn bị điều kiện học tập của học sinh. - Chuẩn bị của học sinh: + Ôn tập bài cũ, chuẩn bị bài mới; + Chuẩn bị thái độ, tâm thế. 2. Vận dụng các kiến thức liên môn 2.1. GV sử dụng tài liệu lịch sử GV cần tìm hiểu những kiến thức lịch sử trong SGK lịch sử hay tài liệu tham khảo môn Lịch sử để có những kiến thức chính xác, chặt chẽ. Sử dụng phương pháp này, học sinh sẽ tiếp cận kiến thức Văn học qua tư liệu lịch sử, đặt tác giả, tác phẩm vào môi trường ra đời của nó để học sinh đánh giá được những đóng góp cũng như hạn chế của tác giả về nội dung tư tưởng hay nghệ thuật thể hiện. Trong các bài học ở sách giáo khoa, các nhà biên soạn đã có phần tiểu dẫn trình bày về tác giả hoàn cảnh ra đời tác phẩm để giáo viên khai thác tuy nhiên vẫn cần có sự tham khảo thêm sử liệu để làm rõ yếu tố thời đại. 2.2. Gv sử dụng tài liệu địa lý Với những hiểu biết về điều kiện tự nhiên, khí hậu địa hình của một khu vực đóng vai trò vô cùng quan trọng để học sinh hiểu thêm không gian nghệ thuật trong tác phẩm. Chẳng hạn, tìm hiểu về câu hỏi: Bác đã đọc TNĐL vào thời gian nào ở đâu? - GV trình chiếu 1 số hình ảnh địa danh Vườn hoa Ba Đình( Quảng trường Ba Đình - GV tích hợp kiến thức địa lí giới thiệu về địa danh Vườn hoa Ba Đình ( Quảng trường Ba Đình) - Thời gian: 1phút 29giây + Vị trí Quảng trường Ba Đình nằm ở phía Tây cổng thành cổ Hà Nội. Cho tới đầu thế kỷ 20, khu vực này là một khoảng trống với bãi hoang, cùng hồ ao mới được san lấp. Người Pháp đã xây dựng ở đây một vườn hoa. Xung quanh vườn hoa này một số công trình công sở, biệt thự được xây dựng. Một trong những công trình được xây dựng sớm là Phủ Toàn quyền (1902), sau này là Phủ Chủ tịch + Quảng trường Ba Đình là nơi chứng kiến bao sự kiện lịch sử của đất nước, và đều gắn với mùa thu: Mùa thu Cách mạng tháng Tám năm 1945, mùa thu trở về Hà Nội năm 1954; và mùa thu năm 1969, tại Hội trường Ba Đình, Việt Nam và bạn bè quốc tế đã thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ba Đình trở thành đất mảnh đất thiêng cùng những dấu ấn lịch sử không bao giờ phai mờ, cùng những kiến trúc tâm linh hiện hữu: Lăng Bác, Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ. 2.3. Sử dụng tư liệu về các tác phẩm nghệ thuật Hội họa, kiến trúc, sân khấu, điêu khắc, ca nhạc, phim ảnhlà kết quả sáng tạo của xã hội loài người. Một hình ảnh nghệ thuật giúp người học sử dụng trí tưởng tượng của mình tập trung vào những điểm quan trọng. Giáo viên bổ sung hình ảnh tư liệu thuộc các lĩnh vực nói trên vào bài giảng để học sinh có vốn văn hóa rộng khi tiếp nhận. Bản thân văn học có mối quan hệ mật thiết với các loại hình nghệ thuật khác. Học sinh tiếp nhận kiến thức văn học qua tranh ảnh đồ dùng trực quan kết hợp với bài viết sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo sẽ nhớ lâu và hứng thú hơn. Để việc khai thác nguồn tư liệu này có hiệu quả, phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên cần nghiên cứu kỹ mục tiêu và nội dung của từng tư liệu trong bài học tư liệu thuyết minh hình ảnh Ngày nay, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, giáo viên trình chiếu kênh hình sẽ có ưu thế hơn vì học sinh được trực quan với hình ảnh rõ, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn Ví dụ 1: Khi dạy phần mở đầu văn bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh, Gv trình chiếu đoạn phim tài liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc TNĐL( phần 1) Ví dụ 2: Khi nói về nạn đói khủng khiếp trong lịch sử “ từ Quảng Trị chết đói” ngoài tích hợp kiến thức lịch sử GV trình chiếu đoạn phim tài liệu có những hình ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945. 2.4. Sử dụng tài liệu các lĩnh vực văn hóa khác: Việc vận dụng kiến thức liên môn của giáo dục công dân, giáo dục kĩ năng sống, kiến thức dân tộc học, triết học góp phần làm sáng rõ khi lí giải các khái niệm hay tư tưởng tác phẩm. 3. Cách tích hợp liên môn trong nội dung dạy học tác phẩm chính luận hiện đại Việt Nam * Để thực hiện tốt bài dạy của mình, tôi đã thực hiện các bước sau: Bước 1: Đọc kỹ tác phẩm Bước 2: Năm vững kiến thức cần đạt Bước 3: Tìm hiểu kiến thức có liên quan ở trong SGK, sách tham khảo, mạng internetcủa các môn HS đã và đang học để liên hệ tích hợp. Bước 4: Lựa chọn, sắp xếp ý để soạn giáo án * Để giúp học sinh nắm được tác phẩm chính luận, Gv cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu những nội dung sau: - Nội dung 1: Tìm
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_tich_hop_lien_mon_trong_day_hoc_tac_ph.doc