Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo rèn luyện kĩ năng đọc đúng cho học sinh Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo rèn luyện kĩ năng đọc đúng cho học sinh Lớp 1

Vị trí của dạy đọc ở tiểu học

 a. Khái niệm đọc:

Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện d­íi bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm).

Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phát âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “®¸nh vÇn” lên thành tiếng theo đúng như các ký hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái niệm “đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức.

 b. Ý nghĩa của việc đọc:

Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây chóng ta biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người văn minh.

Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.

 

doc 36 trang cuonglanz2a 12902
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo rèn luyện kĩ năng đọc đúng cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài: 
 Vai trò của sách báo trong đời sống xã hội thật vô cùng to lớn. Sách báo là phương tiện chủ yếu để truyền lại những thành tựu văn hoá và khoa học từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong thực tiễn nhà trường, công việc giảng dạy và giáo dục phần lớn dựa vào sách. Nhờ đọc các tác phẩm văn chương và khoa học mà khả năng nhận thức của học sinh phát triển. Khả năng ấy sẽ giúp các em nhìn nhận và đánh giá một cách có cơ sở đối với các hiện tượng thiên nhiên và các điển hình của đời sống xã hội. Đọc đúng, đọc một cách có ý thức sẽ ảnh hưởng tốt tới trình độ ngôn ngữ của học sinh. Ngôn ngữ phong phú đa dạng, giàu tính nghệ thuật sẽ giúp cho lời nói của học sinh có nội dung, có hình ảnh và lôgic hơn. Vì vậy việc đọc đối với các em mang ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và phát triển rất lớn. 
 Ngay từ khi đứa trẻ tới trường đã được rèn luyện để trở thành một người đọc có ý thức và tích cực, biết nhận thức được cái đúng đắn và giá trị của sách , coi sách là người hướng dẫn, người bạn đáng tin cậy. Thói quen đọc sách, kĩ năng hiểu và đánh giá cái đọc sẽ được hình thành ngay từ các lớp cấp tiểu học dưới sự hướng dẫn cuả thầy. 
 Mặt khác “TIẾNG VIỆT LÀ NGÔN NGỮ GIÀU VÀ ĐẸP”. Câu nói ấy như là một lời nhắc nhở riêng cho từng người dân Việt Nam trong việc giữ gìn, bảo vệ thứ của cải lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Với người làm công tác giáo dục ở bậc Tiểu học – cấp học đầu tiên của ngành học phổ thông, điều này có ý nghĩa rất quan trọng. Học sinh tiểu học ở lứa tuổi từ 6 đến 10, việc học Tiếng Việt được tiến hành ngay từ lớp 1 với nhiều phân môn nhỏ: Học vần, tập đọc, chính tả .... Các phân môn này cùng bổ sung, hỗ trợ nhau để quá trình học Tiếng Việt được tốt hơn, tạo cơ sở để học sinh học tốt các môn học khác. Nhưng có thể nói phân môn Tập đọc có tầm quan trọng đặc biệt. Đây là phân môn có vị trí quan träng trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu tiên. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành cho c¸c em. Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - Lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt. Việc dạy đọc cho häc sinh líp 1 rÊt quan trọng bởi từ chỗ d¹y các em đọc đánh vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó. H¬n n÷a mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh yêu Tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay, ở trường tiểu học, häc sinh ®äc sai vÒ chÝnh ©m, ngäng vÒ âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu ®äc chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do khiÕn cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt hoÆc nhiều trường hợp học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn, nâng cao chất lượng học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn TËp ®äc nói riêng, trong suèt 20 năm dạy học vµ nhiÒu n¨m lµ tæ tr­ëng chuyên môn khèi líp 1tôi đã đúc rút được “Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khèi líp 1 rÌn ®äc ®óng trong ph©n m«n TËp ®äc”. Đề tài này đã được tôi áp dụng thành công với giáo viên khối 1 trong trường, đạt được một số kết quả khả quan trong việc rÌn kĩ năng ®äc ®óng cho häc HS khối lớp 1
II. Nhiệm vụ nghiên cứu.
 Nghiên cứu cơ sở lý luận và tình hình thực tế. Trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng và đọc hiểu văn bản đọccho học sinh khối lớp 1.
III. Phạm vi nghiên cứu. 
- Học sinh khối lớp 1 - Trường Tiểu học Phúc Đồng.
IV. Phương pháp nghiên cứu :
- Trong quá trình thực hiện tôi sẽ tìm hiểu phần đọc của học sinh để đưa ra phương pháp phù hợp.
- Hiểu và nắm chắc phương pháp đổi mới của phân môn. 
- Tìm hiểu tình hình giảng dạy của đồng nghiệp .
- Tìm hiểu bài văn, bài thơ có trong chương trình lớp 1.
- Thường xuyên kiểm tra phân loại đối tượng học sinh. 
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SƠ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
I - VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC.
 1. Vị trí của dạy đọc ở tiểu học
	a. Khái niệm đọc:
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện d­íi bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm).
Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phát âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “®¸nh vÇn” lên thành tiếng theo đúng như các ký hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái niệm “đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức.
	b. Ý nghĩa của việc đọc:
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây chóng ta biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
2. Nhiệm vụ vµ nguyªn t¾c d¹y tËp ®äc ë TiÓu häc :
 - Nhiệm vụ của việc dạy tập đọc ở cấp Tiểu học phải được giải quyết thống nhất với các nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng, tức là dạy học sinh đọc một các tự giác và đạt được các yêu cầu chính là :
 a. Rèn các kĩ năng đọc cho học sinh :
 Học xong cấp Tiểu học, học sinh phải nắm được thành thạo hai hình thức đọc chính là : đọc thành tiếng và đọc thầm và có các kĩ năng đọc đúng (Phát âm đúng, chính xác): đọc nhanh (bao quát được toàn bộ bài đọc, biết ngừng nghỉ theo các dấu câu, không vấp váp ê a); đọc có ý thức (xác định rõ nội dung, ý nghĩa và các mối quan hệ trong bài đọc); Đọc diễn cảm (đọc được cái thần thái của bài văn, diễn tả đúng tình ý mà nhà văn kí thác). Những kĩ năng này cũng là cơ sở để tạo nên chất lượng đọc.
 b. Làm giàu vốn kiến thức văn học, ngôn ngữ và đời sống cho học sinh: Trong quá trình học đọc, các em sẽ được hình thành dần các khái niệm về ngôn ngữ và văn học. Vốn từ vựng và ngữ pháp của các em cũng ngày càng phong phú và vững vàng, có tác dụng tích cực trong việc rèn kĩ năng diễn đạt (gọn gàng, trong sáng). Các khái niệm về thể loại văn học (thơ, truyện), về bố cục, về nhân vật văn học... cũng dần dần đến với các em qua việc học đọc các tác phẩm cụ thể. Và cũng thông qua các bài tập đọc, học sinh được hiểu thêm những điều mới mẻ về thiên nhiên, đất nước, con người; tri giác về không gian được mở rộng, từ đó vốn sống của các em ngày một phong phú hơn.
 c. Giáo dục tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh :
 - Các bài tập đọc ở cấp Tiểu học đều đảm nhiệm hai việc: dạy ngôn ngữ và dạy văn chương, nhằm thực hiện được ba chức năng cơ bản của văn học đó là nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Các bài tập đọc được sắp xếp theo từng chủ điểm (nhà trường, gia đình, thiên nhiên đất nước) mục đích đem lại cho các em tình yêu con người, lòng yêu đất nước quê hương và tình bạn bè quốc tế. Thông qua các hình tượng văn học do ngôn ngữ dựng nên các em sẽ thấm dần cái hay, cái đẹp của tiếng mẹ đẻ. Đó chính là cơ sở cho những tình yêu lớn sau này phát triển lên.
 d. Cơ sở của việc đọc là tính tự giác tiếp nhận cái mới của học sinh và sự thích thú của các em đối với từng bài đọc. Tính tự giác và chiều sâu của nhận thức sẽ đạt được nhờ vào kinh nghiệm sống, vào sự quan sát cái đã đọc với cuộc sống.
3. Những nguyên tắc cơ bản về dạy tập đọc:
 a. Đảm bảo tính vừa sức: Phải quan tâm đúng mức tới khả năng cảm thụ của học sinh ở những độ tuổi khác nhau. Mỗi độ tuổi các em, các em chỉ có thể đọc và cảm thụ được các tác phẩm theo những mức nhất định. Nếu dùng bài đọc quá khó, quá dài hoặc phương pháp dạy học thiếu linh hoạt thì cản trở nhiều cho việc tiếp nhận của các em.
 b. Đảm bảo phát triển tu duy ngôn ngữ và thị hiếu thẩm mĩ cho các em thông qua việc rèn các kĩ năng đọc và cảm thụ các tác phẩm văn chương.
 c. Đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ giữa nội dung tập đọc với thực tiễn đời sống. Đây là cơ sở chủ yếu của việc tổ chức dạy đọc. Tuy nhiên, việc liên hệ cũng chỉ nên xuất phát từ những cái có trong bài đọc, không nên đi quá xa, dễ làm loãng chủ đề.
II. PHÂN LOẠI CÁC KĨ NĂNG ĐỌC Ở TIỂU HỌC :
 Năng lực đọc được cụ thể hoá thành các kĩ năng đọc. Vì vậy rèn kỹ năng đọc cho học sinh : Cần chú ý 2 hình thức đọc đó là đọc thành tiếng và đọc thầm.
 A. Đọc thành tiếng là phát âm ra âm thanh, khi đọc cần phải phối hợp với các hoạt động tri giác và thính giác: miệng đọc, mắt nhìn, tai nghe. Đọc thành tiếng là một hình thức không thể thiếu được của dạy tập đọc. Đối với học sinh đầu cấp thì việc đọc thành tiếng còn là điều kiện cần thiết để rèn luyện tính tự giác trong quá trình đọc. Chất lượng đọc thành tiếng của học sinh bao gồm 4 phẩm chất: đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức (thông hiểu nội dung văn bản) và đọc diễn cảm. Rèn đọc thành tiếng là luyện cho học sinh các kĩ năng đọc sau:
 1. Luyện đọc đúng :
 a. Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu).
b. Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng Việt.
- Đọc đúng các phụ âm đầu: Ví dụ: có ý thức phân biệt để không đọc: “lµm việc thành nàm việc”, “nó nói thành ló lói” .
- Đọc đúng các âm chính: Ví dụ: có ý thức phân biệt để không đọc “mua riệu, quả lịu” mà phải đọc “mua rượu, quả lựu”.
- Đọc đúng bao gồm cả đọc tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điÖu câu. Ngữ điệu là hiện tượng phức tạp, có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng), trọng âm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy cho học sinh làm chủ những yếu tố này. Đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc. 
Khi dạy đọc đúng giáo viên cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai. Ví dụ không ngắt hơi.
“Con / cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành / mềm lộn / cổ xuống ao”
- Bố cho Giang một / cái nhãn vở. Không tách giới từ với danh từ đi sau nó.
VÝ dô : không đọc: “Buổi sáng bé / chào mẹ
 Chạy tới ôm / cổ cô”.
Không tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
Ví dụ : không đọc “ Trường học là / ngôi nhà thứ hai của em”.	
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu.
2. Luyện đọc nhanh
a. Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm chất đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng.
	Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (nhiệm vụ này phần dạy đọc của phân môn học vần phải đảm nhận), đọc không ê a, ngắc ngứ, không vừa đọc vừa đánh vần. Về sau tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ đọc nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp được. Vì vậy, đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều.
b. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra, còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
 3. Đọc có ý thức là chất lượng cơ bản của đọc, được thể hiện ở kĩ năng đọc và hiểu sâu sắc nội dung của bài. Kĩ năng này được hình thành trên cơ sở hiểu nhiều biết rộng nghĩa của từng từ, ý của từng câu, xác định được các mối quan hệ logic và tâm lí giữa các phần của bài đọc.
 4. Luyện đọc diễn cảm : 
 a. Đọc diễn cảm là yêu cầu quan trọng đối với cách đọc của học sinh các lớp đầu cấp và cũng là yêu cầu đặt ra khi đọc các tác phẩm văn chương. Đó là việc đọc thể hiện ở kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng...để biểu đạt đúng ý nghĩa, tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc.
 b. Để hình thành kĩ năng đọc diễn cảm cần thực hiện các bài tập sau :
 + Tập lấy hơi và tập thở: Biết thở sâu ở chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi khi đọc.
 + Rèn cường độ giọng đọc - luyện đọc to bắt đầu từ lớp 1.
 + Luyện đọc diễn cảm :
 - Đàm thoại để cho học sinh hiểu được ý đồ của tác giả. Có thể phân vai để làm sống lại nhân vật của tác phẩm.
Đọc mẫu của thầy.
Luyện đọc cá nhân.
B. Đọc thầm : Đọc thầm là đọc không phát ra âm thanh. Kĩ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong, từ đọc to thành đọc nhỏ -> đọc mấp mỏy mụi (khụng thành tiếng) -> đọc hoàn toàn bằng mắt, khụng mấp máy môi. Kĩ năng đọc thầm được hình thành qua việc thực hiện một hệ thống bài tập dạy đọc hiểu.
CHƯƠNG II : CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng kĩ năng đọc của học sinh :
Theo chuẩn kiến thức, học hết phần vần chương trình tuần thứ 24 thì hầu hết các em đã biết đọc. Song thực tế nhiều em còn ngại đọc vì đọc còn chậm, ngắt nghỉ không đúng chỗ, lên giọng xuống giọng chưa hợp lý đặc biệt khi đọc thơ, ngắt nhịp thơ, câu văn dài, câu hỏi rất lúng túng, ngắt thiếu chính xác. Vì thế khi đọc các em khó có thể thể hiện được tư tưởng, tình cảm nội dung của bài thơ, bài văn... của tác giả và sự đồng cảm của chính mình. 
	Trong quá trình nghiên cứu tuần 25 các em học phân môn tập đọc, tôi khảo sát lần 1.
TS học sinh 
Thờigian KS
Đọc diễn cảm
Đọc rõ ràng lưu loát
Đọc nhỏ 
ấp úng 
Đọc yếu
SL
TL
 SL
TL
SL
TL
SL
TL
201
Tuần 25
12
5.9
 64
31.8
95
47,4
30
14.9
2. Tình hình thực tiễn và phương pháp rèn kỹ năng đọc :
- Tình hình thực tiễn: Đối với học sinh tiểu học người thầy giáo là người đại diện toàn quyền của nền văn minh, là tổ chức quá trình học tập của trẻ. Bởi vậy người thầy giáo phải là người mẫu mực, có kỹ năng sư phạm thực sự để truyền thụ và nâng cao chất lượng giáo dục.
 - Phương pháp dạy tập đọc: Sử dụng các phương pháp chủ yếu trên từng tiết dạy. Cụ thể: Phương pháp trực quan, phương pháp luyện tập, phương pháp đàm thoại ...
 - Phối kết hợp: Tăng tiết luyện đọc, học sinh phải tự luyện đọc ở nhà, thay đổi phương pháp dạy mới, luyện tập trong các tiết học, trò chơi.
3. Khảo sát chất lượng đọc của học sinh :
 a. Đọc đúng phụ âm đầu, vần, từ ngữ khó, dấu thanh: 
 	Muốn các em rèn kỹ năng đọc tốt thì tiêu chuẩn hàng đầu phải là đọc đúng. Đọc đúng là phát âm chính xác, liên kết các từ, câu một cách hợp lý, ngừng nghỉ theo đúng dấu quy ước, đúng với yêu cầu của từng bài văn, bài thơ. Đọc đúng là tiền đề, là cơ sở tốt cho việc đọc diễn cảm. Vì vậy mà tôi tiến hành bằng cách khảo sát việc đọc sai phụ âm đầu, vần, từ ngữ khó, dấu thanh qua các bài văn bài thơ: Hoa ngọc lan, Mẹ và cô, Ngôi nhà, Mưu chú sẻ, Đầm sen, Ngưỡng cửa, Hồ gươm ...
	Qua khảo sát thì cho thấy rõ học sinh mắc một số lỗi về mặt chính âm. Cụ thể các em hay đọc sai dấu thanh, phụ âm, đặc biệt thanh ngã (~) đọc sai thành sắc(/), phát âm nhầm lẫn giữa phụ âm l/n, ch/tr.
	Ví dụ: bác sĩ - đọc thành bác sí.
	Xanh thẫm - đọc thành xanh thấm.
	Con trâu học sinh đọc là con châu
 Sáng nay học sinh đọc là xáng lay
 Lúc nào học sinh đọc là núc lào
 Hoa ngọc lan đọc thành hoa ngọc nan, làm việc đọc thành nàm việc vv....
 Có làm như thế thì khi giáo viên luyện đọc cho học sinh đọc sẽ lựa chọn đúng tiếng, từ có thanh điệu và phụ âm đầu dễ lẫn để sửa cho học sinh chứ không luyện đọc từ khó mang tính dàn trải.
 + Nguyên nhân của việc đọc sai là: ảnh hưởng của việc phát âm tiếng địa phương không chuẩn, do các em không hiểu nghĩa của từ đang đọc, sự cảm thụ văn chương của các em còn hạn chế, do các em chưa phát huy tính tự giác luyện đọc ở nhà
 Chính vì sự phát âm sai cho nên tốc độ đọc và đọc hiểu văn bản rất hạn chế. Mặt khác theo yêu cầu học sinh còn phải đọc hay văn bản. Đọc diễn cảm, có giọng đọc phù hợp với từng câu, từng đoạn, đọc sao phù hợp với từng văn cảnh, từng nhân vật. Điều này đối với học sinh lớp 1 còn nhiều khó khăn.
b. Khảo sát ngắt giọng khi đọc văn xuôi: Đối tượng khảo sát là cả lớp. Tên bài khảo sát: Mưu chú sẻ, Vì bây giờ mẹ mới về, Hồ Gươm ...
Tiêu chí khảo sát: 
 - Ngắt giọng sau dấu chấm là nghỉ dài, hạ thấp giọng.
 - Ngắt giọng sau dấu phẩy: nghỉ hơi ngắn.
 - Ngắt giọng sau dấu hỏi : cao giọng.
 - Ngắt giọng ở câu dài không có dấu phẩy: Nghỉ ngắn dài hơn so với dấu phẩy.
- Nhịp điệu nhanh hay chậm tùy thuộc vào yêu cầu của bài 
 - Căn cứ vào tiêu trí trên khảo sát kết quả cho thấy:
Ngắt giọng sai sau dấu phẩy : 15%
Ngắt giọng sau dấu chấm: 20% 
Ngắt giọng sai sau dấu hỏi : 10% 
Ng¾t giäng sai sau c©u dµi kh«ng cã dÊu phÈy: 25 % .
 Tóm lại: Ngắt giọng khi đọc bài văn được quy định bởi các yếu tố ngữ pháp: từ đoạn, câu, ...nên khi đọc phải ngắt nghĩ sau dấu chấm (.) dấu (,) dấu (’)... để bài văn được thể hiện mạch lạc rõ ràng, dễ hiểu. Vì vậy khi dạy giáo viên chú ý luyện đọc nhiều ở ngắt g

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_chi_dao_ren_luyen_ki.doc