Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Lớp 1A trường Tiểu học số 1 Pa Vệ Sử
Bìa nhồi nhét, lí thuyết suông, không tạo được cho học sinh khả năng tư duy, óc phân tích, suy xét, phán đoán, không tạo cơ hội cho các em trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện đại chủ yếu do những nguyên nhân sau đây:
- Chưa có một tiết học riêng cho việc dạy giáo dục kỹ năng sống cho học sinh mà chủ yếu tích hợp trong các môn hoc, các tiết sinh hoạt lớp, chào cờ, tổ chức các ngày lễ trong năm học nên hạn chế về thời gian. Giáo viênchủ yếu chỉ tập trung cho chuyên môn, giảng dạy nên việc truyền đạt các kiến thức về giáo dục kỹ năng sống còn hạn chế, chưa thu hút được sự quan tâm, hứng thú từ phía học sinh.
- Một số giáo viênvà người lớn chưa thật sự gần gũi, thân thiện với học sinh.
- Rèn kỹ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi còn chưa sâu sát.
- Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinhchưa kịp thời.
- Công tác tuyên truyền cho phụ huynh thực hiện dạy các em nhữngkỹ năng sốngcơ bản chưa nhiều.
Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kỹ năng sốngdo sự hạn chế của gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinhgặp khó khăn trong cách ứng xử với tình huống thực của cuộc sống.Mặt khác có lẽ do chúng ta chưa tìm ra những giải pháp tốt có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sốngcho học sinh khi xã hội ngày càng phát triển và thay đổi như hiện nay.
Bên cạnh đó đời sống nhân dân địa phương còn nghèo, trình độ dân trí thấp. Vấn đề cơm áo gạo tiền cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc giáo dục con cái của các gia đình vì đời sống vật chất góp phần chi phối đời sống tinh thần của mỗi cá nhân. Hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhiều gia đình lo mưu sinh kiếm sống nên việc giáo dục con cái bị sao lãng. Họ ít quan tâm, thậm chí không quan tâm đến việc học của con em và cũng ít quan tâm đến nhà trường dạy học như thế nào? tổ chức hoạt động gì? Điều này cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ Mục tiêu của chương trình Giáo dục phổ thông mới là giúp người học làm chủ kiến thức phổ thông; biết vận dụng hiệu quả kiến thức vào đời sống và tự học suốt đời; có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp; biết xây dựng và phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội; có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú; nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại. Tiểu học là bậc học tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài việc trang bị vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội mới.Vậy kỹ năng sống là gì mà lại có tầm quan trọng như vậy? Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người. Kỹ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy trong não bộ. Kỹ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn luyện của con người. Vậy tại sao phải dạy kỹ năng sốngcho học sinh lớp 1? Kỹ năng sống là điều rất quan trọng đối với tất cả mọi người chứ không phải riêng gì học sinh lớp 1. Tuy nhiên, học sinh lớp 1 là đối tượng thường được quan tâm đầu tiên khi giáo dục kỹ năng sống vì các em mới chuyển từ mẫu giáo lên đang ở độ tuổi có nhiều khó khăn trong phục vụ bản thân, biến động về tâm sinh lý, rất nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường sống bên ngoài tác động. Bên cạnh đó hạn chế của nhà trường hiện nay là mới chủ yếu dạy chữ, chưa thật sự quan tâm đến dạy người một cách toàn diện. Việc lồng ghép kỹ năng sống, giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh chưa được khắc sâu, chưa được coi trọng, bởi giáo viên đa số chỉ tập trung vào môn Toán và Tiếng Việt là chủ yếu. Đối tượng học sinh của lớp 1A phần lớn là con em đồng bào dân tộc thiểu số, các em có hứng thú với nhiều vấn đề mới của cuộc sống nhưng lại hạn chế về giao tiếp, khả năng phán đoán chưa cao, tính thích ứng với môi trường không tốt, thụ động trước vấn đề của cuộc sống đặt ra, thiếu hụt nhiều kỹ năng sống cơ bản Điều đó đã dẫn tới sự vụng về trong giao tiếp ứng xử, Đã đến lúc thay vì dạy học sinh những bài học lý thuyết xa vời, chúng ta cần giáo dục kỹ năng sốngcho học sinh gắn với những công việc thực tế. Xây dựng môi trường giáo dục tốt rộng lớn là xã hội và nhà trường, nhỏ là gia đình và lớp học để học sinh được học tập và rèn luyện trở thành những công dân có ích cho xã hội. Xuất phát từ vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tôi luôn trăn trở tìm các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1A trường Tiểu học số 1 Pa Vệ Sử” làm đề tài nghiên cứu cho bản thân. PHẦN THỨ HAI: NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng: Trường Tiểu học số 1 Pa Vệ Sử đóng tại xã Pa Vệ Sử, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Trường học được nằm trên địa bàn xã khó khăn, là một địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (Tày, Nùng, Mảng, Thái, Mường), phụ huynh học sinh phần lớn nằm trong diện lao động nghèo, hoàn cảnh khó khăn.Vốn từ Tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số còn hạn chế, kiến thức còn nghèo, những hiểu biết về thế giới xung quanh còn hạn hẹp, điều này phần nào làm hạn chế đến kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, kỹ năng phòng tránh bị xâm hại, Lớp học mà tôi chủ nhiệm cũng gặp phải những khó khăn tương tự. Trong lớp, học sinh là con em dân tộc thiểu số chiếm 98% số học sinh của lớp.Nhìn chung kỹ năng giao tiếp hòa nhập cuộc sống và nhóm kỹ năng trong học tập vui chơi giải trí của học sinh rất hạn chế. Kỹ năng sốngbao gồm kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao. Trong đề tài này tôi chỉ giới hạn đi sâu vào tìm hiểu nhóm kỹ năng cơ bản. Khi thực hiện đề tài, tôi tiến hành khảo sát thực tế 20 học sinh lớp 1A theo các nhóm kỹ năng sau. Stt Các biểu hiện hành vi Mức độ Tốt Khá TB Yếu I Nhóm kỹ năng giao tiếp-hòa nhập cuộc sống. 1 Biết chào hỏi, lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng. 20% 20% 50% 10% 2 Biết nói lời cảm ơn khi được giúp đỡ và xin lỗi khi có lỗi. 5% 25% 60% 10% 3 Nhặt được của rơi, trả người đánh mất. 20% 30% 20% 30% 4 Biết tìm đến sự giúp đỡ của người khác khi gặp khó khăn. 5% 20% 70% 5% 5 Ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ. 20% 30% 30% 20% II Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động, vui chơi giải trí. 1 Kỹ năng tập trung. 5% 65% 30% 2 Nói rõ ràng, mạch lạc, trình bày ngắn gọn. 15% 55% 30% 3 Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao động. 50% 30% 20% 4 Kỹ năng đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhóm. 40% 40% 20% 5 Kỹ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung. 15% 25% 40% 20% Kết quả thống kê số liệu cho thấy kỹ năng của các em đạt ở mức trung bình và yếu chiếm tỷ lệ rất cao. Hiện tượng học sinh ngơ ngác khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, dễ nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định rằng, trước hết do giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của học sinh. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết suông, không tạo được cho học sinh khả năng tư duy, óc phân tích, suy xét, phán đoán, không tạo cơ hội cho các em trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện đạichủ yếu do những nguyên nhân sau đây: - Chưa có một tiết học riêng cho việc dạy giáo dục kỹ năng sống cho học sinh mà chủ yếu tích hợp trong các môn hoc, các tiết sinh hoạt lớp, chào cờ, tổ chức các ngày lễ trong năm học nên hạn chế về thời gian. Giáo viênchủ yếu chỉ tập trung cho chuyên môn, giảng dạy nên việc truyền đạt các kiến thức về giáo dục kỹ năng sống còn hạn chế, chưa thu hút được sự quan tâm, hứng thú từ phía học sinh... - Một số giáo viênvà người lớn chưa thật sự gần gũi, thân thiện với học sinh. - Rèn kỹ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi còn chưa sâu sát. - Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinhchưa kịp thời. - Công tác tuyên truyền cho phụ huynh thực hiện dạy các em nhữngkỹ năng sốngcơ bản chưa nhiều. Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kỹ năng sốngdo sự hạn chế của gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinhgặp khó khăn trong cách ứng xử với tình huống thực của cuộc sống.Mặt khác có lẽ do chúng ta chưa tìm ra những giải pháp tốt có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sốngcho học sinh khi xã hội ngày càng phát triển và thay đổi như hiện nay. Bên cạnh đó đời sống nhân dân địa phương còn nghèo, trình độ dân trí thấp. Vấn đề cơm áo gạo tiền cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc giáo dục con cái của các gia đình vì đời sống vật chất góp phần chi phối đời sống tinh thần của mỗi cá nhân. Hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhiều gia đình lo mưu sinh kiếm sống nên việc giáo dục con cái bị sao lãng. Họ ít quan tâm, thậm chí không quan tâm đến việc học của con em và cũng ít quan tâm đến nhà trường dạy học như thế nào? tổ chức hoạt động gì? Điều này cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Công tác phối kết hợp giữa ba môi trường nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục kỹ năng sốngcho học sinh mặc dù được quan tâm thực hiện nhưng chưa thật sự chặt chẽ và hiệu quả, đặc biệt là chưa phát huy được vai trò của cha mẹ học sinh trong việc phát hiện, phối hợp với nhà trường trong giáo dục những học sinh chưa chấp hành tốt nội quy, có biểu hiện khác thường, cần được hỗ trợ và can thiệp sớm. 2. Nội dung và biện pháp thực hiện: 2.1. Bản thân giáo viênphải luôn là người giáo dục gương mẫu, hiểu tâm sinh lý của học sinh. Đối với học sinh, thầy cô giáo luôn là thần tượng của các em. Các em luôn để ý đến thầy cô, từ cách ăn nói đến những cử chỉ hàng ngày. Hành vi ở trường của thầy cô tác động rất lớn đến việc hình thành nhân cách học sinh. Vì vậy bản thân là một giáo viênchủ nhiệm, tôi luôn trau dồi đạo đức, tác phong, không ngừng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Ngoài ra bản thân người giáo viên cần phải đặt mình vào vị trí của học sinh, phải hiểu được tâm sinh lý của các em để có những phương pháp giáo dục đúng đắn, phù hợp cho từng đối tượng học sinh. Giáo viêncần có sự hòa nhập và hợp tác với các em, vừa là thầy cô vừa là những người bạn đồng thời cũng vừa là những nhà tư vấn tâm lý đáng tin cậy để các em có thể chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống, trong học tập, trong các mối quan hệ bạn bè và xã hội khác. Chúng ta đều biết rằng, học sinh lớp 1luôn có tâm hồn trong sáng, ngây thơ, các em là những mầm non, tương lai của đất nước. Vì vậy, thầy cô giáo chính là tấm gương để học sinh soi vào. Khi tấm gương ấy thực trong sáng, thì những tiêu cực sẽ hạn chế và sớm bị loại trừ. Trong giáo dục, phương pháp nêu gương có tác dụng rất lớn, đạt hiệu quả cao nhất. Mặc dù bản thân mỗi giáo viên chúng ta không được như những nhà giáo dục nổi tiếng, nhưng tối thiểu phải là những nhà giáo dục gương mẫu, nhiệt tình, thương yêu học trò vì đối với các em, người giáo viênchính là thần tượng, thì chính bản thân của người giáo viên không chỉ nói suông mà phải bằng hành động và việc làm cụ thể trong quan hệ với đồng nghiệp, phụ huynh, học sinh và ngoài xã hội. Với học sinh lớp 1, thầy cô giáo là người mẹ hiền thứ hai của các em, các em luôn luôn nghe lời dạy bảo và làm theo những gì thầy cô dạy, thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về đạo đức, nhất là tấm gương về các ứng xử văn hóa, chuẩn mực trong lời nói và việc làm. Giáo dục kỹ năng sốngcho học sinh sẽ khó hơn khi chính thầy cô không phải là một tấm gương. 2.2. Giáo viên cần nắm được những việc nên làm và không nên làm khi giáo dục học sinh. Trong suốt quá trình giảng dạy, bản thân tôi rút ra một số điều mà giáo viên, phụ huynh cần làm và cần tránh cơ bản để giáo dụckỹ năng sống cho học sinh như sau: *Một số điều cần làm giúp các em rèn luyện kỹ năng sống: Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng và đảm bảo an toàn cho các em. Việc học của học sinh nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì các em sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn. Tham gia vào việc giáo dục của con cái không nên để tốn quá nhiều thời gian và cũng không cần tốn sức tập luyện, cha mẹ chỉ tốn ít thời gian khi cho các em thấy cha mẹ rất coi trọng giá trị của việc giáo dục.Việc tham gia ở mức độ nào không quan trọng nhưng thời gian đó thật đáng giá và đó là sự đầu tư cần thiết cho tương lai của các em. *Một số điều cần tránh khi dạy học sinhkỹ năng sống: Không hạ thấp các em: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của học sinh. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên nói những lời không hay đối với các em. Không doạ nạt: Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã làm cho các em sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn. Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở các em. Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở các em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc các em phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức của các em. Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của học sinh. 2.3. Xây dựng nền nếp học tập và giáo dục kỹ năng sốngqua các môn học. So với học sinh vùng đồng bằng, thành thị thì học sinh miền núi có năng lực giao tiếp tiếng Việt còn rất hạn chế, rụt rè, nhất là đối với người lạ, hay tự ái và luôn cảm thấy xấu hổ trước mọi người Đây thực sự là những lý do khiến cho công tác giáo dục của thầy cô, nhà trường gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng dạy học và giáo dục. Từ kinh nghiệm giảng dạy của mình, tôi thiết nghĩ cần lấy công tác xây dựng nền nếp lớp học, tạo dựng các kỹ năng sống, sinh hoạt, giao tiếp cho học sinh làm nền tảng, điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục. Bản thân tôi luôn tâm niệm, làm sao để lớp ra lớp, thầy ra thầy và trò ra trò. Để có những ngày học tốt, giờ học hiệu quả thì lớp học phải có nền nếp tốt. Nền nếp lớp học ổn định không chỉ góp phần nâng cao chất lượng dạy học, mà còn tạo ra môi trường giáo dục, hình thành nhân cách, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh. Những hoạt động giáo dục nền nếp, ý thức cho học sinh đều mang tính chất đời thường, gắn với cuộc sống thường trực của con người như: thái độ ứng xử trong trường học, giữa học sinh với thầy cô, cha mẹ, anh chị, giữa học sinh với học sinh, bạn bè; cách vệ sinh thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân; ý thức tự giác bảo vệ vệ sinh môi trường, trường, lớp học; giúp đỡ bạn bè khi gặp khó khăn hay trong học tập; nhặt được của rơi trả người đánh mất Các nội dung giáo dục hết sức gần gũi, đời thường được giáo viênlồng ghép một cách linh hoạt trong mọi hoạt động mang tính giáo dục trên lớp và hoạt động ngoài giờ. Bên cạnh đó, giáo viên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinhgắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện của lớp của trường. Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân tôi đã lồng ghép kỹ năng sống vào các môn học, tiết học như: Tiếng Việt; Đạo đức; Hoạt động trải nghiệm, .... để những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực. Môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kỹ năng sống cho các em thông qua các câu chuyện kể. Qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kỹ năng sống. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp.Thông qua các hoạt động học tập, trải nghiệm, hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai, học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kỹ năng sống cần thiết. Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh. Và chính thông qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. 2.4. Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh Để tạo sự gần gũi, gắn kết giữa học sinh và giáo viênchủ nhiệm, bản thân tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinhkhông thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Trong tuần đầu, giáo viên cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp. Để học sinh thấy các em luôn được thầy cô tin tưởng, thương yêu, được làm việc có ích cho trường, lớp, tôi thường xuyên giao cho các em những việc nhỏ, thích hợp hàng ngày ở lớp để các em làm. Đặc biệt những học sinh có tính nhút nhát, rụt rè để các em mạnh dạn, gần gũi thầy cô hơn. Và các em này sẽ rất vui, rất tự hào và cảm thấy mình đã làm việc có ích và từ đókỹ năng sống cũng được hình thành rõ hơn. Chẳng hạn: Nhờ các em cắt phiếu bài tập,. Nhờ tưới cây, quét lớp, vv Làm cho các em thêm gần gũi với thầy cô và cảm thấy mình được thầy cô tin tưởng giao nhiệm vụ trước lớp từ đó các em có thêm chút tự tin vào bản thân mình, gần gũi trường, lớp hơn, ham học và cố gắng học tập hơn... Ngoài ra giáo viênnên để học sinh được nói lên ý kiến của mình đặc biệt là với những em nhút nhát rụt rè. Đó có thể là những suy nghĩ hết sức ngây ngô thậm chí có phần khó hiểu tuy nhiên lại là cơ hội để các em thể hiện bản thân và giáo viêncó thể chỉ bảo uốn nắn các em. 2.5.Rèn kỹ năng sốngqua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lên lớp. Thông qua các tiếtsinh hoạt lớp, giáo viên tạo cơ hội cho học sinh được nói, được trình bày ý kiến, quan điểm của bản thân về gia đình, bạn bè trước lớp, được luân phiên nhau làm “thủ lĩnh” để tổ chức trò chơi, qua đó các em sẽ tự tin, hoạt bát và thể hiện được cá tính bản thân. Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động các phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn tuổi,... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Bản thân học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh hành hung, nói nặng lời đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi. Ngoài ra, những buổi chào cờ, bản thân luôn khuyến khích các em xung phong trả lời những câu hỏi mà thầy Tổng phụ trách hay hỏi. Luôn lắng nghe các nội dung, hoạt động cần làm trong tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và thực hiện tốt các phong trào. Tổ chức các hoạt động đưa các nội dung văn hóa địa phương lồng ghép trong công tác giảng dạy nhưtrang trí góc bản sắc địa phương. Ngoài ra, giáo viêncòn phối hợp với gia đình, các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường để cùng giáo dục kỹ năng sốngcho các em như mời cựu chiến binh tại địa phương để nói về lịch sử địa phương nhân ngày 22/12; học sinh mặc trang phục dân tộc. Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã hướng dẫn các em trồng và chăm sóc cây xanh để nhà trường thực sự sạch đẹp. Từng bước hoàn thành các tiêu chí của trường học thân thiện, học sinh tích cực với đúng nghĩa tạo cho học sinh “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Ngoài ra, học sinh còn được tham gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp như: Tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm, tuyên truyền vệ sinh cá nhân, phòng tránh tai nạn đuối nước, các hoạt động thể dục thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ, múa hát sân trường, phát thanh măng non, trò chơi dân gian,.Để giáo dục kỹ năng sống cho các em. 2.6.Thiết lập được mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giao_duc_ky_nang_song.docx