Sáng kiến kinh nghiệm Phó hiệu trưởng với công tác quản lí thiết bị đồ dùng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học
Vai trò của các phương tiện kỹ thuật:
Trong các loại TBGD thì các phương tiện kỹ thuật dạy học (PTKTDH) có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tạo khả năng hình thành, củng cố, hệ thống hoá, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. PTKTDH gồm các máy chiếu quang học, máy tạo hoặc khuyếch đại âm thanh, hình ảnh, máy lưu giữ và tái hiện thông tin, máy tính và công nghệ thông tin vốn chứa đựng những tiềm năng sư phạm to lớn trong việc hỗ trợ tích cực giảng dạy và học tập. Bằng những phương tiện hiện đại, người ta đã tổ chức được các hội thảo, hội nghị, các lớp học theo phương thức giáo dục từ xa, các lớp học qua vệ tinh Việc học tập tại gia đình cho người lớn tuổi cũng đã được một số nước áp dụng và sẽ mở rộng trong những năm tới.
Hiện tại đã có nhiều phương tiện kỹ thuật mới được ứng sử dụng trong dạy học, giáo dục đặc biệt là việc ứng dụng tin học. Với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học và công nghệ, PTKTDH được sử dụng trong trường học ngày càng nhiều sẽ làm thay đổi một cách căn bản về mặt phương pháp: làm cho quá trình giáo dục sinh động và hiệu quả hơn.
TBGD và PTKTDH tạo điều kiện đi sâu vào các đề tài nghiên cứu đồng thời cho phép trình bày vấn đề một cách sinh động, chứa đựng tiềm năng sư phạm to lớn hỗ trợ tích cực trong giảng dạy, học tập: Khả năng tăng tốc độ truyền tải thông tin, thực hiện phương pháp dạy học trực quan, thực nghiệm, tạo những “vùng hợp tác sinh động” giữa thày và trò, tạo khả năng hình thành, củng cố tri thức, rèn luyện kỹ năng làm việc, học tập, sự khéo léo của đôi tay,đôi chân, bồi dưỡng khả năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức, tạo ra hứng thú lôi cuốn người học, tiết kiệm thời gian trên lớp, cải tiền các hình thức lao động sư phạm, tạo khả năng tổ chức một cách khoa học và điều khiển hoạt động giáo dục.
Ngày nay chúng ta đang thực hiện đổi mới chương trình, Sách giáo khoa, phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, tăng cường công tác tự lập, thực hành của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo, học sinh là chủ thể tự mình tìm ra kiến thức thông qua sự tổ chức, điều khiển của giáo viên. Việc đổi mới theo xu hướng đó đòi hỏi phải sử dụng rộng rãi các TBGD , nếu không có TBGD thì không thể chuyển tải được nội dung của sách giáo khoa và cũng không thể đổi mới được phương pháp dạy và phương pháp học. Vậy, TBGD là một trong những tiền đề quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học.
Phßng gd& ®t huyÖn §«ng TriÒu Trêng tiÓu häc quyÕt th¾ng ===***=== Sáng kiến kinh nghiệm: "Phó hiÖu trëng víi c«ng t¸c qu¶n lÝ thiÕt bÞ ®å dïng nh»m n©ng cao chÊt lîng gi¶ng d¹y ë trêng TiÓu häc". Họ và tên: Hoàng Thị Thu Hà Chức vụ: Phó Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quyết Thắng Năm học: 2014-2015 Môc lôc NỘI DUNG Trang I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chän ®Ò tµi. 1 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. 3 3. Đối tượng nghiên cứu. 3 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 3 5. Phương pháp nghiên cứu. 4 II. PHẦN NỘI DUNG 1. C¬ së lý luËn. 4 2. Thực trạng 8 3. Giải pháp, biện pháp 13 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 13 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. 14 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp 21 3.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 22 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 23 2. Kiến nghị 23 IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 24 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chúng ta cùng nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, thÕ kỷ của khoa học và công nghệ với xu thế hội nhập của nền kinh tế quốc tế ngày càng cao, với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng quyết liệt, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thông tin... Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, coi con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Vì vậy, đòi hỏi ngành Giáo dục và §ào tạo phải đào tạo đội ngũ những người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, tiếp cận và làm chủ được công nghệ tiên tiến, có năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, có khả năng bắt kịp nhịp điệu phát triển của thời đại; Ngành Giáo dục và §ào tạo cần thực hiện giáo dục toàn diện tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, tập trung chỉ đạo đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục. Đặc biệt phương pháp giáo dục cần đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực của người học. Đổi mới phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, phát huy tư duy sáng tạo của người học được thực hiện theo nhiều cách, trong đó việc sử dụng thiết bị giáo dục (TBGD) là một trong những cách thức phát huy tính tích cực của người học trong quá trình dạy học. TBGD là một thành tố không thể thiếu được trong quá trình dạy học . Muốn đổi mới phương pháp dạy học phải đổi mới cả nội dung dạy học, TBGD, tổ chức dạy học và cách kiểm tra đánh giá. Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII được trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: “Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hoá nhà trường , lớp học, sân chơi, bãi tập, máy tinh nối mạng internet, thiết bị học tập và giảng dạy hiện đại , thư viện, ký túc xá...” và “Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay.” Thực tế nhiều năm học qua, các trường tiểu học đã có nhiều cố gắng và bước đầu có thành tích trong việc quản lý sử dụng và bảo quản TBGD , góp phần nâng cao chất lượng dạy học, song việc làm này còn nhiều hạn chế vì nhiều lý do khác nhau: TBGD còn thiếu (nhất là các thiết bị hiện đại), chất lượng chưa đồng bộ; ở nhiều nơi có TBGD nhưng giáo viên chưa chú ý sử dụng thậm chí có nơi giáo viên không biết sử dụng hoặc sử dụng mà không có hiệu quả. Tình trạng “Dạy chay” còn phổ biến. TBGD phần lớn chỉ được sử dụng trong các trường hợp đặc biệt như: thao giảng, hội giảng, có đoàn kiểm tra. Công tác quản lý TBGD của Phó hiệu trưởng các trường còn mang tính hành chính, chiếu lệ. Trong khi đó việc sử dụng TBGD của giáo viên lại chịu ảnh hưởng nhiều từ cách quản lý TBGD của Phó hiệu trưởng. Do đó vấn đề quản lý TBGD hiện nay đang là vấn đề bức xúc đặt ra, được nhiều nhà quản lý quan tâm. Từ những lý do trên và với mong muốn tìm được các biện pháp quản lý góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD ở trường tiểu học nên tôi đã chọn đề tài: "Phó hiÖu trëng víi c«ng t¸c qu¶n lÝ thiÕt bÞ ®å dïng nh»m n©ng cao chÊt lîng gi¶ng d¹y ë trêng TiÓu häc". 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: - Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc quản lý sử dụng TBGD ở trường Tiểu học. - Tìm hiểu thực trạng quản lý, sử dụng TBGD ở trường Tiểu học nơi tôi công tác. - Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD ở trường Tiểu học. 3. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý của phó hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD ở trường Tiểu học . 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2014 đến hết tháng 4 năm 2015. - Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi trường Tiểu học Quyết Thắng. 5. Phương pháp nghiên cứu: 5.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: - Nghiên cứu các văn kiên, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, chỉ thị của ngành. - Nghiên cứu cơ sở lý luận về TBGD và quản lý TBGD. 5.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra thực tế, quan sát, đàm thoại, phỏng vấn, .... 5.3 Phương pháp toán học: Thống kê, xử lý các số liệu đã thu thập được. II. PHẦN NỘI DUNG 1.Cơ sở lý luận : * TBGD là một bộ phận của nội dung và phương pháp dạy học: Lý luận dạy học đã khẳng định: Quá trình dạy học là một quá trình trong đó hoạt động dạy và hoạt động học phải là những hoạt động khăng khít giữa các đối tượng xác định và có mục đích nhất định. Để quá trình dạy học có chất lượng và hiệu quả cao thì chúng ta phải lựa chọn và sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau kết hợp với các TBGD phục vụ cho việc truyền thụ nội dung kiến thức. Mục tiêu và nội dung học tập trong nhà trường phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế - xã hội vĩ mô. Còn sách giáo khoa và TBGD một mặt phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế - xã hội, mặt khác còn chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học công nghệ đương thời. Ngày nay khi khoa học công nghệ tiến bộ vượt bậc thì sự tiến bộ đó cũng được phản ánh vào hệ thống TBGD ở nhà trường tiểu học. Đứng về mặt nội dung và phương pháp dạy học thì TBGD đóng vai trò hỗ trợ tích cực. Vì có TBGD tốt thì ta mới có thể tổ chức được quá trình dạy học khoa học, đưa người học thực sự tham gia vào quá trình này, tự khai thác và tiếp nhận tri thức dưới sự hướng dẫn của người dạy. TBGD phải đủ và phù hợp mới triển khai được các phương pháp dạy học một cách hiệu quả. Tuy nhiên, đứng trên một góc độ khác thì TBGD còn là một bộ phận không thể thiếu được của nội dung và phương pháp dạy học. TBGD hầu hết là các sản phẩm khoa học kỹ thuật có chức năng xác định và mang tính mục đích sư phạm rất cao, chúng chứa đựng một tiềm năng tri thức to lớn đồng thời đóng vai trò là đối tượng nhận thức. *Vai trò của TBGD trong việc đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục: TBGD có vai trò to lớn trong quá trình nhận thức.Theo Lê- nin ,qui luật nhận thức của con người là: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.” Để quá trình nhận thức của con người nói chung đạt hiệu quả cao thì cần phải thông qua quá trình nghe, nhìn và thực hành. Với học sinh tiểu học, (lứa tuổi từ 6 đến 11, 12 tuổi ) tư duy của các em mới chỉ là tư duy cụ thể, tư duy hình ảnh chiếm ưu thế hơn so với tư duy trừu tượng. Các hình ảnh trực tiếp, các dụng cụ, mô hình, hiện tượng được trực quan hoá luôn tạo ấn tượng mạnh mẽ đối với các em. Không ít những nội dung học tập phức tạp cần đến sự hỗ trợ tích cực của phương tiện trực quan mới giải quyết được như: chứng minh các hiện tượng khoa học tự nhiên, toán học, học sinh rất cần được trực tiếp tận mắt nhìn thấy, tai nghe thấy, tay được cầm nắm, được trực tiếp làm thí nghiệm, được lắp ráp thao tác, quan sát nhận xét bằng việc sử dụng các dụng cụ, phương tiện cụ thể. Nghĩa là học bằng tất cả các giác quan huy động mọi tiềm năng để nhận thức. Nhu cầu nhận thức của các em gắn liền với các việc làm cụ thể và hoàn cảnh, môi trường về nghe nhìn, sờ, sử dụng đồ dùng trực quan trước khi có thể hình thành logic, tư duy trừu tượng đúng đắn. Lúc này, sự hình thành các biểu tượng quan trọng hơn sự khám phá bản chất các mối quan hệ bên trong của sự vật hiện tượng. Mà quá trình dạy học là quá trình nhận thức ở mức độ cao, vì vậy TBGD không thể thiếu trong quá trình dạy học. Nâng dần tính trực quan của bài học và tỷ lệ bài học có thực nghiệm theo quy định của chương trình, tăng cường việc thực hành của học sinh là nhằm tạo ra một nền tảng thực nghiệm của tri thức, làm ngắn lại con đường đạt được sự hiểu biết. Bằng thực nghiệm và trực quan, thực hành tạo ra hoạt động toàn diện ( vận động và tư duy) và tích cực của người học, giúp học tự tìm ra các vấn đề cho chính mình một cách chủ động theo triết lý “Tôi làm, tôi hiểu” và phương pháp “Tập phát minh”. Để học tập khoa học theo phương pháp được khám phá, chứng minh kiến thức sách giáo khoa và trong thực tế, thể hiện tường minh phương pháp nghiên cứu và kỹ năng thì các phương tiện, dụng cụ phòng thí nghiệm có vai trò và tiềm năng to lớn. Để trình bày với sự trực quan cao trong việc quan sát, trình diễn vận hành của cơ chế, cấu trúc, vân động, mô hình, mô phỏng thì các phương tiện Nghe - Nhìn có ưu thế rõ rệt. TBGD cho phép khai thác sâu sắc nội dung sự vật, hiện tượng khoa học trong tài liệu học tập (thực nghiệm khoa học phải được “dựng’ từ trong sách giáo khoa lên mặt bàn bằng các vật liệu cụ thể của người học). Như vậy TBGD cho phép: - Thực hiện được “Nguyên tắc trực quan” trong dạy học (“trực quan” được hiểu theo nghĩa rộng : liên quan đến mọi giác quan của con người ). - Góp phần đảm bảo chất lượng kiến thức theo những đặc trưng cơ bản: Tính chính xác, khoa học; Tính tổng quát; Tính hệ thống; Tính chuyển hoá; Tính thực tiễn, vận dụng được; Tính bền vững. - Dạy phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học, làm việc - bộ phận không tách rời của kiến thức. - Rèn kỹ năng nhiều mặt cho người học. * Vai trò của các phương tiện kỹ thuật: Trong các loại TBGD thì các phương tiện kỹ thuật dạy học (PTKTDH) có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tạo khả năng hình thành, củng cố, hệ thống hoá, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. PTKTDH gồm các máy chiếu quang học, máy tạo hoặc khuyếch đại âm thanh, hình ảnh, máy lưu giữ và tái hiện thông tin, máy tính và công nghệ thông tin vốn chứa đựng những tiềm năng sư phạm to lớn trong việc hỗ trợ tích cực giảng dạy và học tập. Bằng những phương tiện hiện đại, người ta đã tổ chức được các hội thảo, hội nghị, các lớp học theo phương thức giáo dục từ xa, các lớp học qua vệ tinh Việc học tập tại gia đình cho người lớn tuổi cũng đã được một số nước áp dụng và sẽ mở rộng trong những năm tới. Hiện tại đã có nhiều phương tiện kỹ thuật mới được ứng sử dụng trong dạy học, giáo dục đặc biệt là việc ứng dụng tin học. Với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học và công nghệ, PTKTDH được sử dụng trong trường học ngày càng nhiều sẽ làm thay đổi một cách căn bản về mặt phương pháp: làm cho quá trình giáo dục sinh động và hiệu quả hơn. TBGD và PTKTDH tạo điều kiện đi sâu vào các đề tài nghiên cứu đồng thời cho phép trình bày vấn đề một cách sinh động, chứa đựng tiềm năng sư phạm to lớn hỗ trợ tích cực trong giảng dạy, học tập: Khả năng tăng tốc độ truyền tải thông tin, thực hiện phương pháp dạy học trực quan, thực nghiệm, tạo những “vùng hợp tác sinh động” giữa thày và trò, tạo khả năng hình thành, củng cố tri thức, rèn luyện kỹ năng làm việc, học tập, sự khéo léo của đôi tay,đôi chân, bồi dưỡng khả năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức, tạo ra hứng thú lôi cuốn người học, tiết kiệm thời gian trên lớp, cải tiền các hình thức lao động sư phạm, tạo khả năng tổ chức một cách khoa học và điều khiển hoạt động giáo dục. Ngày nay chúng ta đang thực hiện đổi mới chương trình, Sách giáo khoa, phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, tăng cường công tác tự lập, thực hành của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo, học sinh là chủ thể tự mình tìm ra kiến thức thông qua sự tổ chức, điều khiển của giáo viên. Việc đổi mới theo xu hướng đó đòi hỏi phải sử dụng rộng rãi các TBGD , nếu không có TBGD thì không thể chuyển tải được nội dung của sách giáo khoa và cũng không thể đổi mới được phương pháp dạy và phương pháp học. Vậy, TBGD là một trong những tiền đề quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học. Tóm lại: TBGD có vai trò quan trọng đối với quá trình dạy học. Sử dụng TBGD đảm bảo thông tin về các hiện tượng , đối tượng nghiên cứu đầy đủ và chính xác hơn, làm cho chất lượng dạy và học cao hơn, giúp thoả mãn trong phạm vi tối đa và phát triển hứng thú nhận thức của học sinh. Sử dụng TBGD sẽ nâng cao tính trực quan của dạy học, mở rộng khả năng tiếp cận với các sự vật và hiện tượng. Sử dụng TBGD sẽ gia tăng cường độ lao động học tập của học sinh và do đó cho phép nâng cao nhịp độ nghiên cứu tài liệu giáo khoa, cho phép học sinh có điều kiện tự lực chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Thông qua hành động trên TBGD rèn luyện cho các em tính cẩn thận tỉ mỉ chính xác và phát triển tư duy khoa học, giáo dục ý thức giữ gìn đồ vật và bảo vệ môi trườnggóp phần hình thành nhân cách cho học sinh. 2.Thực trạng về TBGD và công tác quản lý, sử dụng TBGD ở trường Tiểu học QuyÕt Th¾ng. * Thực trạng về trang bị TBGD : Việc trang bị TBGD ở trường Tiểu học n¬i t«i c«ng t¸c chủ yếu là do cấp phát từ trên xuống theo chỉ tiêu, kế hoạch định sẵn. Nhà trường có mua sắm các phương tiện dạy học hiện đại và huy động giáo viên tự làm. Từ năm học 2002-2003, thực hiện việc đổi mới chương trình sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học, nhà trường được cấp các danh mục TBGD từ lớp 1 đến lớp 5 theo quy định chung. Những TBGD được cấp phát chủ yếu là những TBGD thô sơ, đơn giản như: tranh ảnh, sách giáo khoa, một số bộ mẫu chữ viết, bảng nỉ, bộ dụng cụ học nhạc, bộ dụng cụ đo đạc, Tuy nhiên những TBGD được cấp số lượng còn quá ít, không đủ cho các lớp : + Môn Toán lớp 1: các mô hình con vật, hoa bằng bìa rời có gắn nam châm phía sau để khi dạy gắn vào các mô hình của bài dạy còn thiếu rất nhiều. + Toán lớp 4: Đồ dùng dạy phần kiến thức về phần biểu đồ không có. + Phân môn Tâp đọc, Kể chuyện, Tập làm văn của môn Tiếng Việt, môn Đạo đức lớp 1,2,3,4,5 còn thiếu rất nhiều tranh ảnh minh hoạ phục vụ các bài dạy. + Môn TN - XH vµ Khoa häc- LÞch sö+ §Þa lÝ ở các lớp 1,2,3,4,5 một số chương, phần chưa có đủ đồ dùng. Nhà trường cũng có kế hoạch mua sắm thêm một số trang thiết bị hiện đại phục vụ cho các hoạt động giáo dục trong nhà trường như tăng âm, loa máy, đầu video, máy chiếu máy tính, máy ảnh, máy scan.... Đặc biệt trong năm học này nhà trường đã xây dựng được 4 phòng học thông minhnhưng những thiết bị này phục vụ cho các hoạt động dạy và học các ngoại khoá, các buổi lễ, hội nghị có tác dụng thiết thực đối với từng tiết dạy. Ngoài ra hàng năm nhà trường cũng đã tổ chức thi làm đồ dùng dạy học , thiết kế bài giảng điện tử áp dụng vào giảng dạy đạt hiệu quả cao nhưng quá trình bảo quản các thiết bị hiện đại còn hạn chế nên không thể sử dụng được lâu dài. Tóm lại, việc trang bị TBGD của nhà trường đầy đủ các TBGD hiện đại nên giáo viên có cơ hội được tiếp xúc với các thiết bị này nhưng bên cạnh còn một số giáo viên cao tuổi sử dụng TBGD hiện đại còn hạn chế do đó chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho việc dạy học trong giai đoạn hiện nay. * Thực trạng về việc sử dụng TBGD: Hiện nay nhà trường chủ yếu sử dụng các TBGD được cấp phát. Qua tìm hiểu thực trạng nhà trường thấy rằng: TBGD được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả nhất là ở các môn Toán và Tiếng Việt lớp 1. Do học sinh lớp 1 còn nhỏ đòi hỏi giải thích kiến thức bằng trực quan là dễ hiểu nhất nên những bộ chữ học vần, bộ học toán, những tranh ảnh minh hoạ được sử dụng rất hiệu quả. Ngược lại, TBGD các môn TN– XH, môn thể dục, các môn nghệ thuật ít được sử dụng, thậm chí có những giáo viên trong suốt năm học không sử dụng các TBGD này lần nào. Ở các lớp 2,3,4 TBGD được sử dụng chủ yếu nhất là các bảng gài, bảng nỉ, bộ chữ dạy tập viết, bộ biểu diễn toán. Các bộ tranh đạo đức, TN – XH, mỹ thuật, thủ công, các bộ tranh dạy tập làm văn, tập đọc, kể chuyện, rất ít được sử dụng. Các TBGD môn Hát nhạc, Mỹ thuật do giáo viên dạy các môn này là giáo viên chuyên biệt, các TBGD này không để ở tủ mỗi lớp học nên giáo viên rất ngại sử dụng. Giáo viên hát nhạc lên lớp chủ yếu sử dụng đàn ócgan nhà trường có sẵn còn các bộ dụng cụ học nhạc dân tộc, bộ kèn, thanh phách, mõ song loan, trống hầu như không sử dụng đến. Đặc biệt là các đĩa CD âm nhạc lớp 3, 4 , băng đĩa dạy các môn học lớp 1 giáo viên sử dụng nhưng chưa thường xuyên. Như vậy, tình trạng dạy chay, học chay vẫn còn phổ biến, giáo viên vẫn quen với nếp cũ, lên lớp chủ yếu là thuyết trình, giảng giải, thày giảng – trò nghe. Giáo viên còn ngại sử dụng TBGD , còn cho rằng sử dụng TBGD mất thời gian, tốn công chuẩn bị, dành thời gian sử dụng TBGD để giảng giải và cho học sinh luyện tập vẫn hơn. TBGD chỉ được sử dụng có hiệu quả trong các giờ hội giảng, hội thi, trong các đợt thanh tra, kiểm tra của cấp trên và nhà trường. Cũng có giáo viên sử dụng TBGD dạy học nhưng hiệu quả lại chưa cao: có giáo viên chỉ đưa ra coi như giới thiệu TBGD chứ chưa khai thác được nội dung kiến thức, chưa giúp học sinh nhận biết kiến thức thông qua quan sát, thực hành trên TBGD; Có giáo viên chưa biết cách sử dụng TBGD hợp lý, đặt TBGD trên bàn hoặc treo trên bảng từ đầu đến cuối tiết học làm học sinh phân tán tư tưởng, không chú ý vào nội dung bài học. Sử dụng TBGD như thế không những không phát huy được tác dụng của TBGD, không phát huy được khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, tính tự giác, tích cực hoạt động của học sinh mà còn làm giảm hiệu quả sư phạm của TBGD, làm giảm chất lượng giáo dục của giờ học. * Thực trạng việc bảo quản TBGD: Ở từng lớp đã được trang bị tủ riêng nhưng tủ này lại quá nhỏ chỉ có thể đựng một số sách vở, đồ dùng học tập của học sinh và một số TBGD phục vụ các môn Toán, Tiếng Việt mà giáo viên thường sử dụng, còn rất nhiều TBGD được để trong phòng thiết bị, thư viện. Trong phòng này tuy đã có một số tủ kính để sách vở và TBGD nhưng việc sắp đặt còn lộn xộn, chưa khoa học, thậm chí còn lẫn lộn chồng chéo. Các bộ tranh ảnh không có đủ chỗ để treo, có những bộ cuộn tròn để trong tủ, có bộ thì treo chồng lên nhau trên tường. Vì vậy, khi muốn lấy một TBGD nào đó thì rất khó khăn, mất thời gian. Các TBGD do không được bảo quản đúng cách, khí hậu Việt Nam nóng, ẩm, mưa nhiều nên rất dễ bị ẩm mốc, hỏng hóc, có khi còn bị mối mọt, một số thiết bị bằng gỗ bị cong vênh không còn giá trị sử dụng. Giáo viên phụ trách thiết bị, thư viện häc ®óng chuyªn ngµnh xong võa míi ra trêng nªn cßn h¹n chÕ vÒ kinh nghiÖm. Nhà trường chưa có điều kiện để trang bị các phương tiện chống ẩm mốc, chống mối mọt.Cuối mỗi năm học nhà trường đều có tổ chức kiểm kê nhưng cũng chỉ làm dưới hình thức đếm, rà soát lại xem có thiết bị nào thiếu, thiết bị nào hỏng mà không có kế hoạch bổ sung, sửa chữa, cũng không quy vào tinh thần trách nhiệm của ai. Máy vi tính và các thiết bị điện tử khác không có chế độ bảo quản riêng, không theo đúng quy trình kỹ thuật của nhà sản xuất, chưa có chế độ bảo dưỡng định kỳ nên thường xuyên hỏng hóc, phải sửa chữa. Nhà trường đã có sổ sách theo dõi mượn, trả TBGD của giáo viên nhưng nhân viên phụ trách thiết bị thư viện chưa quan tâm chú ý. Có giáo viên mượn TBGD mà không ghi vào sổ, có giáo viên mượn nhưng lại không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích, có TBGD giáo viên mượn không trả lại gây thất thoát, lãng phí. Nhiều khi giáo viên trả TBGD cũng không được kiểm tra lại mà cứ thế treo lên tường hoặc lại cuộn tròn cất vào tủ, do đó không phát hiện được hư hỏng nên không nêu cao được tinh thần trách nhiệm của giáo viên. Có thể nói, việc bảo quản TBGD ở trường Tiểu học n¬i t«i c«ng t¸c chưa được chú trọng đúng mức, tình trạng hư hỏng, thất thoát, lãng phí dẫn đến kém chất lượng và hiệu quả sử dụng còn xảy ra nhiều. Đây chính là vấn đề đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, nhân viên nhà trường cần quan tâm chú ý. * Thực trạng về công tác quản lý TBGD: Các đồng chí trong ban giám hiệu nhà trường cũng đã chú ý nhắc nhở, động viên giáo viên sử
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_pho_hieu_truong_voi_cong_tac_quan_li_t.doc