Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn Khoa học lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn Khoa học lớp 5

 Lứa tuổi học sinh Tiểu học là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi khám phá song lại thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động . Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những thách thức, áp lực . Nếu thiếu kĩ năng sống, các em dễ có lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Thực tế thời gian gần đây đã có không ít các hiện tượng trẻ em bị lợi dụng, học sinh phổ thông mắc phải các tệ nạn xã hội, thậm chí vướng vào vòng lao lí khi đang còn mặc đồng phục nhà trường Chính vì thế việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ cần được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt để giúp các em sớm biết tự bảo vệ, được rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng, Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.

Bên cạnh đó, Đảng ta đã xác định: Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần có những người lao động mới phát triển toàn diện. Do vậy giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI: Học để biết, Học để làm; Học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Mục tiêu của Giáo dục phổ thông cũng đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành dộng, năng lực thực tiễn. Điều đó đã khẳng định vai trò, trách nhiệm của nhà trường trong việc kết hợp dạy chữ với dạy người.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường phổ thông trong việc đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đáp ứng nguồn nhân lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nên tôi đã chọn đề tài “ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn Khoa Học lớp 5” để nghiên cứu.

 

doc 18 trang thuychi01 8015
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn Khoa học lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ THANH HOÁ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
 TRONG MÔN KHOA HỌC LỚP 5
 Người thực hiện : Lê Thị Hoa
 Chức vụ : Giáo viên
 Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Điện Biên 2 
 Thành phố Thanh Hoá
 SKKN thuộc lĩnh vực : môn Khoa Học 
THANH HOÁ NĂM 2019
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
 1.1 Lí do chọn đề tài  3
 1.2 Mục đích nghiên cứu . 3
 1.3 Đối tượng nghiên cứu .... 4
 1.4 Phương pháp nghiên cứu . 4
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 2.1 Cơ sở lí luận .. . 5
 2.2 Thực trạng vấn đề  5
 2.3 Các giải pháp đã sử dụng  6
 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm . 15
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
 3.1. Kết luận .. 16
 3.2. Kiến nghị .. 16
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO  . . 17
1. MỞ ĐẦU
1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Lứa tuổi học sinh Tiểu học là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi khám phá song lại thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những thách thức, áp lực. Nếu thiếu kĩ năng sống, các em dễ có lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Thực tế thời gian gần đây đã có không ít các hiện tượng trẻ em bị lợi dụng, học sinh phổ thông mắc phải các tệ nạn xã hội, thậm chí vướng vào vòng lao lí khi đang còn mặc đồng phục nhà trường  Chính vì thế việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ cần được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt để giúp các em sớm biết tự bảo vệ, được rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng, Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Bên cạnh đó, Đảng ta đã xác định: Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần có những người lao động mới phát triển toàn diện. Do vậy giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI: Học để biết, Học để làm; Học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Mục tiêu của Giáo dục phổ thông cũng đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành dộng, năng lực thực tiễn. Điều đó đã khẳng định vai trò, trách nhiệm của nhà trường trong việc kết hợp dạy chữ với dạy người.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường phổ thông trong việc đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đáp ứng nguồn nhân lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nên tôi đã chọn đề tài “ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn Khoa Học lớp 5” để nghiên cứu.
1.2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở trường phổ thông phải được tiến hành thường xuyên và bằng nhiều hình thức như:
+ Giáo dục lồng ghép, tích hợp trong các môn học chính khoá.
+ Giáo dục thông qua các sinh hoạt tập thể.
+ Giáo dục trong hoạt động ngoài giờ lên lớp v. v. 
Với mong muốn trang bị cho học sinh những kĩ năng cần thiết, giúp các em rèn luyện những hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình cộng đồng, Tổ quốc; Giúp các em có khả năng ứng phó tích cực với các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh nên tôi đã chú trọng hơn trong việc bồi dưỡng kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động giáo dục ở nhà trường. Trong bản sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ trình bày một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong việc lồng ghép, tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua việc giảng dạy môn Khoa Học lớp 5.
1. 3 ĐÓI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Tâm sinh lí lứa tuổi
- Những kĩ năng sống thiết yếu.
- Các kĩ thuật dạy học tích cực.
- Các hình thức tổ chức dạy học
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu tài liệu về tâm lí lứa tuổi và kĩ năng sống
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thực nghiệm.
 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Môn Khoa học ở Tiểu học giúp học sinh tìm hiểu những kiến thức khoa học đơn giản, cơ bản về Con người và sức khoẻ; về tự nhiên. Bước đầu hình thành và phát triển một số kĩ năng quan sát, dự đoán, tìm kiếm thông tin,  và vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống. Đặc biệt, trong chương trình môn Khoa học lớp 5 , chủ đề Con người và sức khỏe trang bị cho các em những hiểu biết cơ bản về sự sinh sản, về giới tính và những thay đổi về thể chất, tinh thần trong từng giai đoạn của cuộc đời mỗi con người. Với những đặc điểm trên, môn Khoa học ở Tiểu học có khả năng lớn trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Thực hiện tốt giáo dục kĩ năng sống trong dạy học môn Khoa học sẽ góp phần chuyển các kiến thức môn học thành hành vi, thái độ tích cực, phù hợp giúp học sinh có thể xử trí hiệu quả các tình huống thực tế. Điều đó làm cho việc học tập môn Khoa học trở nên có ý nghĩa đồng thời giúp các em nắm vững, khắc sâu kiến thức.
2.2 THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Mặc dù phòng trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được hưởng ứng rộng khắp và được đẩy mạnh trong các nhà trường , tuy nhiên việc thực hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hiệu quả còn hạn chế. Có nhiều nguyên nhân:
 Về phía giáo viên: Do áp lực về chất lượng văn hóa, chất lượng Vở sạch chữ đẹp, áp lực từ các hoạt động chuyên môn, hồ sơ sổ sách v. v. nên có phần xem nhẹ việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Chưa chú trọng đến việc tìm tòi những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp tạo hứng thú cho học sinh trong việc rèn luyện kĩ năng sống nên hiệu quả giáo dục chưa cao.
 Về phía phụ huynh: Cũng chỉ quan tâm nhiều tới việc học tập các môn Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh chứ ít để ý đến việc trang bị cho con những kĩ năng cần thiết để các em có được những hành vi, thói quen tích cực trong hoạt động hàng ngày.
 Về phía học sinh: Do chưa được rèn luyện thường xuyên nên thường thiếu tự tin, kĩ năng giáo tiếp hạn chế, đặc biệt kĩ năng ứng phó với tình huống chưa linh hoạt và tích cực. Vì vậy hiện tượng nói tục, chửi bậy, gây gổ, cãi lộn, thói quen bừa bãi, lãng phí, thiếu trách nhiệm .v.v vẫn còn phổ biến.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tìm hiểu nội dung và địa chỉ giáo dục kĩ năng sống trong môn Khoa Học lớp 5. 
 Dựa trên cơ sở nghiên cứu kĩ nội dung kiến thức của từng chủ đề trong môn Khoa học lớp 5, tôi xác định những kĩ năng sống cần hình thành và phát triển cho học sinh sau khi học xong chủ đề đó là gì.
 Ví dụ : Trong chủ đề “ Con người và sức khoẻ” Cần giáo dục cho học sinh những kĩ năng cơ bản, thiết yếu sau :
 - Kĩ năng tự nhận thức: Học sinh nhận thức được vai trò, vị trí của bản thân trong gia đình, nhà trường, xã hội. Nhận thức rõ về bản thân, học sinh sẽ tự tin trong mối quan hệ với bạn bè cùng trang lứa, với người lớn; biết đặt ra kế hoạch, mục tiêu phấn đấu phù hợp; chủ động đón đợi những thay đổi ở tuổi dậy thì .
 - Kĩ năng xác định giá trị : HS xác định được sức khoẻ là vốn quý của mỗi người , phải biết bảo vệ, giữ gìn .
 - Kĩ năng ra quyết định: Tự giác thực hiện vệ sinh cá nhân, chủ động phòng tránh các bệnh truyền nhiễm; phòng tránh bị xâm hại; Kiên quyết nói “không” với các chất gây nghiện .
 - Kĩ năng thể hiện sự cảm thông, chia sẻ: Không phân biệt, kì thị đối với người bị nhiễm HIV / AIDS .
 - Kĩ năng tìm kiếm sự trợ giúp , ứng phó với tình huống ..
 Hay:
 Trong chủ đề “ Vật chất và năng lượng” Học sinh cần được rèn luyện một số kĩ năng cơ bản như :
 - Kĩ năng ra quyết định và đảm nhận trách nhiệm: Tích cực bảo vệ môi trường không khí, môi trường nước ; Thực hiện tiết kiệm năng lượng chất đốt, năng lượng điện 
 - Kĩ năng giải quyết vấn đề : Biết tìm kiếm và xử lí thông tin; biết quan sát, giải thích hiện tượng; Biết vận dụng kiến thức khoa học vào thực tế như giữ gìn bảo vệ các vật dụng, biết giữ an toàn khi sử dụng năng lượng chất đốt, sử dụng điện 
 Tiếp đó, tôi tìm các địa chỉ cụ thể để tích hợp các kĩ năng sống cơ bản cần giáo dục cho học sinh. Việc này có thể tham khảo trong Tài liệu dành cho giáo viên “ Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học”. Tuy nhiên còn phải căn cứ vào từng điều kiện cụ thể, thực tế của mỗi lớp học, mỗi địa phương để lồng ghép sao cho việc giáo dục kĩ năng sống trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng không gượng ép và làm quá tải nội dung bài học.
 Ví dụ : Bài 9 - 10 : Thực hành nói “ không” với các chất gây nghiện.
 Các kĩ năng sống cơ bản mà học sinh cần được rèn luyện thông qua bài học này cụ thể là :
+ Kĩ năng phân tích, xử lí thông tin từ các tư liệu Sách giáo khoa, từ nguồn cung cấp của giáo viên về tác hại của chất gây nghiện.
+ Kĩ năng giáo tiếp, ứng xử và kĩ năng từ chối sử dụng các chất gây nghiện.
+ Kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ khi rơi vào hoàn cảnh bị đe doạ phải sử dụng các chất gây nghiện. 
+ Ngoài ra còn cần giúp học sinh có kĩ năng thuyết phục, tuyên truyền, giúp đỡ người thân tránh xa và từ bỏ các chất gây nghiện.
2. Lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn Khoa Học lớp 5. 
 Đây là công việc đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức hơn cả. Việc lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được thực hiện trong quá trình lập kế hoạch bài học sao cho vừa đạt được mục tiêu về kiến thức của bài học vừa lồng ghép được giáo dục kĩ năng sống.
 Ví dụ : Bài 9 - 10 : Thực hành nói “không “ với các chất gây nghiện.
 Có thể sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như:
 + Lập sơ đồ tư duy.
 + Hỏi chuyên gia.
 + Đóng vai.
 .
 Chẳng hạn : Hoạt động I : Tìm hiểu về chất gây nghiện.
* Bước 1: GV khai thác sự hiểu biết của học sinh về các chất gây nghiện bằng cách nêu câu hỏi : “ Các em biết gì về các chất gây nghiện ? “
 + GV ghi tóm tắt những ý kiến học sinh nêu ra lên bảng .
 + Khen ngợi những hiểu biết của học sinh và chốt lại: 
 “ Chất gây nghiện là những chất khi hấp thụ vào cơ thể sẽ kích thích đến hệ thần kinh, có thể làm thay đổi các chức năng sống thông thường và làm cho người sử dụng bị lệ thuộc vào chất đó. Các chất gây nghiện thường thấy là thuốc lá, thuốc lào , rượu , bia , ma tuý ”
* Bước 2 : Tìm hiểu tác hại của chất gây nghiện
- GV chia lớp thành các nhóm 6. Giao cho mỗi nhóm tìm hiểu về một loại chất gây nghiện ( tham khảo thông tin SGK ) và tổng hợp các thông tin về tác hại của chất gây nghiện đó dưới dạng sơ đồ.
 * Bước 3: - Đại diện các nhóm nối tiếp nhau trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình ( thuyết minh sơ đồ )
 - Các nhóm khác bổ sung.
* Bước 4 : 
 - GV nhận xét chung, khen ngợi sự tích cực làm việc của các nhóm .
 - Cuối cùng có thể tổng hợp kết quả làm việc của các nhóm dưới dạng sơ đồ 
 Ví dụ : 
Thuốc lá,
Thuốc lào
Biểu 
hiện
Tác hại
răng ám khói,
môi thâm
hút thuôc
liên tục
Hơi thở
hôi
dễ mắc bệnh
đường hô hấp
ô nhiễm
không khí
nguy cơ
ung thư phổi cao
trẻ em
bắt chước
tốn tiền
của
 * Tiếp đó, để giúp học sinh có hiểu biết sâu sắc, cụ thể hơn về tác hại của các chất gây nghiện giáo viên có thể tổ chức “ Hỏi chuyên gia ”
 - Các nhóm lần lượt cử các “ chuyên gia ” của nhóm mình để trả lời, giải đáp các câu hỏi, thắc mắc thuộc lĩnh vực nhóm mình “ nghiên cứu ”	
 Kết thúc hoạt động này giáo viên ( hoặc 1, 2 học sinh ) cần đưa ra kết luận :
 + Rượu , bia thuốc lá, ma tuý đều là những chất gây nghiện. Riêng ma tuý là chất gây nghiện bị nhà nước cấm. Vì vậy, sử dụng , buôn bán, vận chuyển ma tuý đều là những việc làm vi pham pháp luật.
 + Các chất gây nghiện đều gây hại cho sức khoẻ của người sử dụng và những người xung quanh; làm tiêu hao tiền của, làm mất trật tự an toàn xã hội.
 Hay:
 Hoạt động 3: Thực hành kĩ năng từ chối.
 Tôi đã sử dụng phương pháp “ Đóng vai ” như sau:
 * Bước 1: Chia lớp thành 6 nhóm. Hai nhóm sẽ thảo luận 1 tình huống:
 - Tình huống 1: Hùng và Thắng chơi rất thân với nhau. Một hôm Hùng rủ Thắng ra một góc kín đáo và nói với Thắng là mình đã tập hút thuốc lá và có cảm giác rất thích thú. Hùng cố rủ Thắng cùng hút thuốc với mình. Nếu là Thắng, em sẽ từ chối thế nào?
 - Tình huống 2: Sơn được bố cho đi ăn tiệc cưới của một người anh họ. Trong bữa tiệc đó Sơn ngồi cùng mâm với các anh con nhà bác, họ mời và cố ép Sơn phải uống rượu, bia cùng với họ. Nếu là Sơn , em sẽ xử lí thế nào ?
 - Tình huống 3: Một lần đi học nhóm buổi tối ở nhà bạn về, Tùng gặp một số thanh niên cùng phố đang tụ tập. Họ chặn đường, dụ dỗ và ép Tùng phải cùng hít Hê rô in với họ. Nếu là Tùng, em sẽ làm gì?
 * Bước 2: GV hướng dẫn các nhóm chuẩn bị lời thoại như mẫu sau:
 VD : Tình huống 1:
Lời mời
Lời từ chối
1. Cậu hút thử đi, thích lắm !
 Tớ không hút đâu, sợ lắm.
2. Có gì mà sợ, cậu thấy đấy, con trai ai chẳng hút thuốc.
 .
 .
 .
* Bước 3 : Các nhóm lần lượt đóng vai trước lớp.
Các nhóm khác theo dõi, nhận xét cách xử lí tình huống của các nhóm.
* Bước 4 : Tổ chức cho cả lớp thảo luận :
 + Việc từ chối hút thuốc lá, uống rượu , bia và sử dụng ma tuý  có dễ dàng không ?
 + Trong trường hợp bị doạ dẫm, ép buộc, chúng ta nên làm gì ?
 + Nếu không tự giải quyết được, chúng ta nên tìm sự giúp đỡ của ai ?
 * Bước 5: Kết luận: Mỗi chúng ta đều có quyền từ chối, quyền tự bảo vệ và được bảo vệ trước tác hại của các chất gây nghiện. Mỗi người có thể có những cách từ chối riêng, song cái “đích” phải đạt được là kiên quyết nói “không” với các chất gây nghiện.
Với cách lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học và tổ chức các hoạt động học như trên, giờ học không chỉ thành công trong về mặt trang bị kiến thức mà còn đạt hiệu quả cao về giáo dục kĩ năng sôngs cho học sinh. Việc “Lập sơ đồ tư duy” đã giúp học sinh rèn luyện kĩ năng phân tích, xử lí thông tin; kĩ năng tổng hợp, hệ thống hoá các thông tin Còn thông qua các vai diễn học sinh được bộc lộ khả năng tự nhận thức; khả năng giao tiếp và tự giải quyết vấn đề. Như vậy học sinh được thực hành rèn luyện các kĩ năng sống cần thiết trong môi trường an toàn trước khi vận dụng vào thực tiễn.
 Tuy nhiên, khi sử dụng các phương pháp này, giáo viên thường bị “vi phạm” về thời gian. Vì thế giáo viên cần dự kiến cụ thể các hoạt động, đơn giản hoá phần “diễn” đồng thời kiên trì hướng dẫn học sinh để các em thành thạo, khẩn trương trong việc chuẩn bị và phối hợp nhịp nhàng giữa đóng vai và thảo luận.
 Hoặc:
 Bài 18: Phòng tránh bị xâm hại
 Tôi đã sử dụng kĩ thuật Khăn trải bàn trong Hoạt động 2: Ứng phó với nguy cơ bị xâm hại 
 + Chia lớp thành các nhóm nhỏ ( 2 bàn quay lại với nhau ).
 + Nêu câu hỏi thảo luận: Trong trường hợp bị xâm hại, chúng ta cần phải làm gì? 
 + Yêu cầu mỗi thành viên trong nhóm suy nghĩ và viết ý kiến của mình vào phần giấy đã được chia sẵn.
 + Thảo luận, thống nhất ý kiến chung và viết vào phần giữa “khăn trải bàn” 
 Ví dụ:
- Tránh xa, bỏ đi ngay  
- Nói lớn, hét to lên 
- Kể với người tin cậy
Tìm cách tránh xa kẻ đó, không để kẻ đó chạm được tới người mình
Nói to và kiên quyết: “ dừng lại! không được chạm vào người tôi!”
- Hét lên: “ buông ra, tôi sẽ mách bố mẹ đấy!” 
- Cắn vào tay kẻ đó và kêu cứu .
- Kể lại sự việc đó với người thân trong gia đình hoặc cô giáo 
Một trong những kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng có hiệu quả để giáo dục kĩ năng sóng trong môn Khoa học là kĩ thuật “Trình bày 1 phút”. Đây là kĩ thuật dạy học tạo cơ hội cho học sinh tổng kết lại những kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn, cô đọng. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời học sinh đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em đồng thời cho giáo viên thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào. Kĩ thuật này thường được tiến hành vào cuối tiết học : Giáo viên yêu cầu học sinh suy nghĩ và viết nhanh ra giấy những điều quan trọng mình đã hiểu biết được hoặc cảm thấy thú vị qua bài học hôm nay, đồng thời nêu vấn đề mình còn thắc mắc muốn được giải đáp, muốn tìm hiểu thêm. Mỗi học sinh sẽ có 1 phút để trình bày trước lớp những vấn đề đó.
 Ví dụ : Bài 8: Vệ sinh tuổi dậy thì.
 Học sinh có thể “Trình bày 1 phút” về những vấn đề như:
* HS1 : - Để giữ vệ sinh cơ thể ở tuổi dậy thì, chúng ta cần thường xuyên tắm giặt, gội đầu, thay quần áo, đặc biệt phải thay quần áo lót hàng ngày. Bộ phận sinh dục ngoài phải được vệ sinh hàng ngày bằng xà phòng tắm và nước sạch.
 - Em muốn biết nên chọn quần áo lót như thế nào và vì sao nên phơi quần áo lót dưới ánh nắng mặt trời ?
 * HS2 : - Để bảo vệ thể chất và tinh thần ở tuổi dậy thì chúng ta cần ăn uống đủ chất, tăng cường luyện tập thể dục thể thao, vui chơi giải trí lành mạnh; tuyệt đối không sử dụng các chất gây nghiện, không xem phim ảnh hoặc sách báo có nội dung không lành mạnh.
 - Em muốn biết để nâng cao sức khoẻ, nên luyện tập thể dục thể thao ở mức độ như thế nào là phù hợp ?
 * HS3 : - Đến tuổi dậy thì, tuyến mồ hôi hoạt động mạnh nên thường tiết ra nhiều mô hôi làm cho cơ thể có mùi khó chịu. Đồng thời tuyến dầu ở da cũng hoạt động nhiều khiến da mặt luôn nhờn và xuất hiện trứng cá.
 - Em muốn biết có nên dùng nước hoa và bôi kem chống mụn để cơ thể bớt mùi khó chịu và ngăn mụn trứng cá không ? 
v. v. 
 Khi học sinh “Trình bày 1 phút”, GV ghi tóm tắt các ý kiến lên bảng.
 Trước hết khen ngợi các em đã nắm vững nội dung bài học; trình bày khá lưu loát và cô đọng những vấn đề mình tiếp thu được đồng thời đã mạnh dạn nêu ra những thắc mắc, những băn khoăn mà mình muốn tìm hiểu thêm. Điều đó sẽ giúp các em không chỉ nắm vững nội dung bài học mà còn giúp các em vận dụng tốt những kiến thức khoa học vào việc tự chăm sóc sức khoẻ bản thân. Tiếp đó giáo viên động viên các học sinh khác có thể giải đáp những thắc mắc mà các bạn đã nêu ra. Nếu chưa đạt thì giáo viên sẽ giúp các em hoàn thiện câu trả lời và tổng hợp lại các ý kiến cho có hệ thống. 
 Chẳng hạn: Tuổi dậy thì là thời kì có những biến đổi đột ngột, mạnh mẽ về cơ thể và tâm sinh lí. Thể hiện rõ nhất là sự phát triển của bộ phận sinh dục, đánh dấu giai đoạn hình thành giới tính.Vì vậy việc giữ vệ sinh cơ thể đặc biệt là bộ phận sinh dục cần được chú ý. Hàng ngày chúng ta đi đại, tiểu tiện nhiều lần nên vùng sinh dục ngoài dễ bị bẩn vì thế cần có thói quen rửa bộ phận sinh dục ngoài bằng xà phòng tắm và nước sạch, phải thay quần áo lót hàng ngày. Quần áo lót nên chọn loại vải mềm, dễ thấm mồ hôi và mặc vừa vặn, không nên mặc quá chật hoặc quá rộng để vừa đảm bảo vệ sinh vừa dễ chịu, thoải mái trong sinh hoạt. Chúng ta cũng nên phơi quần áo lót ở những nơi thoáng gió hoặc có ánh sáng mặt trời để các vi khuẩn, nấm bị tiêu diệt hết.
 - Khi luyện tập thể thao hay lao động không nên quá sức và chú ý giữ gìn không để tổn thương đến cơ thể và cơ quan sinh dục. Cũng không nên lạm dụng các loại nước hoa, mĩ phẩm  mà nên tắm gội, thay quần áo và rửa mặt thường xuyên bằng nước sạch. Tuyệt đối không dùng tay bẩn nặn trứng cá vì sẽ để lại sẹo. 
 Có thể nói phần lớn các bài học thuộc chủ đề “ Con người và sức khoẻ ” đều có khả năng để lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vì thế giáo viên có nhiều cơ hội để lựa chọn, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực và có điều kiện để rút kinh nghiệm, học sinh cũng được thực hành nhiều và các kĩ năng ứng phó, xử lí các vấn đề liên quan dến sức khoẻ cũng trở nên thuần thục hơn.
Trong chủ đề “ Vật chất và năng lượng” ;“ Môi trường và tài nguyên” các địa chỉ để tích hợp giáo dục kĩ nănh sống tuy có ít hơn song các kĩ năng sống cần được giáo dục trong các chủ đề này lại thiết yếu và quan trọng không kém. Các kĩ năng đó không chỉ giúp các em hoàn thiện về nhân cách, lối sống bản thân, trở thành người có chính kiến, có bản lĩnh, lập trường vững vàng mà còn giúp các em thực hiện tốt trách nhiệm đối với cộng đồng, đất nước .
 Ví dụ Bài 48 : An toàn và tránh lãng phí khi sử dụng điện.
 Trong bài học này, các kĩ năng sống cơ bản cần được giáo dục cho học sinh là:
 + Kĩ năng ứng phó, xử í tình huống (có người bị điện giật, dây điện bị đứt, ) 
 + Kĩ năng bình luận đánh giá về sử dụng điện.
 + Kĩ năng ra quyết định và đảm nhận trách nhiệm về việ

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_tro.doc