Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
Thuận lợi.
a. Về phía giáo viên.
Giáo viên Tiếng Anh còn rất trẻ, có điều kiện thuận lợi để dạy học.
Giáo viên đã nhận thức đúng đắn và tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến việc trang bị cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, thường xuyên tổ chức tập huấn về đổi mới trong dạy học môn Tiếng Anh.
b. Về phía học sinh.
Nhiều em năng động, mạnh dạn muốn được học hỏi, được mở rộng, đào sâu kiến thức trong bài học.
Hứng thú và tích cực khi tham gia các bài học. Các em sẵn sàng bộc lộ bản năng tự nhiên, tinh thần hăng hái của mình trong quá trình học tập.
2.1.2. Khó khăn
a. Học sinh:
Trường Tiểu học mà tôi đang công tác hiện nay, chương trình Tiếng Anh đã được giảng dạy từ nhiều năm. Bản thân tôi đều được dạy các khối 1,2, 3, 4, 5, vì vậy tôi thấy rõ những ưu điểm và hạn chế của học sinh mình. Đối với học sinh lớp 4 và 5 các em rất tự tin và tích cực phát biểu trong giờ học. Nhưng học sinh khối 1,2,3 thì ngược lại, các em ít tham gia xây dựng bài mặc dù câu hỏi giáo viên đưa ra cũng dễ hiểu. Vẫn còn một bộ phận học sinh thiếu tự tin và rụt rè trong giao tiếp. Mặt khác do các em mới bắt đầu được học Tiếng Anh nên còn nhiều bỡ ngỡ, dù rằng các em cũng rất thích học.
Học ngoại ngữ muốn giỏi bản thân người học phải mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ mình học để rèn luyện, nếu có nói sai khi được sửa chúng ta sẽ nhớ lâu hơn và lần sau nếu gặp lại câu nói đó sẽ không sai nữa. Trong các năm giảng dạy tôi thấy mặt hạn chế của học sinh trong hoạt động nói là tính thụ động chỉ bám theo những gì giáo viên hướng dẫn, gợi ý để thực hiện học sinh không mở rộng hay thắc mắc yêu cầu giải đáp. Có thể nói kỹ năng nói của các em còn yếu.
Mỗi tuần chỉ được học bốn tiết không đủ thời gian để học sinh phát triển tốt kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh.
Vì là môn học tự chọn nên một số học sinh chưa chú trọng nhiều đến môn Tiếng Anh. Vốn từ vựng của các em không có nhiều do các em không thuộc từ vựng hoặc các em không chịu học vì cứ nghĩ đây là môn phụ nên các em chưa dành thời gian cho việc tự học môn này.
Hơn nữa đối với học sinh nông thôn mọi điều kiện tiếp xúc và gần gũi thực tế xung quanh còn hạn chế. Ở lứa tuổi này, còn một số học sinh phát âm Tiếng Việt chưa được chuẩn. Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị bài một cách sơ sài. Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc - nói tiếng anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học.
b. Giáo viên:
Bản thân tôi và nhiều đồng nghiệp dạy Tiếng Anh không có năng khiếu âm nhạc nên vẫn có những bài hát không biết hát nên khi hướng dẫn những bài hát Tiếng Anh gặp phải khó khăn và hát chưa đúng giai điệu, tiết tấu nhạc dẫn đến chưa tạo được hứng thú cho học sinh khi dạy các bài hát Tiếng Anh trong chương trình.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG ANH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC” Lệ Thủy, tháng 02 năm 2019 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG ANH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC” Họ và tên: Đoàn Thị Tuyết Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phú Thủy Lệ Thủy, tháng 02 năm 2019 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn sáng kiến Tiếng Anh là một ngôn ngữ Quốc tế có tính thông dụng và là một công cụ giao tiếp thiết yếu trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Thời đại toàn cầu hoá, nhu cầu giao tiếp giữa mọi người thuộc mọi quốc gia là bắt buộc. Do vậy, việc học tiếng Anh đang trở thành một nhu cầu cần thiết và cấp bách giúp chúng ta tiếp cận, mở rộng hiểu biết với nguồn tri thức tiên tiến trên thế giới ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Khoa học – kĩ thuật, kinh tế – xã hội, y học Tiếng Anh mặc nhiên trở thành Universal Language. Trên cơ sở đó, trong lĩnh vực giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có định hướng chiến lược cho việc tổ chức dạy học môn Tiếng Anh trong trường tiểu học nhằm tạo điều kiện, môi trường cho học sinh được tiếp xúc với môn học này, tạo tiền đề cho việc học lên các cấp học trên được vững chắc. Vì vậy, hiện nay hầu hết trẻ em trên cả nước từ thành thị đến nông thôn, phần lớn đều được làm quen với bộ môn tiếng Anh từ rất sớm thông qua việc giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Trong xu thế hội nhập của nước ta và chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Tiếng Anh cùng với các môn học khác trong trường tiểu học có những vai trò góp phần quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới. Trước đây Việt Nam chưa hoà nhập với các nước trên thế giới thì việc đầu tư cho học sinh trau dồi môn Tiếng Anh còn nhiều hạn chế. Nhưng ngày nay với đà phát triển chung của nhân loại thì việc học ngoại ngữ là điều cần thiết. Vì thế ngành Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành đổi mới một cách toàn diện về chương trình, phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Hiện nay tất cả các trường Tiểu học trong huyện đã dạy chương trình Tiếng Anh bắt đầu từ lớp 1. Trong đó tất cả các trường đã dạy theo chương trình 4 tiết/tuần đối với khối 3, 4, 5 và 2 tiết/tuần đối với khối 1, 2. Yêu cầu đầu ra phải đạt mức độ một theo chuẩn năng lực ngoại ngữ Quốc Tế. Trong những năm gần đây, yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học và các cấp học, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Chính vì vậy, môn Tiếng Anh nói chung và môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học nói riêng cũng cần phải có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Do đó, người giáo viên phải gây hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập nhằm phát triển kĩ năng nghe nói Tiếng Anh, để học sinh có thể giao tiếp Tiếng Anh một cách tự nhiên và lưu loát. Qua các năm giảng dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học tôi nhận thấy kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh còn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng nói cho học sinh Tiểu học. Đây là lý do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh tiểu học” 1.2. Điểm mới của sáng kiến Quan điểm cơ bản nhất về phương pháp mới là làm sao phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, tạo điều kiện tối ưu cho học sinh rèn luyện, phát triển và nâng cao kỹ năng sử dụng ngôn ngữ vào mục đích giao tiếp chứ không phải việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ thuần tuý. Để phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh tiểu học đòi hỏi giáo viên cần sáng tạo, phải luôn tạo tình huống có vấn đề, tạo không khí vui vẻ ngay từ đầu tiết học. Mạnh dạn thay đổi hình thức tổ chức lớp học phong phú, đa dạng, sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với từng khối, lớp, đối tượng học sinh. Thường xuyên sử dụng trò chơi để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Sử dụng ngôn ngữ chủ yếu bằng Tiếng Anh trong lớp học để học sinh giao tiếp một cách tự nhiên như ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Đó là điểm mới của sáng kiến này. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng. Trong quá trình giảng dạy, thông qua khảo sát, tôi thấy đa phần học sinh chưa có hứng thú học môn tiếng Anh. Vì đặc thù của môn học ngoài việc học ở trường ra về nhà các em phải tự học mà không có sự giúp đỡ của bố mẹ. Nhiều em không quan tâm đến việc học tiếng Anh, kết quả học tập chưa cao. Vả lại, đây là môn học khó, các em chưa thật sự say mê. Các em cảm thấy rất nhàm chán khi học môn này. Trước khi đưa các giải pháp vào chương trình dạy thực nghiệm tôi tiến hành khảo sát chất lượng ban đầu về kĩ năng nói của học sinh làm căn cứ đối chứng. Kết quả khảo sát đầu năm học 2018-2019 của khối 5 tôi giảng dạy: Khối Tổng số học sinh Kĩ năng Nói (25 điểm ) Điểm 20-25 Điểm 17.5 - < 20 Điểm 12.5- < 17.5 Điểm < 12.5 SL % SL % SL % SL % 5 103 17 16.5 22 21.4 24 23.3 40 38.8 Qua khảo sát tôi thấy rằng học sinh đạt điểm 12.5 - 25 chiếm tỷ lệ chưa cao. Nguyên nhân cản trở khả năng giao tiếp tiếng Anh của các em chính là sự thiếu tự tin. Do khả năng phát âm chưa chuẩn xác và một số em nắm kiến thức còn mơ hồ, tâm lý khi nói tiếng Anh thường e ngại và sợ mắc lỗi, khả năng phản xạ với tiếng Anh còn thấp dẫn đến các em thường rơi vào trạng thái thiếu tự tin và ngập ngừng khi phải nói tiếng Anh. Dần dần theo thời gian, việc thiếu tự tin và tính chủ động trong giao tiếp sẽ trở thành thói quen xấu của các em và khiến các em có một niềm tin tiêu cực rằng mình không thể nào giao tiếp tốt bằng tiếng Anh. 2.1.1. Thuận lợi. a. Về phía giáo viên. Giáo viên Tiếng Anh còn rất trẻ, có điều kiện thuận lợi để dạy học. Giáo viên đã nhận thức đúng đắn và tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến việc trang bị cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, thường xuyên tổ chức tập huấn về đổi mới trong dạy học môn Tiếng Anh. b. Về phía học sinh. Nhiều em năng động, mạnh dạn muốn được học hỏi, được mở rộng, đào sâu kiến thức trong bài học. Hứng thú và tích cực khi tham gia các bài học. Các em sẵn sàng bộc lộ bản năng tự nhiên, tinh thần hăng hái của mình trong quá trình học tập. 2.1.2. Khó khăn a. Học sinh: Trường Tiểu học mà tôi đang công tác hiện nay, chương trình Tiếng Anh đã được giảng dạy từ nhiều năm. Bản thân tôi đều được dạy các khối 1,2, 3, 4, 5, vì vậy tôi thấy rõ những ưu điểm và hạn chế của học sinh mình. Đối với học sinh lớp 4 và 5 các em rất tự tin và tích cực phát biểu trong giờ học. Nhưng học sinh khối 1,2,3 thì ngược lại, các em ít tham gia xây dựng bài mặc dù câu hỏi giáo viên đưa ra cũng dễ hiểu. Vẫn còn một bộ phận học sinh thiếu tự tin và rụt rè trong giao tiếp. Mặt khác do các em mới bắt đầu được học Tiếng Anh nên còn nhiều bỡ ngỡ, dù rằng các em cũng rất thích học. Học ngoại ngữ muốn giỏi bản thân người học phải mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ mình học để rèn luyện, nếu có nói sai khi được sửa chúng ta sẽ nhớ lâu hơn và lần sau nếu gặp lại câu nói đó sẽ không sai nữa. Trong các năm giảng dạy tôi thấy mặt hạn chế của học sinh trong hoạt động nói là tính thụ động chỉ bám theo những gì giáo viên hướng dẫn, gợi ý để thực hiện học sinh không mở rộng hay thắc mắc yêu cầu giải đáp. Có thể nói kỹ năng nói của các em còn yếu. Mỗi tuần chỉ được học bốn tiết không đủ thời gian để học sinh phát triển tốt kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh. Vì là môn học tự chọn nên một số học sinh chưa chú trọng nhiều đến môn Tiếng Anh. Vốn từ vựng của các em không có nhiều do các em không thuộc từ vựng hoặc các em không chịu học vì cứ nghĩ đây là môn phụ nên các em chưa dành thời gian cho việc tự học môn này. Hơn nữa đối với học sinh nông thôn mọi điều kiện tiếp xúc và gần gũi thực tế xung quanh còn hạn chế. Ở lứa tuổi này, còn một số học sinh phát âm Tiếng Việt chưa được chuẩn. Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị bài một cách sơ sài. Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc - nói tiếng anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học. b. Giáo viên: Bản thân tôi và nhiều đồng nghiệp dạy Tiếng Anh không có năng khiếu âm nhạc nên vẫn có những bài hát không biết hát nên khi hướng dẫn những bài hát Tiếng Anh gặp phải khó khăn và hát chưa đúng giai điệu, tiết tấu nhạc dẫn đến chưa tạo được hứng thú cho học sinh khi dạy các bài hát Tiếng Anh trong chương trình. c. Về phía phụ huynh học sinh: Phụ huynh học sinh một số em chưa có nhận thức tốt môn học này do quan niệm “Tiếng Việt nói chưa xong mà học Tiếng Anh”. Vì vậy thiếu sự quan tâm sâu sát đến con em trong việc học môn Tiếng Anh. d. Về trang-thiết bị dạy học: Hiện nay một số bộ sách biên soạn cho học sinh cấp Tiểu học nội dung khá dài giáo viên hướng dẫn học sinh nắm bắt kiến thức trong một tiết chỉ 35-40 phút không đủ. Do đó thời gian phát triển kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều. Học sinh rất hứng thú khi được học bài giảng điện tử nhưng số lượng phòng học nhiều nên nhà trường chưa có đủ điều kiện để bố trí cho bộ môn Tiếng anh mỗi phòng một TV Smart, nên tiết dạy bằng giáo án điện tử chưa được tận dụng triệt để. Một số học sinh do hoàn cảnh khó khăn, các em phải dành thời gian ở nhà để phụ giúp gia đình, và các em cũng chưa được trang bị đầy đủ sách giáo khoa và dụng cụ học tập vì thế các em không có điều kiện để tự học ở nhà. 2.2. Một số biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh tiểu học Trong những năm qua, bước đầu chúng ta đã áp dụng việc đổi mới phương pháp giảng dạy Tiếng Anh nhằm giúp học sinh nắm được cách học một cách chủ động, tích cực và đáp ứng được yêu cầu là học sinh phải sử dụng được ngữ liệu đã học vào các hoạt động giao tiếp một cách có hiệu quả hơn. Do vậy, trong chương trình giảng dạy tiếng Anh ở trường Tiểu học hiện nay, cùng với giáo trình “ Tiếng Anh 1, 2, 3,4,5” đã nhấn mạnh vào khả năng giao tiếp theo một hệ thống ngữ pháp có kiểm soát cẩn thận. Học sinh được lấy làm trung tâm và luôn được khích lệ giao tiếp với nhau. Qua nhiều năm dạy tiếng Anh cùng với sự trải nghiệm bản thân tôi đã vận dụng một số phương pháp trong việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh nhằm tạo cho các em hứng thú và tự tin trong giao tiếp. Tăng cường thời lượng thực hành như: nói, hoạt động giao tiếp của học sinh trong giờ học là điều cần thiết. Do đó tôi đưa ra một số giải pháp sau: 2.2.1. Về giáo viên: a. Thường xuyên sử dụng Tiếng Anh trong tiết dạy: Đối với đối tượng học sinh cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông việc sử dụng Tiếng Anh trong giờ ngoại ngữ là điều hiển nhiên, vì khi đó vốn từ các em khá đủ để hiểu những điều giáo viên truyền đạt. Nhưng đối với học sinh Tiểu học vốn từ các em chưa nhiều để hiểu tốt yêu cầu của giáo viên, chính điều này làm cho đa phần giáo viên dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học “lười” nói Tiếng Anh trong giờ dạy. Tôi nghĩ đây là một trong số lý do làm cho học sinh chưa tự tin khi đàm thoại bằng Tiếng Anh. Chúng ta là đầu tàu gương mẫu, lứa tuổi thiếu nhi còn ngây thơ và dễ bắt chước, thầy cô phải là tấm gương để học sinh noi theo, nếu giáo viên thường xuyên nói Tiếng Anh thì những câu nói đó dần dần thấm sâu vào tâm trí các em, khi cần nói tự nhiên các em sẽ phát ra được. Vào đầu mỗi tiết dạy, tôi thường đối thoại với học sinh bằng những câu Tiếng Anh đơn giản để làm “nóng” không khí lớp học, tạo sự hưng phấn trong học tập, ứng xử nhanh nhẹn trong giao tiếp. Ví dụ: Ss: Good morning, teacher ! T: Good morning, class ! How are you today ? Ss: I’m fine, thank you. How are you ? T : I’m fine. Thanks. Theo cách dạy truyền thống vào đầu tiết dạy giáo viên thường gọi học sinh kiểm tra bài cũ, nhưng đối với tôi thì không làm như thế. Trước khi trở thành giáo viên tôi cũng là một học sinh như các bạn nhỏ bây giờ nên tôi hiểu rõ tâm trạng các em lúc này. Đối với tôi, việc sử dụng các hoạt động trò chơi trước khi bắt đầu tiết học không những giúp không khí lớp học không nặng nề mà còn làm cho tiết học trở nên sinh động, tạo cho học sinh tâm lý thoải mái. Khi đưa ra yêu cầu trò chơi giáo viên nên nói bằng Tiếng Anh, không cần câu nói dài chỉ sử dụng một số cụm từ, câu đơn giản nhưng thường xuyên lặp đi lặp lại, như thế học sinh sẽ hiểu. Ví dụ: T: Would you like to play game ? Ss: Yes. T: Play game “ Guessing game” – Ok ! Ss: Ok! T: Four boys and four girls, please ! Now, any volunteers ? Raise your hand ! Sau khi chọn được hai đội tôi sử dụng một số câu ra lệnh đơn giản khác. Ví dụ: T: Are you ready ? Ss: Yes . T: Now, let’s begin “ one, two, three”,... Để học sinh dễ ghi nhớ các chữ cái trong bảng chữ cái Tiếng Anh và các từ vựng, tôi sử dụng những câu đố, trò chơi trí tuệ nhằm kích thích các em tư duy, suy nghĩ, khi tìm được đáp án các em sẽ ghi nhớ sâu hơn. Sau khi học sinh đưa ra đáp án, tôi sẽ cho các em biết đáp án và giải thích thêm để các em hiểu rõ hơn. Những câu đố vui tiếng anh mang lại nhiều phút giây thư giãn thoải mái cho các em học sinh, đồng thời giúp bé phát triển khả năng ngôn ngữ một cách hiệu quả nhất. Đa số những câu đố này thuộc thể loại đố mẹo và chơi chữ nên các em cần suy nghĩ theo hướng sáng tạo một chút là có thể nhanh chóng tìm ra đáp án. Ví dụ: Tôi đưa ra những câu đố vui hỏi về động vật. Những câu đố vui về động vật bằng tiếng Anh vừa giúp các em học tiếng Anh, vừa giúp các em hiểu biết hơn về thế giới động vật xung quanh mình và các em có được những giây phút vui vẻ bên nhau, trau dồi từ vựng tiếng Anh về loài động vật cũng như tư duy nhanh nhạy hơn. Hơn nữa, với câu đố này, các em sẽ thích thú hơn với việc học. 1. I've four legs. I live in Africa. I'm big and gray. I live in the river. => Đáp án câu đố vui: I'm A Hippo 2. I hiss. I can be poisonous. I'm long. I've a forked tongue. => Đáp án câu đố vui: I'm A Snake 3. I can swim and dive. I've two legs. I've wings. I quack. => Đáp án câu đố vui:I'm A Duck 4.If I sit down I'm high; if I stand up I'm low. => Đáp án câu đố vui:I'm A Dog 5. I eat insects. I live in the pond. I can hop. I'm green. => Đáp án câu đố vui: I'm A Frog 6. I eat vegetables. I can run fast. I can be a pet. I've long ears. => Đáp án câu đố vui: I'm A Rabbit 7. I've four legs. You can ride me. I've tusks. I've a long nose. => Đáp án câu đố vui: I'm An Elephant 8.I eat other animals. I've a big mouth. I'm green. I live in the water. => Đáp án câu đố vui: I'm A Crocodile 9.I'm small. I can be scary. I've eight legs. I spin the web. => Đáp án câu đố vui: I'm A Spider 10. I've four legs. I'm a pet. I hate cats. I bark. => Đáp án câu đố vui: I'm A Dog ... Tôi soạn các câu đố dựa theo trò chơi “đuổi hình bắt chữ” nhằm giúp các em ghi nhớ từ vựng. Trò chơi như sau: Let’s play English Word Pursuit game. * Đáp án Giáo viên phải tự rèn luyện, học hỏi trao dồi phương pháp dạy với các bạn đồng nghiệp, trên internet, báo đài, phải tự tin và thường xuyên nói Tiếng Anh trong lớp để học sinh noi theo. Qua thời gian thăm lớp một số giáo viên trong huyện tôi thấy đa số thầy, cô còn nói Tiếng Việt nhiều trong giờ học Tiếng Anh. Chính điều này góp phần làm hạn chế khả năng sử dụng Tiếng Anh của học sinh. Tôi nghĩ giáo viên nên là người đầu tiên phải khắc phục mặt hạn chế trên rồi mới đến học sinh. b. Thái độ của giáo viên khi đứng lớp: Phần lớn giáo viên khi đứng lớp thường có thái độ nghiêm khắc trong giảng dạy để học sinh tập trung hơn nhưng theo tôi không nên tạo căng thẳng trong giờ học Tiếng Anh. Bởi vì, những tiết học Toán, Tiếng Việt, học sinh đã tập trung nhiều cho nên đến tiết Tiếng Anh giáo viên cần tạo không khí lớp học sinh động và vui vẻ. Đây là cách cuốn hút học sinh vào tiết dạy của mình để các em thấy rằng Tiếng Anh không khó học và khô khan như mình nghĩ. Giáo viên cần vui vẻ hoà nhập vào thế giới trẻ thơ của học sinh, chính thái độ của người hướng dẫn sẽ giúp các em tự tin và mạnh dạn tập nói Tiếng Anh trong lớp học mà không sợ thầy cô trách phạt hay bạn bè chế giễu khi bị sai. Khi bước vào lớp điều đầu tiên giáo viên nên làm là mỉm cười với cả lớp tạo sự gần gũi, thân thiện với học trò của mình để bắt đầu một tiết học mới. Giáo viên cần rèn luyện cho mình có tính “khôi hài” và sử dụng nó trong tiết dạy để cuốn hút học sinh. Người thầy được ví như một nghệ sĩ nếu diễn tốt sẽ được khán giả mến mộ và đón nhận một cách nồng nhiệt. Làm được điều này bước đầu chúng ta đã thành công. Sau đây là một ví dụ minh hoạ. Tôi cho học sinh chơi trò “Bean bag circle” và sử dụng mẫu câu “This is a ( an ) + màu sắc + tên vật” để áp dụng vào trò chơi. Học sinh nghe nhạc và chuyền bóng, khi tiếng nhạc ngưng quả bóng trong tay ai người đó tự đặt một câu theo mẫu đưa ra. Nếu một học sinh yếu nhận được quả bóng có thể sẽ không nói được hoặc “ấp a ấp úng”. Lúc này tôi động viên các em “Chúc mừng em, em có cố gắng nhưng chưa thành công” hay là “Chúc em may mắn lần sau”. Một số bộ phận giáo viên chuyển từ trung học cơ sở xuống dạy tiểu học do chưa hiểu rõ tâm sinh lý lứa tuổi này đôi khi trong tiết dạy còn nghiêm khắc và “lớn tiếng” khi các em phát biểu sai. Theo tôi việc này là không nên vì sẽ làm cho học sinh rụt rè, lúng túng khi phát biểu. Từ đó làm hạn chế tính “phản xạ” trong giao tiếp của học sinh khi học ngoại ngữ. 2.2.2. Về học sinh: a. Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh: Thay thế từ không biết bằng một cụm từ khác đã biết, không sợ mắc cỡ khi nói sai. Nói thoải mái không sợ mắc lỗi ngữ pháp hay phát âm. Phương pháp tổ chức rèn luyện kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh Trong quá trình hướng dẫn học sinh học, giáo viên quan sát chú ý xem các em nói như thế nào, cái gì được và cái gì chưa được để tìm ra biện pháp và phương pháp giảng dạy thích hợp cho từng bài học. Tập cho học sinh cách phản xạ nhanh bằng Tiếng Anh - Đầu năm học, đối với học sinh lớp 3 ở vùng nông thôn như chúng ta các em chưa có vốn từ vựng nếu có thì rất hạn chế dù vậy nhưng giáo viên vẫn tăng cường nói Tiếng Anh trên lớp, thường thường là các câu mệnh lệnh đơn giản, áp dụng các câu mệnh lệnh như: “come here”; “go back”; “Let’s play”; “Let’s learn”.... hoặc những câu hỏi theo bài học kết hợp với động tác, điệu bộ. Nhìn chung, lúc đầu học sinh còn ngơ ngác nhưng dần dần qua các tiết các em cũng đều hiểu và làm theo đúng mệnh lệnh của giáo viên. Sau khi các em đã học được mẫu câu mới thì chúng ta nên sử dụng thường xuyên trương lớp học để các em có điều kiện phản xạ tốt như những câu hỏi về bản thân: What’s your name ? , How are you ? ; những câu hỏi về đồ vật, sử dụng các đồ vật thật có trong lớp học (bàn, ghế, thước, vở... ) như các mẫu câu : What’s this ? , What are these ? ... -Tập cho học sinh không nên hiểu ngầm Tiếng Việt rồi mới dịch sang Tiếng Anh. b. Rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn: Hiện nay, có quan điểm cho rằng học sinh tiểu học còn nhỏ không cần phát âm chuẩn như người bản xứ nhưng đối với tôi thì ngược lại. Bởi vì người xưa thường nói “Tre non dễ uốn” và một phần do kinh nghiệm bản thân từ nhiều năm nay dạy học sinh tiểu học nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò. Nếu giáo viên lơ là trong việc sửa lỗi phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng âm từ, ngữ điệu trong câu thì khi nghe người khác phát âm đúng các em không nhận ra và hiểu được người đối diện nói gì. Mặc khác các em sẽ lúng túng không biết thầy mình dạy đúng hay người này đúng làm cho học sinh e dè, không tự tin trong giao tiếp. Chúng ta phải cho học sinh nghe băng thường xuyên với giọng đọc chuẩn của người bản xứ và cho lặp lại nhiều lần, chú ý ngữ điệu cuối câu và nhất là phần kết thúc của từ. Hướng dẫn học sinh tập trung trong khi nghe và khuyến khích các em bắt chước g
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_ky_nang_gi.doc