Sáng kiến kinh nghiệm Cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu qua bài Vội vàng

Sáng kiến kinh nghiệm Cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu qua bài Vội vàng

 Thơ Mới (1932 - 1945) là bước phát triển quan trọng làm nên cuộc cách mạng trong tiến trình của thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ Mới đưa thơ ca Việt Nam đạt đến hiện đại cả về mặt biểu hiện cũng như cảm hứng thơ ca. Trong vòng mười lăm năm phát triển, thơ Mới đạt được những thành tựu lớn góp phần vào sự phát triển nền thơ ca nói riêng, nền văn học dân tộc nói chung. Một trong những thành tựu của thơ ca nói chung, thơ Mới nói riêng phải kể tới cái Tôi trữ tình.

Xuân Diệu - một tài năng lớn - gương mặt sáng giá của phong trào thơ mới, đại biểu xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Xuân Diệu xuất hiện như một đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Mỗi tác phẩm của ông là một sáng tạo độc đáo, riêng biệt, thể hiện rõ cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Thông qua sản phẩm tinh thần ấy, nhà thơ thể hiện một nhân sinh quan có ý nghĩa tiến bộ về con người, về cuộc đời.

Sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu trải dài theo số phận cuộc đời ông, Ông đã bộc lộ trong thơ cái tôi trữ tình phong phú và độc đáo. Thơ Xuân Diệu luôn thể hiện rõ nhất ý thức cá nhân đậm đà, sâu sắc, những xúc động suy tư, cảm nhận khát khao,. của một con tim tràn ngập tình yêu với cuộc đời. Nét độc đáo đó khiến cho mỗi thi phẩm của Xuân Diệu là một tiếng lòng không thể trộn lẫn. "Vội vàng" trích từ tập "Thơ thơ" - chương trình Ngữ văn cơ bản lớp 11 tập II là tác phẩm nghệ thuật đặc sắc làm nên tên tuổi Xuân Diệu đã thể hiện một cái tôi trữ tình thật mới mẻ và cũng hết sức độc đáo.

Từ niềm tự hào sâu sắc về nhà thơ góp phần làm nên diện mạo thơ ca dân tộc, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu qua thực nghiệm năm học 2015 - 2016: "Cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu qua bài Vội vàng" (Chương trình Ngữ văn 11 - Tập II - Ban cơ bản) - Tiết 78 - 79 lớp 11A, 11C, trường THPT nơi tôi công tác.

 

doc 21 trang thuychi01 18542
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu qua bài Vội vàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1. 1. Lí do chọn đề tài:
 Thơ Mới (1932 - 1945) là bước phát triển quan trọng làm nên cuộc cách mạng trong tiến trình của thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ Mới đưa thơ ca Việt Nam đạt đến hiện đại cả về mặt biểu hiện cũng như cảm hứng thơ ca. Trong vòng mười lăm năm phát triển, thơ Mới đạt được những thành tựu lớn góp phần vào sự phát triển nền thơ ca nói riêng, nền văn học dân tộc nói chung. Một trong những thành tựu của thơ ca nói chung, thơ Mới nói riêng phải kể tới cái Tôi trữ tình.
Xuân Diệu - một tài năng lớn - gương mặt sáng giá của phong trào thơ mới, đại biểu xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Xuân Diệu xuất hiện như một đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Mỗi tác phẩm của ông là một sáng tạo độc đáo, riêng biệt, thể hiện rõ cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Thông qua sản phẩm tinh thần ấy, nhà thơ thể hiện một nhân sinh quan có ý nghĩa tiến bộ về con người, về cuộc đời. 
Sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu trải dài theo số phận cuộc đời ông, Ông đã bộc lộ trong thơ cái tôi trữ tình phong phú và độc đáo. Thơ Xuân Diệu luôn thể hiện rõ nhất ý thức cá nhân đậm đà, sâu sắc, những xúc động suy tư, cảm nhận khát khao,... của một con tim tràn ngập tình yêu với cuộc đời. Nét độc đáo đó khiến cho mỗi thi phẩm của Xuân Diệu là một tiếng lòng không thể trộn lẫn. "Vội vàng" trích từ tập "Thơ thơ" - chương trình Ngữ văn cơ bản lớp 11 tập II là tác phẩm nghệ thuật đặc sắc làm nên tên tuổi Xuân Diệu đã thể hiện một cái tôi trữ tình thật mới mẻ và cũng hết sức độc đáo. 
Từ niềm tự hào sâu sắc về nhà thơ góp phần làm nên diện mạo thơ ca dân tộc, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu qua thực nghiệm năm học 2015 - 2016: "Cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu qua bài Vội vàng" (Chương trình Ngữ văn 11 - Tập II - Ban cơ bản) - Tiết 78 - 79 lớp 11A, 11C, trường THPT nơi tôi công tác.
1. 2. Mục đích nghiên cứu:
 Với đề tài : "Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu qua bài Vội vàng" - Tiết 78 - 79, người viết mong muốn có thể chỉ ra các đặc điểm của cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu qua thi phẩm "Vội vàng" và những phương thức biểu hiện của cái tôi trữ tình nhằm khẳng định thêm về quan niệm thơ Xuân Diệu để từ đó có thể nhìn nhận, đánh giá lại một cách toàn diện và đúng đắn hơn phong cách sáng tạo của một nhà thơ ở chặng đường có ý nghĩa quyết định đến cả cuộc đời thơ. 
 Đề tài cũng chứng minh cụ thể hơn nhận định của nhà phê bình Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: "Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới".
 Chọn đề tài này sẽ phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy Thơ Xuân Diệu nói chung và thi phẩm "Vội vàng" nói riêng trong chương trình Ngữ văn phổ thông - nhất là chương trình Ngữ văn 11 ban cơ bản. 
1. 3. Đối tượng nghiên cứu:
 Đề tài "Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu qua bài thơ Vội vàng", chúng tôi sẽ tìm hiểu vấn đề qua hai tập thơ nổi tiếng của Xuân Diệu: "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió", đặc biệt là thi phẩm "Vội vàng" được trực tiếp giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 11 ban cơ bản.
 Đề tài được trực tiếp áp dụng ở các lớp 11A, 11C, của trường phổ thông chúng tôi đang trực tiếp giảng dạy.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
 Đề tài này chúng tôi sẽ kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, từ nhiều góc độ và cấp độ khác nhau để phát hiện rõ vấn đề. Chúng tôi có thể kể tên các phương pháp tiêu biểu sau: 
1.4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống:
 Để tìm hiểu cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu, chúng tôi sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống các sáng tác của Xuân Diệu để từ đó đánh giá, khái quát về đặc trưng của cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám.
1. 4.2. Phương pháp phân tích tổng hợp:
 Phương pháp phân tích tổng hợp nhằm soi sáng cho những nhận định chung. Nhờ phương pháp này mà quá trình tìm hiểu đặc điểm của cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu sẽ nêu và phân tích một cách xác đáng dẫn chứng cụ thể.
1. 4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu:
 So sánh đối chiếu là phương pháp giúp cho đề tài trở nên phong phú. Chúng ta có thể đối chiếu so sánh cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu với cái Tôi trữ tình của một số nhà thơ khác cùng thời từ đó rút ra cái nhìn cụ thể, chính xác về cái Tôi trữ tình thơ Xuân Diệu nhất là qua thi phẩm "Vội vàng".
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
2.1.1. Cái "Tôi" trữ tình là gì?
 Thơ ca muôn đời là tấm gương phản chiếu, là tấc lòng của thi nhân. Ở đó, nhà thơ có thể bộc lộ nhiều cung bậc cảm xúc của tâm trạng, những cảm nhận về thiên nhiên, con người và cuộc sống. Trong thơ xưa, cảm xúc của các nhà thơ thường bị bó buộc theo những quy tắc gò bó cho nên bản ngã của các nhà thơ dường như bị thủ tiêu. Cái tôi cá nhân ít có điều kiện được bộc lộ hoặc có có thì cũng chỉ bộc lộ một cách dè dặt ở giai đoạn sau như trong thơ của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,...
 Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cái tôi bắt đầu được thể hiện một cách rõ nét hơn như Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu là người dạo lên những nốt nhạc đầu tiên "mở đầu cho cuộc hoà nhạc tân kì đương sắp sửa". Thơ Tản Đà bùng lên khát vọng thiết tha, "nỗi khát vọng thoát li ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, khô khan của khuôn sáo". Tuy nhiên sự trỗi dậy của cái tôi trữ tình thật sự rõ nét phải bắt đầu từ thế kỷ XX mà đặc biệt ở phong trào thơ Mới thì cái "Tôi" trữ tình rộ lên một cách mãnh liệt.
 Cái "Tôi" trữ tình là sự thể hiện nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần độc đáo mang tính thẩm mỹ nhằm truyền đạt tinh thần đến bạn đọc.
2.1.2. Cái "Tôi" trữ tình trong thơ Mới:
 Trong sự đụng độ lịch sử với văn hoá, văn học Phương Tây, thơ Mới ra đời đã mang theo cái tôi cá nhân mà trước đó chưa từng có: "Ngày thứ nhất - ai biết đích ngày nào - chữ Tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực sự bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm cá nhân chưa từng thấy ở xứ này". Như vậy thơ mới đã tạo nên một bước ngoặt trong thi pháp và tư duy thơ, làm xuất hiện nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo: "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần hồn thơ mở rộng như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu".
 Khi xuất hiện, cái "Tôi" trữ tình trong thơ Mới đã làm thay đổi diện mạo văn học nhưng ngay từ khi mới ra đời, cái tôi ấy là cái tôi tiểu tư sản xa rời quần chúng nên nó rơi vào tình trạng cô đơn không lối thoát. Với thái độ thoát li hiện thực và triết lí sống chủ nghĩa cá nhân, các nhà thơ mới càng ngày càng đi vào con đường bế tắc: " Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thưở trước". Vì cô đơn nên cái Tôi đã tự tìm cho mình một lối thoát: "Thế Lữ thoát lên tiên hoặc mơ ước hình ảnh người chinh phu dấn bước truân chuyên khắp hải hồ; Huy Thông đi tìm những giấc mộng anh hùng trong lịch sử; Xuân Diệu mê man trong tình yêu say đắm; Thâm Tâm ấp ủ giấc mộng người li khách; Huy Cận đi vào vũ trụ trăng sao còn Lưu Trọng Lư ngoảnh mặt lại với mọi đau khổ để hướng cái nhìn vào một thế giới mơ màng".
 Trốn vào tình yêu là con đường phổ biến của cái Tôi trong thơ Mới. Tình yêu là nguồn cảm hứng, một cuộc tìm kiếm, một trò chơi ú tim. Rất nhiều bài thơ của Hàn Mạc Tử gắn với tên tuổi của Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Thương Thương; Lưu Trọng Lư cũng cho rằng tác phẩm của mình có bóng dáng của người đàn bà. Còn trong thơ Huy Cận, tình yêu như suối, phảng phất đôi chút thần tiên, mơ mộng. Nhưng có lẽ trong các nhà thơ Mới, Xuân Diệu là người đi sâu vào thế giới của yêu đương. Chính lòng say mê rạo rực, khát vọng sống dào dạt đã tạo ra cái Tôi riêng rất Xuân Diệu.
2.1.3. Cái Tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu:
 Thơ ca muôn đời luôn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ thể trữ tình trước cuộc đời: "Mây gió cỏ hoa xinh tươi kì diệu đến đâu hết thảy cũng đều tự trong lòng mình mà ra" (Ngô Thì Nhậm). Phong trào thơ Mới ra đời đã khẳng định được cái Tôi cá nhân, trong đó, Xuân Diệu được xem là người phát ngôn đầy đủ nhất cho tư tưởng cá nhân: "Không triền miên trong sầu mộng như Lưu Trọng Lư, không ấp ủ nhiều giấc mộng chinh phu như Thế Lữ hay hoài vọng xa xăm như Huy Thông". Ở Xuân Diệu, cái Tôi được ý thức sâu sắc, mới mẻ, nó mạnh dạn bày tỏ những tâm tư thầm kín, những xúc cảm yêu đương, những hoài vọng hưởng thụ cuộc đời trần thế. Cái Tôi trong thơ Xuân Diệu không hề ngần ngại phô bày một cách trực tiếp qua niềm khát khao giao cảm với thiên nhiên, cuộc đời trần thế.
2.2. Thực trạng vấn đề:
2.2. 1. Thực trạng chung.
 Ngày nay, xu thế chung của xã hội là phát triển các ngành khoa học kĩ thuật. Dưới mái trường phổ thông, các em học sinh thường chú trọng đến bộ môn khoa học tự nhiên hơn là bộ môn khoa học xã hội. Dù hôm nay môn Ngữ văn rất quan trọng với kỳ thi vượt cấp và kỳ thi tốt nghiệp quốc gia nhưng đại đa số học sinh vẫn chưa quen với sự ngang hàng giữa bộ môn khoa học xã hội với bộ môn khoa học tự nhiên. Trường THPT nơi tôi đang công tác đi từ trường Bán công lên Công lập nên tỉ lệ học sinh khá giỏi chưa cao so với trường bạn. Đa số học sinh dự tuyển vào trường có học lực từ khá trở xuống nên có nhiều hạn chế trong học tập. Dù có những học sinh vốn có năng khiếu về văn học, yêu thích văn chương nhưng vẫn vô cùng khó khăn trong việc tiếp cận với bộ môn khoa học giàu tính nhân văn này. Bởi vậy, mỗi giờ học văn diễn ra trong tâm thế còn thờ ơ đón nhận của học sinh và trong nỗi niềm trăn trở của người thầy.
2.2. 2. Thực trạng đối với giáo viên
 Trong đổi mới phương pháp dạy học văn, người giáo viên nhất thiết phải chú trọng dạy theo thể loại. Dạy thơ trữ tình phải dạy cho ra được tâm trạng, cảm xúc, ngôn ngữ, nhịp điệu, hình ảnh chứa đựng trong tác phẩm. Dạy tác phẩm tự sự phải quan tâm tới nhân vật, cốt truyện, chi tiết đặc sắc. Dạy tác phẩm kịch phải chú ý tới xung đột kịch thể hiện qua mâu thuẫn trong ngôn ngữ, hành động của từng nhân vật.
 Đến với "Vội vàng" của Xuân Diệu - một thi phẩm tiêu biểu cho phong trào thơ Mới dù rất nhiều sách báo và tiểu luận viết về thi phẩm nhưng mỗi công trình đi theo một hướng tiếp cận mới. Tiếp cận văn bản "Vội vàng" theo hướng bàn về cái "Tôi" trữ tình còn đang là vấn đề khó khăn đối với giáo viên phổ thông hiện nay. Đây là hướng tiếp cận đòi hỏi chúng ta phải có kiến thức sâu rộng và cách cảm nhận tinh tế để chỉ ra cái "Tôi" trữ tình cũng như đặc điểm của cái "Tôi" trữ tình và những phương thức biểu hiện của cái "Tôi" trữ tình đó. 2.2. 3. Thực trạng đối với học sinh
 Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám góp phần lớn vào sự thành công của phong trào thơ Mới. Xuân Diệu mang theo nguồn cảm hứng yêu đời, dào dạt chưa từng có. Mỗi thi phẩm của ông đều thổi bùng lên khát vọng sống, khát vọng hưởng thụ. "Vội vàng" là thi phẩm không nằm ngoài cảm xúc đó. Khi học đến "Vội vàng" của Xuân Diệu, học sinh đều cho rằng tác phẩm hay nhưng tiếp nhận quả là vấn đề khó khăn. Việc tiếp cận một thi phẩm thơ đã khó đây lại là thi phẩm nổi tiếng của một cây bút tài năng.
 Trước thực trạng này, chúng ta cần phải tìm cách làm xích lại gần hơn nữa giữa đối tượng khám phá với đối tượng tiếp nhận. Điểm tương đồng, sự gặp gỡ giữa chủ thể trữ tình trong bài thơ với người đọc chính là sự khẳng định cái tôi tài hoa nghệ sĩ của một tâm hồn đầy yêu mến, tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người giữa trốn trần gian lặng lẽ này.
2.3. Các giải pháp thực hiện:
2.3.1. Hướng dẫn học sinh nắm được đặc trưng của cái "Tôi" trữ tình trong thơ Xuân Diệu:
 Đó là cái tôi trữ tình luôn khao khát giao cảm với thiên nhiên, tình yêu, cuộc sống: Thế Lữ từng nhận xét: "Xuân Diệu là người sinh ra để mà sống", "Sống đến cuống quýt, vội vàng để tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình" (Hoài Thanh):
 Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
 Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
 (Giục giã)
 Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu là thế giới với biết bao sự vận động đa dạng của cảm xúc:
 Là thi sĩ nghĩa là du với gió
 Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
 (Cảm xúc)
 Xuân Diệu luôn khao khát được sống mãi với mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Xuân trong thơ Xuân Diệu ngồn ngộn hương xuân, tình xuân:
 Xuân của đất trời nay mới đến
 Trong tôi xuân đã đến lâu rồi
 (Nguyên Đán)
 Bên cạnh thơ viết về Xuân, Xuân Diệu còn để lại những vần thơ viết về mùa Thu rất riêng biệt. Khả năng hoá thân của nhà thơ vào thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá mùa Thu hết sức tinh tế:
 Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
 Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
 Đây mùa thu tới mùa thu tới
 Với áo mơ phai dệt lá vàng
 (Đây mùa thu tới)
 Thế giới thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu không còn là những vật vô tri, vô giác mà nó trĩu nặng tâm tư hoặc tưng bừng sức sống. Là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, thi nhân đã đón nhận thiên nhiên bằng nhiều giác quan:
 Những luồng run rẩy rung rinh lá
 Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
 Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
 Non xa khởi sự nhạt sương mờ
 Đã nghe rét mướt luồn trong gió
 Đã vắng người sang những chuyến đò
 (Đây mùa thu tới)
 Ở Xuân Diệu còn là cái tôi khao khát tình yêu và sự sống. Không phải ngẫu nhiên Xuân Diệu được xem là "Thi sĩ của tình yêu", và "nhà thơ tình kiệt xuất" (Lê Đình Kỵ). Bản thân Xuân Diệu từng nói: "Đặc sản của tôi là thơ tình". Xuân Diệu mang trong mình niềm ao ước được tận hưởng mọi vẻ đẹp của đời sống trần thế nên nhà thơ chọn tình yêu để gửi gắm niềm yêu đời, khát vọng sống, khát vọng yêu đương nồng nàn tha thiết:
 Làm sao sống được mà không yêu
 Không nhớ không thương một kẻ nào
 (Bài thơ tuổi nhỏ).
 Xuân Diệu xem tình yêu như một lẽ sống. Tình yêu vừa có cái cao khiết của tâm hồn vừa có cái cường tráng lành mạnh của nhục thể. Đó là tình yêu của con người giữa cuộc đời chứ không còn là thứ tình yêu sách vở nên nó mãnh liệt, vồ vập, cuống quýt:
 Yêu là chết ở trong lòng một ít
 Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
 Cho đi nhiều nhận chẳng được bao nhiêu
 Người ta nỡ phụ tình trong chốc lát
 (Yêu)
 Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt
 Hãy khăng khiết những cặp môi gắn chặt
 (Xa cách)
 Những con người yêu tha thiết, yêu đến độ cuồng si ấykhông phải lúc nào cũng tìm được vô biên, tuyệt đích. Xuân Diệu tự ví mình như kẻ "dấu sẵn một linh hồn hiu quạnh" để nhiều lúc nhận ra sự hờ hững giữa cuộc đời giống như "chiếc thuyền không bến đỗ", bơ vơ như con chim không tổ, yêu điên cuồng mà chỉ nhận khổ đau:
 Lòng ta là một cơn mưa lũ
 Đã gặp lòng em là lá khoai
 (Nước đổ lá khoai)
 Dù vui hay buồn, thơ Xuân Diệu đều là tiếng lòng của một trái tim nồng nàn, tha thiết với tình yêu cuộc sống trần thế:
 Trời cao trêu nhử chén xanh êm
 Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
 Nên lúc môi ta gần miệng thắm
 Trời ơi ta muốn uống hồn em
 (Vô biên) 
 Thơ Xuân Diệu còn là thơ của cái "Tôi" trữ tình buồn, cô đơn. Đây là thứ tâm bệnh chung của chủ nghĩa lãng mạn. Thơ Mới cũng không nằm ngoài quỹ đạo ấy. Bất lực và bế tắc trước hoàn cảnh thực tại, các nhà thơ lãng mạn chỉ biết lẫn trốn vào cái "Tôi" cá nhân và làm ngơ trước những biến động của đời sống xã hội. Cách giải quyết ấy càng khiến họ rơi vào bi kịch: "Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận" (Hoài Thanh). Hồn thơ Xuân Diệu cũng không tránh được nỗi buồn và sự cô đơn ấy. Vốn là một tâm hồn đa cảm, không ảo não như Huy Cận, không lâm vào số phận đau đớn như Hàn Mặc Tử, không tuyệt vọng như Vũ Hoàng Chương,... thơ Xuân Diệu vừa đắm đuối nồng nàn nhưng cũng không ngăn cản được cảm giác "buồn tịch mịch ngay trong những điều ấm nóng, reo vui" (Thế Lữ):
 Hôm nay trời nhẹ lên cao
 Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
 (Chiều)
 Anh một mình nghe tất cả buổi chiều
 Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh
 (Tương tư chiều)
 Là người tha thiết với cuộc đời, với tình yêu nhưng hơn hết càng khăng khít gắn bó càng thấy mình cô đơn. Cô đơn bao giờ cũng buồn nhưng buồn chưa hẳn đã cô đơn. Nỗi buồn có thể chia sẻ nhưng nỗi cô đơn thì không thể chia sẻ. Mặc cho nỗi cô đơn dù lớn đến mấy cũng không đưa Xuân Diệu đến chỗ bi quan, bế tắc. Người đọc vẫn cảm nhận được trong hồn thơ Xuân Diệu một cái tôi cá nhân với khát vọng sống mãnh liệt, càng bị từ chối càng bám chặt vào cõi nhân gian:
 Mau với chứ vội vàng lên với chứ
 Em ơi em tình non sắp già rồi
 (Giục giã)
2.3.2. Cái "Tôi" trữ tình trong bài "Vội vàng" - Xuân Diệu.
2.3.2.1. Cái "Tôi" tràn đầy cảm xúc lãng mạn:
 Cái tôi đó được thể hiện qua cái nhìn đắm say cảnh vật đến độ:
 Tôi muốn tắt nắng đi
 Cho màu đừng nhạt mất
 Tôi muốn buộc gió lại
 Cho hương đừng bay đi.
 Mong muốn "tắt nắng" và "buộc gió" để giữ màu, giữ hương đất trời, cuộc sống. Xuân Diệu có khát vọng ngông cuồng, cháy bỏng này bởi dường như thi sĩ đắm đuối nhận ra trong đất trời có cả sắc hương tình tứ của lứa đôi: ong bướm tuần tháng mật, yến anh khúc tình si, mỗi sớm mai thần vui hằng gõ cửa, tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Tất cả như mời gọi trái tim thi sĩ si tình.
2.3.2.2. Cái "Tôi" rất mới mẻ trong quan niệm thẩm mỹ, thời gian, tuổi trẻ, hạnh phúc, tình yêu.
 Với cặp mắt xanh non, biếc rờn, Xuân Diệu phát hiện ra thiên đường trên mặt đất, tồn tại ngay trong tầm tay, ngay trong hiện tại:
 Của ong bướm này đây tuần tháng mật
 Này đây hoa của đồng nội xanh rì
 Này đây lá của cành tơ phơ phất
 Của yến anh này đây khúc tình si. 
 Khám phá thiên đường tồn tại ngay giữa trần gian, ngay trong hiện tại như là một thông điệp đến mỗi chúng ta hãy biết hưởng thụ chính đáng những gì mà cuộc sống trần gian ban tặng, hãy sống mãnh liệt, sống hết mình.
 Xuân Diệu không chỉ khám phá ra thiên đường trên mặt đất mà ông còn khẳng định vị chúa tể của thiên đường ấy là con người. Xuân Diệu nhìn con người giữa trần thế và tình yêu là chuẩn mực cho cái đẹp nơi trần thế:
 Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
 Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
 Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
 Thi sĩ lấy tuổi trẻ làm thước đo của thời gian. Mà trong quan niệm của nhà thơ, thời gian một đi không trở lại, thời gian mất mát. Trong quan niệm ấy, Xuân Diệu khẳng định: Thời gian quý giá nhất của đời người là tuổi trẻ, hạnh phúc lớn nhất của của tuổi trẻ là được sống, được yêu:
 Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
 Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
 Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
 Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
 Không cho dài thời trẻ của nhân gian
 Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
 Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
 Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
 Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
 Đây là quan niệm mới mẻ, tích cực về nhân sinh thấm đẫm tinh thần nhân văn sâu sắc.
2.3.2.3. Cái "Tôi" ý thức cá nhân mạnh mẽ: ham sống, yêu đời, khát khao giao cảm với đời mãnh liệt: 
 Ta muốn ôm
 Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
 Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
 Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
 Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
 Và non nước, và cây, và cỏ rạng
 Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
 Cho no nê thanh sắc của thời tươi
 Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
2.3.2.4. Cái "Tôi" độc đáo thể hiện qua hình thức nghệ thuật: Thể thơ, giọng điệu, hình ảnh, từ ngữ,....
 Thể thơ trữ tình tự do giúp cho cách thể hiện nội dung cảm xúc theo cái "Tôi" trữ tình khi vui, khi suy tư, lúc hối hả, giục giã,...
 Xuất hiện những hình ảnh thơ mới mẻ: "Và này đây ánh sáng chớp hàng mi", "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần",...đầy cảm giác, những từ ngữ đầy táo bạo: "Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi"; nhiều điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp: "Tôi muốn", "này đây", "của này đây",....tạo nên giọng điệu thơ dồn dập, hối hả, cuồng nhiệt như mong mỏi của chính cái "Tôi" trữ tình vậy.
2.3.3. Kiểm định qua bài dạy cụ thể: 
Tiết: 78- 79: 	VỘI VÀNG
 	- Xuân Diệu - 
A. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT:
Giúp HS:
1.Kiến thức: 
- Giúp HS cảm nhận nét đẹp trong tâm hồn nhà thơ và một quan niệm sống yêu đời, kh

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_cai_toi_tru_tinh_trong_tho_xuan_dieu_q.doc