Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi Trường mầm non Hà Bắc

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi Trường mầm non Hà Bắc

“Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất ở trường mầm non. Hoạt động này không những nhằm giúp trẻ hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ như nghe, nói, tiền đọc và tiền viết, mà còn giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, nhận thức, tình cảm”. [1]

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng đối với con người đặc biệt đối với trẻ mầm non. Trẻ còn non nớt vụng về cần được chăm sóc cả về vật chất lẫn tinh thần, trong giai đoạn trẻ 25 - 36 tháng trẻ đang tập nói giáo viên là người quan trọng trong việc dạy và hướng dẫn trẻ, giúp trẻ có những kiến thức sơ đẳng bước vào cuộc sống, dạy trẻ biết nói đặc điểm, bộ phận trên bản thân, tên người thân trong gia đình, biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp với hoàn cảnh như vui buồn, biết cách sử lý tình huống trong giao tiếp.

Ngôn ngữ giúp gắn kết tâm hồn trẻ thơ gắn bó với thế giới bên ngoài gần gũi hơn cả là trẻ nói lên nhu cầu của bản thân như ăn, ngủ, vệ sinh, một số bộ phận trên cơ thể, những người thân trong gia đình. Trẻ thể hiện tình cảm với mọi người bên ngoài như lễ phép chào hỏi, trò chuyện cùng người lớn.

 Người lớn và đặc biệt là giáo viên giúp trẻ nói những lời nói lịch sự, văn minh cách sử lý tình huống trong giao tiếp như làm sai điều gì phải xin lỗi khi nhận được giúp đỡ phải biết cảm ơn hay muốn có đồ gì của bạn phải hỏi mượn bạn không tự ý lấy của bạn,

‘‘Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ đó là phương tiện để trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh và phát triển tình cảm những giao lưu xúc cảm tích cực. Tuy nhiên ngôn ngữ của trẻ còn gặp những khó khăn vốn từ của trẻ còn ít, trẻ còn phát âm chưa chuẩn cách diễn đạt câu của trẻ còn chưa lưu loát, chưa rõ ràng nhưng nhu cầu ngôn ngữ của trẻ ngày càng cao vì đây là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ của trẻ”[1]

Khi giao tiếp với người lớn trẻ nhận được những sắc thái tình cảm khác nhau qua giọng nói, nét mặt, nụ cười giúp trẻ có thể hiện hành vi đúng hay sai của mình. Bằng con đường đó Trong quá trình giao tiếp người lớn uốn nắn trẻ hình thành những thói quen theo chiều hướng tốt dần thể hiện những cảm xúc khác nhau của mình và có cách ứng sử đúng đắn.

 

doc 26 trang thuychi01 9035
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi Trường mầm non Hà Bắc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
Tên đề mục
Trang
Mục lục
1
1
Mở đầu
2 
1.1
Lý do chọn đề tài
2
1.2
Mục đích nghiên cứu
3
1.3
 Đối tượng nghiên cứu.
3
1.4
Phương pháp nghiên cứu
3
2
Nội dung của sáng kiến 
3
2.1
Cơ sở lý luận 
3
2.2
Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
4
2.2.1
Thực trạng chung
4
2.2.2
Thực trạng đối với giáo viên
5
2.2.3
Thực trạng đối với học sinh.
5 
2.2.4
Kết quả thực trạng.
5
2.3
Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
5
Giải pháp1 : Xây dựng môi trường ngôn ngữ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
5 - 7
Giải pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ qua các hoạt động chơi tập có chủ định.
7 – 10
Giải pháp 3 : Giáo dục ngôn ngữ thông qua các trò chơi, giờ chơi
10 - 12
Giải pháp 4: Giáo dục ngôn ngữ mọi lúc, mọi nơi
12 - 13
Giải pháp 5: Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ
13 - 15
Giải pháp 6 : Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ
15 - 17
2.4
Hiệu quả của sáng kiến
17 - 19
3
Kết luận và kiến nghị
19
3.1
Kết luận
19 
3.2
Kiến nghị
20
Tài liệu tham khảo
21
Danh mục sáng kiến đã được đánh giá xếp loại
22
Phụ lục
23- 25
1. MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất ở trường mầm non. Hoạt động này không những nhằm giúp trẻ hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ như nghe, nói, tiền đọc và tiền viết, mà còn giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, nhận thức, tình cảm”.
 [1]
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng đối với con người đặc biệt đối với trẻ mầm non. Trẻ còn non nớt vụng về cần được chăm sóc cả về vật chất lẫn tinh thần, trong giai đoạn trẻ 25 - 36 tháng trẻ đang tập nói giáo viên là người quan trọng trong việc dạy và hướng dẫn trẻ, giúp trẻ có những kiến thức sơ đẳng bước vào cuộc sống, dạy trẻ biết nói đặc điểm, bộ phận trên bản thân, tên người thân trong gia đình, biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp với hoàn cảnh như vui buồn, biết cách sử lý tình huống trong giao tiếp.
Ngôn ngữ giúp gắn kết tâm hồn trẻ thơ gắn bó với thế giới bên ngoài gần gũi hơn cả là trẻ nói lên nhu cầu của bản thân như ăn, ngủ, vệ sinh, một số bộ phận trên cơ thể, những người thân trong gia đình. Trẻ thể hiện tình cảm với mọi người bên ngoài như lễ phép chào hỏi, trò chuyện cùng người lớn.
 Người lớn và đặc biệt là giáo viên giúp trẻ nói những lời nói lịch sự, văn minh cách sử lý tình huống trong giao tiếp như làm sai điều gì phải xin lỗi khi nhận được giúp đỡ phải biết cảm ơn hay muốn có đồ gì của bạn phải hỏi mượn bạn không tự ý lấy của bạn,
‘‘Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ đó là phương tiện để trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh và phát triển tình cảm những giao lưu xúc cảm tích cực. Tuy nhiên ngôn ngữ của trẻ còn gặp những khó khăn vốn từ của trẻ còn ít, trẻ còn phát âm chưa chuẩn cách diễn đạt câu của trẻ còn chưa lưu loát, chưa rõ ràng nhưng nhu cầu ngôn ngữ của trẻ ngày càng cao vì đây là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ của trẻ”[1]
Khi giao tiếp với người lớn trẻ nhận được những sắc thái tình cảm khác nhau qua giọng nói, nét mặt, nụ cười giúp trẻ có thể hiện hành vi đúng hay sai của mình. Bằng con đường đó Trong quá trình giao tiếp người lớn uốn nắn trẻ hình thành những thói quen theo chiều hướng tốt dần thể hiện những cảm xúc khác nhau của mình và có cách ứng sử đúng đắn.
 “Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ có những đặc điểm khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn tuổi của trẻ. Việc nắm vững những đặc điểm này sẽ giúp cho người giáo viên có được những kiến thức và kỹ năng tốt nhất trong quá trình hỗ trợ trẻ phát triển ngôn ngữ, đặt ra những phương pháp phù hợp, linh hoạt để đạt được những mục tiêu cho giai đoạn nền móng sau này”.[1]
Ở mục 1.1: Đoạn “ phát triển..tình cảm”;“Ngôn ngữ là..ngôn ngữ của trẻ”; “Sự phát triển sau này” tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số [1]
Xuất phát từ tầm quan trọng trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 25 - 36 tháng để trang bị hành trang cho trẻ vào cuộc sống giúp trẻ pháp triển một cách toàn diện. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp nhà trẻ tôi luôn mong muốn làm thế nào để phát triển ngôn ngữ cho trẻ chính vì vậy tôi nghiên cứu sâu vào đề tài “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi Trường mầm non Hà Bắc”
Thông qua đề tài này tôi muốn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách dễ dàng từ 
đó phát triển nhận thức, phát triển đạo đức, phát triển khả năng tư duy, sáng tạo phát triển giao lưu xúc cảm, phát triển thẩm mỹ cho trẻ.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng việc tổ chức các hình thức giáo dục Ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 25 - 36 tháng tuổi trường mầm non Hà Bắc
Nghiên cứu thực hiện “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ trẻ 25 - 36 tháng tuổi trường mầm non Hà Bắc” thông qua các hoạt động trong ngày.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi 
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: 
Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
	* Phương pháp tổng hợp lý thuyết
Nghiên cứu nhiều tài liệu tham khảo có liên quan đến phát triển ngôn ngữ từ đó nắm bắt được tầm quan trọng của ngôn ngữ và có hiểu biết thêm về vấn đề ngôn ngữ của trẻ kết hợp với kinh nghiệm của bản thân từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
* Phương pháp điều tra
Bản thân đã tiến hành điều tra khảo sát kỹ năng nghe, kỹ năng nói và khả năng làm quen với sách của trẻ nhà trẻ 25 - 36 tháng tuổi.
* Phương pháp thực nghiệm 
Thực nghiệm các giải pháp cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi tại lớp mình.
* Phương pháp trao đổi, trò chuyện.
Được thực hiện qua trò chuyện với trẻ, trao đổi với phụ huynh, trao đổi với bạn bè đồng nghiệp để thu thập thông tin.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lý luận:
‘‘Giai đoạn trẻ từ 0 - 3 tuổi là giai đoạn phát triển ngôn ngữ đặc biệt của trẻ.
 Giai đoạn này có những đặc điểm rất riêng biệt, không bao giờ lặp lại ở bất cứ một giai đoạn nào khác và cũng có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ sự phát triển ngôn ngữ lâu dài về sau. Nắm chắc các đặc điểm ngôn ngữ của trẻ sẽ giúp cho cô giáo chủ động và tự tin trong quá trình chăm sóc và giúp đỡ trẻ phát triển ngôn ngữ một cách bình thường, đặc biệt là những trẻ có khó khăn hay hơi chậm trong lĩnh vực này”
.[1]
2Ở mục 2.2: Đoạn “ Giai đoạn.....tình cảm của trẻ” tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số [1]
‘‘Dân gian ta có câu “trẻ lên ba cả nhà học nói” Hay “ Thỏ thẻ như trẻ lên ba”, Như vậy từ xa xưa chúng ta đã biết ngôn ngữ của trẻ có sự phát triển mạnh mẽ ở độ tuổi từ 2 - 3 tuổi “ Nhờ có sự hoàn thiện các trung thu ngôn ngữ ở vỏ não, tai nghe - cơ quan tiếp nhận ngôn ngữ và cơ quan phát âm đến thời kỳ hoàn thiện” (Nguyễn Ánh Tuyết 1996). Nhiều trẻ nói rất rõ mạch lạc, Tròn vành rõ tiếng các từ, kể cả từ khó. Vốn từ của trẻ tăng nhanh, gấp 5 lần năm thứ hai tức là khoảng 1000 từ. theo ThS Nguyễn Thị Phương Nga các từ trẻ sử dụng có thể phân chia một cách ước lệ như sau: 60% là danh từ: 20 %là động từ: 10% danh từ riêng, ngoài ra còn một số loại từ khác như đại từ,tính từ...
Từ “tôi” xuất hiện, đánh dấu một bước phát triển mạnh của trẻ về cá nhân, ý thức về bản thân và nhân cách. Ngôn ngữ của trẻ có âm điệu trầm bổng dễ thương, có nhấn trọng âm về biểu thị tình cảm của trẻ”.[1].
Như chúng ta đã biết phát triển ngôn ngữ là phát triển phương tiện giao tiếp 
giúp trẻ cảm nhận và phản ánh lại thế giới xung quanh một cách tích cực.
 Tuổi mầm non đặc biệt là tuổi nhà trẻ là thời kỳ nhạy cảm với những từ ngữ và cảnh vật xung quanh, có thể coi đây là thời kỳ phát cảm của những cảm xúc thẩm mỹ, những cảm xúc tích cực, dễ nảy sinh khi trẻ tò mò muốn biết đó là gì? muốn tìm cách khám phá nó muốn nói ra những suy nghĩ của mình. 
Mỗi trẻ đều có một cảm nhận riêng, một cách diễn tả riêng không phải trẻ nào cũng biết cách thể hiện cảm xúc của mình qua lời nói. 
Ở lứa tuổi trẻ nhà trẻ vốn từ của trẻ còn ít, có trẻ còn chậm nói, có trẻ còn nói ngọng, cũng có trẻ do ảnh hưởng gia đình còn nói trống không, nói hỗn
Vì vậy để phát triển ngôn ngữ cho trẻ giáo viên cần tạo cho trẻ nhiều cơ hội để trải nghiệm mọi lúc mọi nơi bằng thực tế, tranh ảnh, bằng những hình ảnh động, bằng những lời nói lịch sự, văn minh. 
Giáo viên và người lớn cần hướng dẫn trẻ giúp trẻ diễn tả mọi sự vật hiện tượng bằng lời nói, để vốn từ của trẻ tăng dần sự hiểu biết của trẻ dần được mở rộng, tai nghe, trí tưởng tượng và óc sáng tạo của trẻ dần phát triển. 
Thông qua ngôn ngữ cảm xúc, xúc cảm của trẻ ở lứa tuổi này nhằm phát triển, phát triển tình cảm, đạo đức thẩm mỹ rèn luyện kỹ năng giao tiếp, mở rộng hiểu biết và phát triển thái độ đúng đắn đối với sự vật hiện tượng gần gũi.
 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
2.2.1. Thực trạng chung.
	 Năm học 2018 - 2019 tôi được nhà trường phân công phụ trách nhóm trẻ 25 - 26 tháng tuổi. Tổng số cháu 30 trong đó có 12 nữ.
	Qua nhiều năm là giáo viên chủ nhiệm nhóm trẻ tôi luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường trong việc thực hiện tốt kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ.
Tổ chuyên môn thường xuyên tổ chức thao giảng góp ý rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như khả năng sư phạm của giáo viên. Nhà trường luôn quan tâm sát sao tới việc chỉ đạo thực hiện các chuyên đề trong năm học.
Phụ huynh luôn quan tâm tạo mọi điều kiện cho cô và trẻ, thường xuyên đóng góp nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương cho cô làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các môn học và các hoạt động của trẻ.
Thực tế môi trường trong cho trẻ phát triển ngôn ngữ đã được quan tâm bổ xung qua hàng năm, Tuy nhiên để thực hiện có hiệu quả nội dung này theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm còn nhiều hạn chế.
2Ở mục 2.2: Đoạn “ Giai đoạn.....tình cảm của trẻ” tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số [1]
 Khi trực tiếp thực hiện bản thân cũng gặp không ít khó khăn. Xã Hà Bắc dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, kinh tế còn nhiều khó khăn, hơn nữa công việc của nhà nông bận rộn lôi kéo cha mẹ các cháu vào đồng áng, một phần bố mẹ đi làm xa, bố mẹ đi công ty cả ngày trẻ ở nhà với ông bà nên chưa quan tâm chăm sóc cũng như trò chuyện kích thích được sự tư duy của trẻ qua các tình huống.
2.2.2. Thực trạng đối với giáo viên.
Có trình độ đạt chuẩn, yêu nghề mến trẻ, luôn học hỏi đồng nghiệp, xem ti vi, nghiên cứu tài liệu sách báo, các tập san của bậc học Mầm non, được dự giờ tiếp thu và tích lũy kinh nghiệm, nắm bắt kịp thời các hình thức giáo dục mầm non mới áp dụng vào dạy học.
 Làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho dạy và học đầy đủ, luôn quan tâm tới việc rèn luyện những kỹ năng trong cuộc sống cho trẻ. 
Tích cực tham gia các lớp chuyên đề do phòng giáo dục tổ chức.
 Để đáp ứng được yêu cầu của giáo dục và thực hiện quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm còn nhiều hạn chế.
2.2.3 Thực trạng đối với học sinh.
Trẻ ngoan có nề nếp thói quen tốt. Trẻ rất tích cực tham gia vào các hoạt động. Biết tham gia vào các hoạt động cùng cô và các bạn.Tuy nhiên trẻ đi học còn giải rắc trong năm học chất lượng chưa đồng đều. Một số trẻ mải chơi chưa tập trung vào giờ học. Một số trẻ nhút nhát khi thể hiện ý kiến của mình trong giao tiếp. 
Một số phụ huynh vẫn chưa hiểu hết được tầm quan trọng, vị trí, vai trò của việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này.
2.2.4 Kết quả thực trạng.
Từ thực tế trên tôi đã khảo sát số trẻ trong lớp theo các nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ và có kết quả như sau:
* Kết qủa thực trạng:
STT
Nội dung đánh giá
TS
Kết quả
Đạt
Chưa đạt
SL
TL
SL
TL
1
Phát triển kỹ năng nghe 
30
26
86,7
4
13,3
2
Phát triển kỹ năng nói
30
25
83,3
5
16,7
3
Làm quen với sách
30
24
80
6
20
Nhìn vào bảng khảo sát chúng ta dễ dàng nhận thấy kết quả đạt được trên trẻ rất thấp, 
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp 25 - 36 tháng bản thân tôi thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là rất cần thiết và quan trọng xong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và nhiều môn học như truyện, thơ, nhận biết tập nói. Từ kết quả này tôi đã trăn trở tìm ra một số nguyên nhân của vấn đề và đưa ra các giải pháp như sau:
2.3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề.
Giải pháp1 : Xây dựng môi trường ngôn ngữ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
* Tạo môi trường giao lưu ngôn ngữ tích cực
“Cô tạo cho trẻ môi trường tâm lý lành mạnh để trẻ thoải mái và cởi mở khi giao tiếp với mọi người, dần trẻ cảm thấy tự tin và mạnh dạn trao đổi, biểu đạt ý kiến cá nhân”	
. [2]
3 Đoạn “cô tạo cá nhân” tác giả tham khảo tài liệu số [2]
* Xây dựng môi trường vật chất: Trực quan với đồ vật
Các góc, kệ, đồ chơi, cây cối, đồ dùng xung quanh trẻ ta nên viết chữ cho trẻ dần làm quen với môi trường ngôn ngữ tiếng việt.
Cô tạo môi trường cho trẻ bằng nhiều hình thức như môi trường trong lớp có các góc mở, sắp xếp góc lớp gọn gàng khoa học kích thích được sự tìm tòi khám phá của trẻ, các góc lớp làm nổi bật lên chủ đề đặc biệt kích thích sự hoạt động trải nghiệm của trẻ.
Đồ chơi đa dạng, phong phú để trẻ thực hành trải nghiệm, được chơi với nhau, được thực hành các vai chơi với nhau bắt chước theo những hành động của người lớn những câu nói của người lớn...
Tạo cho trẻ nghe âm thanh từ các môi trường khác nhau, âm thanh từ thiên nhiên, tiếng chim, tiếng gió, âm thanh tự tạo gõ phách, gõ sắc xô, trống, âm thanh từ tiếng các con vật trong vi deo để trẻ chú ý lắng nghe, trẻ diễn đạt lại bằng cách bắt trước tiếng kêu hoạc diễn tả lại bằng lời nói.
Xây dựng môi trường góc sách, ‘‘Thư viện’’ mi ni cô tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động như rở sách, xem tranh ảnh trong sách, từ những hình ảnh đó kích thích trẻ phát âm, nói tên hình ảnh, nhân vật đây là nền tảng đầu tiên của văn hóa làm quen với sách.
Hình ảnh 1: Môi trường góc thư viện
* Xây dựng môi trường xã hội.
4 Đoạn “ Để phát triển  tự tin rất nhiều” tác giả tham khảo TLTK số [2]
‘‘Để phát triển khả năng nghe nói cho trẻ, không gì nhanh chóng và tích cực bằng thường xuyên cho trẻ nghe - nói. Người giáo viên cần thường xuyên trò chuyện với trẻ và khích lệ trẻ nói. Khi trẻ có khó khăn hay tâm lý ngập ngừng, nhút nhát cô cần khích lệ, hỗ trợ động viên để trẻ tích cực trò truyện. Giáo viên cần tạo kênh giao tiếp thường xuyên, được tiến hành giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với cô, giữa trẻ với mọi người xung quanh. khi giao tiếp với trẻ, cô chú ý đến giọng nói và thái độ, giọng nói dịu dàng tình cảm nồng ấm của cô sẽ giúp trẻ tự tin rất nhiều”
.[2]
Với trẻ nhà trẻ nhận thức của trẻ và phát âm của trẻ còn khó khăn bản thân một số trẻ còn nói ngọng, nói chưa chuẩn, cô là người cung cấp từ mới 
Việc giáo dục cá nhân có tác dụng tốt với trẻ đặc biệt trong hoạt động phát triển ngôn ngữ, trong quá trình dạy trẻ phát triển ngôn ngữ tôi luôn tìm hiểu khả năng đặc điểm tâm sinh lý của trẻ từ đó xây dựng biện pháp giáo dục phù hợp.
Tạo mọi điều kiện tốt nhất để trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ nói, giúp trẻ cảm nhận được, hiểu được ý nghĩa của điều mình muốn nói, khơi dậy cho trẻ tính tò mò sáng tạo cô sử dụng những câu hỏi mở để trẻ tư duy.
- Con đoán xem chiều ai đón con về?
- Bố sẽ đón con về bằng phương tiện gì?...
Với trẻ nhút nhát nói nhỏ, đọc nhỏ, tôi thường xuyên gần gũi, quan tâm đến trẻ, khuyến khích trẻ mạnh dạn hơn trong quá trình giao tiếp, không ép trẻ nói. 
Cô tạo cho trẻ cảm giác thoải mái tự tin trong giao tiếp giáo viên cần nên 
cười, gật đầu hay nói những lời động viên khen ngợi kích thích trẻ. Cô thấy bạn An đọc thơ rất giỏi nhưng bạn An sẽ còn giỏi hơn nếu bạn đọc to hơn một chút nữa cho tất cả các bạn trong lớp cùng nghe và các bạn trong lớp sẽ đều khen bạn An đấy. Vì tâm lý thích được khen trẻ sẽ đọc hoặc trả lời theo hướng dẫn của
cô để được mọi người khen.
Cô là người hướng dẫn Trong một số tình huống, có thể trẻ chưa nghĩ ra điều mình muốn nói, cô có thể gợi ý hoặc cô nói mẫu để trẻ biết được từ mới và trẻ nói lại câu cô hướng dẫn.
Với một lớp đông trẻ sau khi hướng dẫn trẻ một giờ hoạt động chơi tập có chủ định cô có thể đặt câu hỏi để cả lớp trả lời đồng thanh một lần sau đó cô mới hỏi cá nhân trẻ VD: Cô có quả gì đây?, đây là quả gì các con
Với trẻ chậm trong phát âm tôi phát âm mẫu chậm từng câu cho trẻ phát âm theo cô. Cô chú ý đến trẻ mọi lúc mọi nơi, ngoài thời gian hướng dẫn chung cả lớp cô chủ động dành riêng thời gian để trò chuyện với trẻ, cô nói chậm, nói rõ lời, cung cấp cho trẻ từ đơn giản đến phức tạp. Cô cho cháu phát âm chậm ngồi gần cháu phát âm tốt để trẻ bắt trước bạn trong ngôn ngữ. Với trẻ khó khăn trong việc chú ý đến lời nói cô sử dụng hình vẽ, tranh ảnh, vật thật kết hợp với
 lời nói, cô nói ngắn gọn và nhắc đi nhắc lại nhiều lần, khi chỉ dẫn giáo viên nhìn vào trẻ có cử chỉ gần gũi với trẻ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ không phải riêng một môn học nào mà xuyên suốt trong một ngày hoạt động, cô thường xuyên trò chuyện với trẻ cung cấp thông tin cho trẻ trong mọi tình huống để trẻ biết thêm từ mới và phát âm trả lời câu hỏi một cách mạnh dạn.
Với trẻ 25- 36 tháng đã biết tương đối về thế giới xung quanh ngôn ngữ của trẻ cũng đang phát triển do đó khi quan sát giáo viên không nên nói mẫu mà hỏi trẻ những câu hỏi mở như: “Cái gì đây?, làm thế nào để trống kêu được?..” Để trẻ tư duy, cô có thể gợi ý cho trẻ nếu trẻ không nói được cô nói mẫu để trẻ nhắc lại, không nên dùng ngôn ngữ như ra lệnh cho trẻ, nội dung trò chuyện phải gần gũi với trẻ.
	* Giải pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ qua các hoạt động chơi tập có chủ định.
	Hoạt động làm quen với các tác phẩm văn học:
 Trẻ mầm non rất Tò mò chính vì vậy những câu chuyện, bài thơ luôn được trẻ chú ý. Thông qua giờ dạy kể chuyện, giờ thơ để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Khi kể chuyện trẻ không chỉ nhớ lại nội dung chuyện và nhắc lại câu nói của các nhân vật trong chuyện. Từ đó giúp trẻ nghe hiểu lời, hiểu ngôn ngữ của người khác và diễn đạt ý nghĩ của mình bằng lời nói cá nhân, Cô giúp trẻ sử dụng và bổ sung vốn từ, rèn luyện câu nói, tập nói câu có biểu cảm, hấp dẫn, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
- Với mỗi câu chuyện cô thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt tôi động viên, khích lệ trẻ kịp thời. những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện. VD: Chuyện “ Quả trứng” 
 Trong câu chuyện “Quả trứng”. Đối với câu chuyện này trẻ phải nhớ và phát âm được tên câu chuyện, hiểu nội dung câu chuyện, kể được tên các nhân vật trong chuyện và hành động của từng nhân vật. Để giúp trẻ hiểu được điều này tôi cần phải đưa ra các hệ thống câu hỏi kích thích trẻ tư duy và phát âm nhiều lần. 
+ Cô vừa kể câu chuyện gì? (Câu chuyện “Quả trứng”) 
+ Trong chuyện có những nhân vật nào? (con gà trống, con lợn)?
+ Gà trống đã nói gì khi thấy quả trứng? (Ò Ó O Quả trứng gì to to). 
+ Lợn con đã nói gì khi thấy quả trứng, (Ụt à, ụt ịt trứng gà, trứng vịt)
+ Đó là quả trứng gà hay trứng vịt?
+ Sao con biết là trứng vịt?
Cô cho cá nhân trẻ trả lời, cô cho cả lớp giả giọng của từng nhân vật. Trong khi trẻ trả lời cô sửa sai và rèn phát âm cho trẻ. Với từ “Quả trứng” có trẻ trả lời “Quả trứng” nhưng cũng có trẻ phát âm “Quả tứng” cô hỏi lại Quả gì con? Cô phát âm lại cho trẻ phát âm theo “Quả trứng”, cô kiên trì rèn phát âm cho trẻ vì không phải trẻ nào cũng sửa sai mà nói đúng được luôn cũng cần có thời gian rèn luyện, cô trò chuyện và rèn phát âm mọi lúc mọi nơi. 
Hình ảnh 2: Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học
VD Cô kể câu chuyện “Cháu chào ông ạ” Cô kể chuyện cho trẻ nghe rèn tai nghe cho trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Cô đàm thoại cùng trẻ 
+ Cô vừa kể câu chuyện gì?
+ Trong câu chuyện có những ai? 
+ Gà con chào ông như thế nào? 
+ Các con làm gà con chào ông nào?
+ Cho trẻ đóng vai vào từng nhân vật chào ông, Cô là người dẫn chuyện để trẻ kể chuyện cùng cô mỗi câu trả lời của trẻ cô hướng cho trẻ trả lời đủ câu. Trong một câu chuyện Không những trẻ thuộc truyện, có hành vi đạo đức tốt mà ngôn ngữ của trẻ phát triển rất nhiều, Trẻ biết lễ phép chào hỏi khi gặp người lớn, biết các quy tắc s

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_25_36_thang_tuo.doc