Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Vật lý

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Vật lý

2.1.1. Sơ đồ tư duy

SĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. SĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.

Cơ chế hoạt động của SĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). SĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,. và giúp cán bộ quản lí giáo dục lập kế hoạch công tác.

 SĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn Vật lý nói riêng và môn Khoa học Tự nhiên nói chung, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.

 SĐTD giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng SĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.

Việc HS tự vẽ SĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím, ), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong ), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS và SĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.

SĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của SĐTD nên người thiết kế SĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng SĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.

 

doc 19 trang cuonglanz2a 10171
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Vật lý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Quá trình đổi mới toàn diện trên nhiều lĩnh vực của giáo dục phổ thông mà tâm điểm là đổi mới chương trình giáo dục để đáp ứng yêu cầu xây dựng đạt được mục tiêu việc “dạy chữ, dạy người, dạy nghề”, định hướng nghề nghiệp cho học sinh (HS) trong hoàn cảnh mới của xã hội Việt Nam hiện đại. Trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của HS với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên (GV), nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong học hành. 
2. Lí do chọn đề tài
Để thực hiện mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học.
 Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người GV cần nhận thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động.
 Trong thực tế hiện nay, còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. HS chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng bản đồ tư duy (SĐTD) giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.
 Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng đó là ứng dụng SĐTD trong các nội dung bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như hiệu quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng SĐTD trong dạy học Vật lý” trong các tiết dạy của mình nhằm nâng cao kết quả dạy-học.
3. Phạm vi và đối tượng áp dụng đề tài
- Đề tài này được viết trong quá trình tôi dạy học, rút ra một số kinh nghiệm từ công tác giảng dạy tại trường Trung học phổ thông (THPT). Đối tượng được áp dụng trong đề tài này rất rộng rãi, từ HS trung bình khá đến đối tượng HS giỏi các lớp, vì đây là phương pháp dạy - học. Tuỳ theo đối tượng của HS mà việc tổ chức, hướng dẫn, giao việc tìm ra kiến thức mới cho phù hợp, giúp các em hứng thú học tập hơn khi học thực nghiệm với đề tài này.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm lí của HS THPT, khả năng tư duy logic, khả năng ghi nhớ, phương pháp học bài thật tốt, mà đề ra các biện pháp tổ chức dạy và học nhằm phát triển sự ghi nhớ, vận dụng kiến thức cho HS. 
	- Giúp cho các em hiểu một cách sâu sắc hơn về khả năng ghi nhớ của bản thân, đồng thời tìm ra phương pháp dạy và học thích hợp với chương trình học hiện nay, phù hợp với xu hướng học tập ngày càng đổi mới và nâng cao chất lượng của HS trong tương lai.
5. Các phương pháp nghiên cứu
- Phân tích – tổng hợp
- Đối chiếu – so sánh
- Khảo sát thực tế
- So sánh 
- Phương pháp định tính
- Phương pháp định lượng
6. Điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
- Đề tài áp dụng kinh nghiệm giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy và học ở trường THPT.
- Kết hợp với các phương tiện dạy học truyền thống, phương tiện hiện đại cho hiệu quả rõ rệt. Đây là một chủ đề rất mới trong những năm học gần đây. 
	- HS hứng thú học tập, công tác giảng dạy, giáo dục của GV trở nên nhẹ nhàng hơn vì phần chủ yếu hướng dẫn cho HS tìm ra kiến thức.
	- Đề tài có thể áp dụng cho nhiều đối tượng, áp dụng rộng rãi cho nhiều công việc (học tập, lập kế hoạch, )
Từ những điểm nêu trên bản thân tôi khẳng định đề tài có tính khoa học và thực tiễn cao:
Ý nghĩa khoa học:
	Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học, cũng như phát huy tính sáng tạo trong việc dạy và học. Kết quả của đề tài sẽ góp phần phát triển tư duy của GV và HS .
Ý nghĩa thực tiễn: 
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Vật lý nói riêng và các môn học khác nói chung. Đề tài cũng góp phần phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập của người học.
Phần 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận
Sơ đồ tư duy
SĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. SĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. 
Cơ chế hoạt động của SĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). SĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,... và giúp cán bộ quản lí giáo dục lập kế hoạch công tác.
	SĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn Vật lý nói riêng và môn Khoa học Tự nhiên nói chung, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
 	SĐTD giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng SĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. 
Việc HS tự vẽ SĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS và SĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
SĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của SĐTD nên người thiết kế SĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng SĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả. 
Tác giả Stella Cottrell đã tổng kết cách “ghi chép” có hiệu quả trên SĐTD: 
1. Dùng từ khóa và ý chính
2. Viết cụm từ, không viết thành câu
3. Dùng các từ viết tắt
4. Có tiêu đề
5. Đánh số các ý
6. Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số, màu sắc, 
7. Ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra cứu lại dễ dàng
8. Sử dụng màu sắc để ghi.
Sử dụng SĐTD giúp GV chủ nhiệm, cán bộ quản lí nhà trường lập kế hoạch công tác và có cái nhìn tổng quát toàn bộ kế hoạch từ chỉ tiêu, phương hướng, biện pháp,và dễ theo dõi quá trình thực hiện đồng thời có thể bổ sung thêm các chỉ tiêu, biện pháp,một cách rất dễ dàng so với việc viết kế hoạch theo cách thông thường thành các dòng chữ.
2.1.2. Những kinh nghiệm khi lập SĐTD
	* Các bước lập SĐTD
	- Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
+ Chúng ta sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
+ Sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh, đặc biệt là các màu sắc bản thân yêu thích. 
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng sâu sắc về chủ đề.
	 + Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần được làm nổi bật dễ nhớ
	 + Chủ đề phải đủ to, rõ, nổi bật trọng tâm cần ghi nhớ.
	- Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm
+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng.
	- Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ
+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh.
+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng. Bạn hãy phát huy và sáng tạo thêm nhiều cách viết tắt riêng. 
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên mỗi khúc chỉ nên có tối đa một cụm từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2bằng đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
	- Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Kiểm tra lại SĐTD đã hoàn thành và diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo lập.
	* Phân loại SĐTD
- SĐTD theo đề cương.
- SĐTD theo chương.
- SĐTD theo đoạn văn.
	* Ưu điểm của SĐTD
- Dễ nắm được trọng tâm của vấn đề .
- Đỡ tốn thời gian ghi chép hơn so với kiểu ghi chép cũ.
- Cải thiện sức sáng tạo và trí nhớ, nắm bắt cơ hội khám phá tìm hiểu.
- Hoàn thiện bộ não, tiếp thu linh hoạt và hiệu quả.
- Giúp người học tự tin hơn vào khả năng của mình.
- Trong giảng dạy và học tập: tạo hứng thú cho HS, GV tiết kiệm thời gian soạn giáo án, HS hiểu và nhớ lâu vấn đề hơn....
2.2. Thực trạng của vấn đề 
2.2.1. Thuận lợi
	- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị .
	- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã hội, phụ huynh, HS
	- Chương trình môn Vật lý THPT có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp giảng dạy dùng SĐTD phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho HS lĩnh hội kiến thức
	- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập: phòng công nghệ thông tin, đèn chiếu, bảng phụ
	- GV được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng SĐTD trong giảng dạy.
	- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (GV và HS) có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
	- Phương pháp sử dụng SĐTD trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi HS, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích HS tư duy tích cực.
2.2.2. Khó khăn
	- Đây là phương pháp dạy học mới nên GV và HS không tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng
	- Nội dung môn Vật lý THPT, đặc biệt là Vật lý lớp 12 mới, khô, khó, trừu tượng  nên GV khó dạy, HS khó học.
	- Đòi hỏi GV phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.
- GV khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng HS.
	- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số HS, không gian lớp học, trang thiết bị, đồ dung dạy học, thời gian tiết học
	- Năng lực HS không đồng đều nên đôi khi việc vẽ SĐTD trong học tập là sự máy móc không hiệu quả.
	- Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là HS đối với bộ môn này đôi khi còn lệch lạc: chưa đầu tư, dành sự quan tâm, chưa chú ý, xem thường hoặc học cho xong.
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Là người GV trước tiên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo dục phổ thông thể hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc sử dụng các phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp, thích ứng với từng hoạt động giúp HS tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phải nhấn mạnh rằng SĐTD là một công cụ phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu quả, không phải là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy, tôi đã đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả nhưng trọng tâm là sử dụng SĐTD; với kinh nghiệm dưới đây để thực hiện cho các mục tiêu của từng phần có sự phối kết hợp của nhiều phương pháp trên cơ sở phân tích những tồn tại và đưa ra những lí luận, giải pháp, cách làm cùng thực hiện theo tôi là có hiệu quả nhất cho các phần của bài học, các kiểu bài khác nhau.
2.3.1. Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
	* Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng:
- Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác đinh thật chính xác cần kiểm tra những gì. GV cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kĩ năng mà HS đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho HS phải chính xác, rõ để HS không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề.
- GV phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra các bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong các sách học tốt, sách bài tập nhằm đối phó với GV
	* Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng:
- Tạo điều kiện thuận lợi để HS có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ nhất những hiểu biết của các em
- Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của HS mà phát hiện được tình trạng thật của kiến thức và kĩ năng của các em
- Thái độ và cách đối xử của GV với HS có ý nghĩa to lớn trong khi kiểm tra miệng. GV cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động của HS và trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của HS. Sự hiểu biết của GV về cá tính HS, sự tế nhị và nhạy cảm sư phạm trong nhiều trường hợp là những yếu tố cơ bản giúp thấy rõ thực chất trình độ kiến thức và kĩ năng của HS được kiểm tra.
- Trong quá trình HS đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không có lí do gì cần thiết GV cũng không nên ngắt lời của HS. Cùng là một sai sót nhưng GV phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi HS trả lời xong. 
- Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều HS: trong lúc gọi một số HS lên bảng thì GV ra cho các HS ở dưới lớp câu hỏi khác sau đó sẽ thu vở nháp của một số em để chấm. 
- Khi tổ chức kiểm tra thì GV phải giải quyết các khó khăn lớn sau đây: khi một hay vài HS được chỉ định lên bảng thì các HS khác trong lớp cần phải làm gì và làm như thế nào. GV gọi nhiều em cùng một lúc, đưa ra yêu cầu khác nhau phù hợp với trình độ của mỗi HS sau đó đặt các câu hỏi cho cả lớp sau khi các HS này hoàn thành xong nhiệm vụ của mình như sau: “Bạn trả lời như vậy có đúng không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời đó của bạn không?” “Có điểm nào sai hoặc thiếu không ?” Ngoài những câu cơ bản, GV có thể sử dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra miệng. Nhờ những câu hỏi bổ sung đó mà GV có thể hình dung được chất lượng kiến thức của HS. 
	* Sử dụng SĐTD:
Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong các tiết dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu, tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp HS học tập có hiệu quả hơn.
Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ năng mà GV có thể áp dụng thêm cách kiểm tra miệng như sau bằng cách sử dụng SĐTD. Sử dụng SĐTD vừa giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của HS đối với bài học cũ. Vì thời gian kiểm tra bài cũ tương đối ngắn nên các SĐTD tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
	Ví dụ 1: Kiểm tra bài cũ trước khi dạy bài “Con lắc lò xo” Vật lý 12:
Hoàn thành SĐTD sau:
- Do bắt đầu từ một vài năm nay, SĐTD mới được đưa vào giảng dạy tại một số trường nên bản đồ còn dừng lại ở mức đơn giản ở những tiết học đầu năm. Tôi thường chuẩn bị những sơ đồ trên bảng phụ, viết nhanh trên bảng, đưa trên phần mềm PowerPoint để không chỉ những em được gọi lên mà các em ở dưới lớp cùng hoàn thành sau đó GV thu bài, nhận xét và chấm điểm cho một số HS.
Ví dụ 2: Kiểm tra bài cũ trước khi học bài “Mạch có R, L, C mắc nối tiếp” Vật lý 12.
Hoàn thành SĐTD sau:
	- Tất nhiên, với kiểu kiểm tra bài cũ này để hoàn thành trọn vẹn thì tôi thường xuyên hướng dẫn HS cách lập bản đồ, cách ghi chép, cùng HS hoàn thiện những nội dung kiến thức đã học bằng SĐTD nhằm đưa ra đúng, đủ những tri thức mà HS cần nắm vững. Sau đó, HS phải trình bày được những nội dung cần nắm vững trong bài học, HS dưới lớp tham gia nhận xét bổ sung và GV là người chốt lại kiến thức.
- Tùy theo lượng thời gian phân phối cho phần kiểm tra bài cũ và nội dung kiến thức bài trước mà tôi còn cho HS hoàn thành trọn vẹn SĐTD dưới hình thức cuộc thi (học mà chơi, chơi mà học), HS nào nhanh nhất, chính xác nhất sẽ được tuyên dương và điểm cao. 
Qua đó, tôi thấy rằng ngay từ đầu HS đã rất hào hứng và nhiệt tình tham gia, làm cho phần trả bài không còn là áp lực với HS, các em không phải chỉ còn đọc thuộc lòng từng câu chữ, công thức mà có sự thấu hiểu, biết phương pháp học.
2.3.2. Sử dụng SĐTD trong việc dạy kiến thức mới
	* Những vấn đề tồn tại:
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận dụng kiến thức mới của HS, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách học của trò là yếu tố quyết định.
	- Phương pháp dạy của GV:
- Sử dụng phương pháp truyền thống chủ yếu là GV độc thoại, độc quyền đánh giá, thuyết giảng làm HS nhàm chán không tập trung, chú ý những gì GV nói. 
- Nội dung bám sát sách giáo khoa, ít liên hệ thực tiễn đời sống nên không giúp các em ghi nhớ bài một cách tốt nhất.
 - GV giữ vai trò chủ động điều khiển.
 - Không phối hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết dạy.
 - Phương pháp, dụng cụ giảng dạy không khoa học.
 - Gây áp lực đến với HS dẫn đến HS bị ức chế.
	- Phương pháp học của HS:
- Chưa có sự chú trọng đến việc học bộ môn, học thuộc lòng một cách thụ động, ít có sự liên tưởng, liên hệ, tìm hiểu những tập tính, quy luật Vật lý ngoài thực tế nên dễ quên đi những kiến thức vừa học.
 - Quan điểm các em học để đối phó, để kiểm tra, thi cử lấy điểm, thành tích.
 - Trong quá trình học, đa số các em thụ động, ít phát biểu ý kiến, chỉ mải nghe, ghi những gì mà GV ghi lên bảng. Khi về nhà thì học thuộc bài một cách máy móc không cần hiểu rõ bài để hôm sau trả bài. 
- Phần lớn các em đợi gần đến thi hoặc kiểm tra mới học.
- Các em chưa biết tổ chức cách học theo nhóm, theo tổ.
- Một số em không chịu khó làm những bài tập cơ bản để ghi nhớ các kiến thức tốt hơn và lâu hơn. 
	* Sử dụng SĐTD và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của HS:
Để nâng cao sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của HS tôi đã tác động đến nhiều mặt. Ở đây tôi tập trung tác động đến hai đối tượng quyết định của quá trình dạy - học để chuẩn bị và bổ sung phương pháp mới sử dụng SĐTD hiệu quả mà tôi đã sử dụng
	- Đối với GV:
+ Nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến sự ghi nhớ cũng như nguyên nhân dẫn đến sự quên của HS. Nắm được tâm sinh lý của HS THPT để có phương pháp giảng day cho phù hợp với các em. Tạo bầu không khí học tập thoải mái, sôi động, sinh động không gây áp lực cho các em để các em có thể ghi nhớ tốt hơn.
+ Trong giờ lên lớp, GV phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm phát huy tối đa ưu điểm cũng như khắc phục khuyết điểm của từng phương pháp từ đó giúp các em tiếp thu kiến thức mới được nhanh chóng. Cụ thể như phối hợp: Phương pháp thuyết trình, vấn đáp, trực quan
 + Ngoài những tài liệu trong sách giáo khoa, GV cần tìm hiểu cung cấp cho HS nhiều tài

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_vat.doc
  • docĐơn, báo cáo SKKN 2013-2014.doc