Một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 2

Một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 2

Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và của bậc Tiểu học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy không phải là mối quan tâm của một cá nhân nào, mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội.

Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục bậc tiểu học sẽ góp phần tạo con người mới một cách có hệ thống và vững chắc.

Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học là làm sao để giáo viên không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn là người tổ chức, định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh tri thức mới.

Như chúng ta đã biết: Tiếng Việt vừa là môn học chính, vừa là môn công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác được tốt hơn. Rèn luyện các kỹ năng nói (nghe, đọc) và sản sinh lời nói (nói, viết) giúp học sinh có năng lực dùng tiếng Việt để học tập, giao tiếp ở môi trư¬ờng hoạt động của lứa tuổi. Để thực hiện tốt mục tiêu này, mỗi phân môn Tiếng Việt đều có thể và có nhiệm vụ hình thành, phát triển cho học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, nhiệm vụ này đư¬ợc thực hiện tập trung hơn cả ở phân môn Tập làm văn.

Chư¬ơng trình Tập làm văn hiện nay rất có ¬ưu thế để thực hiện nhiệm vụ phát triển lời nói cho học sinh đặc biệt là ở dạng văn nói: về thời lượng, về cấu trúc ch¬ương trình và nội dung. Qua mỗi tiết Tập làm văn, học sinh có điều kiện để nói, từ nói đúng, nói đủ đến nói hay, độc lập và sáng tạo Tuy nhiên, năng lực lời nói của học sinh có phát triển đ¬ược hay không điều đó cũng phụ thuộc vào cách tổ chức hư¬ớng dẫn hoạt động giao tiếp của giáo viên, phụ thuộc vào việc vận dụng linh hoạt lý thuyết hoạt động lời nói vào trong dạy học và sử dụng phối hợp các phư¬ơng pháp dạy học khi lên lớp.

 

doc 16 trang thuychi01 15345
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HOÁ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Nga
	 Chức vụ: Giáo viên
	 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Điện Biên 2
	 SKKN Thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt
THANH HÓA, NĂM 2017
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU...1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.2
3. Đối tượng nghiên cứu....2
4. Phương pháp nghiên cứu...2 
II. NỘI DUNG...2
1. Cơ sở lý luận..2
2. Thực trạng..3
3. Các biện pháp nâng cao chất lượng học môn Tập làm văn Lớp 2.........4
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm...11
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...11
1. Kết luận....11
2. Kiến nghị.12
Tài liệu tham khảo...13
Danh mục các đề tài Sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng 
đánh giá xếp loại các cấp.....14 
I. MỞ ĐẦU
1. L‎ý do chọn đề tài
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và của bậc Tiểu học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy không phải là mối quan tâm của một cá nhân nào, mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. 
Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục bậc tiểu học sẽ góp phần tạo con người mới một cách có hệ thống và vững chắc.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học là làm sao để giáo viên không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn là người tổ chức, định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh tri thức mới.
Như chúng ta đã biết: Tiếng Việt vừa là môn học chính, vừa là môn công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác được tốt hơn. Rèn luyện các kỹ năng nói (nghe, đọc) và sản sinh lời nói (nói, viết) giúp học sinh có năng lực dùng tiếng Việt để học tập, giao tiếp ở môi trường hoạt động của lứa tuổi. Để thực hiện tốt mục tiêu này, mỗi phân môn Tiếng Việt đều có thể và có nhiệm vụ hình thành, phát triển cho học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, nhiệm vụ này được thực hiện tập trung hơn cả ở phân môn Tập làm văn.
Chương trình Tập làm văn hiện nay rất có ưu thế để thực hiện nhiệm vụ phát triển lời nói cho học sinh đặc biệt là ở dạng văn nói: về thời lượng, về cấu trúc chương trình và nội dung. Qua mỗi tiết Tập làm văn, học sinh có điều kiện để nói, từ nói đúng, nói đủ đến nói hay, độc lập và sáng tạo Tuy nhiên, năng lực lời nói của học sinh có phát triển được hay không điều đó cũng phụ thuộc vào cách tổ chức hướng dẫn hoạt động giao tiếp của giáo viên, phụ thuộc vào việc vận dụng linh hoạt lý thuyết hoạt động lời nói vào trong dạy học và sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học khi lên lớp.
Nội dung Tập làm văn lớp 2 cung cấp cho học sinh các kĩ năng nói, viết, nghe, phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các dạng bài dạy về các nghi thức lời nói tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, phân môn Tập làm văn lớp 2 cũng rèn cho học sinh kĩ năng nghe và kĩ năng diễn đạt. Thực tế, đầu năm lớp 2 hầu hết học sinh chỉ nói được những câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt cũng rời rạc. Các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết câu còn lộn xộn, câu có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng còn chưa nghĩa. Việc trình bày, diễn đạt ý rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả.
Chính vì muốn các em có khả năng hiểu Tiếng Việt hơn, biết dùng từ một cách phù hợp trong các tình huống (chia vui, chia buồn, an ủi, đề nghị, xin lỗi) nên ngay từ đầu năm học, tôi đã hướng dẫn các em mở rộng hiểu biết về Tiếng Việt qua các phân môn trong môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập làm văn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn tập làm văn của học sinh lớp 2”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc phát triển lời nói cho học sinh tiểu học qua học phân môn Tập làm văn lớp 2.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học Tập làm văn cho học sinh lớp 2.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 2.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Nhằm làm rõ về mặt lý thuyết vai trò khi sử dụng các biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 2.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Phân loại đối tượng học sinh từ đầu năm để có biện pháp thích hợp.
- Phương pháp thực nghiệm: Dùng để kiểm nghiệm vai trò của các biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 2.
- Phương pháp thống kê toán học.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Hiện nay đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, có nhiều đổi mới: đổi mới về kinh tế, xã hội, giáo dục Sự phát triển giáo dục của nước ta giúp cho những chủ nhân tương lai của đất nước có điều kiện phát triển toàn diện về năng lực, trí tuệ, tính cách. Qua việc nắm bắt các kiến thức, tri thức khoa học ban đầu để từ đó hình thành nên những kĩ năng cần thiết của cuộc sống, hành động đúng cho bản thân .
Tiếng Việt là môn học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh Tiểu học, bởi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới quan khoa học, góp phần hình thành tình cảm, rèn luyện đạo đức tốt đẹp của con người mới. Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ, giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: Nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ 4 kỹ năng trên. Nó rèn cho các em diễn đạt trôi chảy, kĩ năng gắn kết các câu nói với nhau.
Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết rất hạn hẹp. Bên cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như: Điều kiện hoàn cảnh sống của một bộ phận học sinh ở địa bàn dân cư khó khăn, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng. Môn Tập làm văn lớp 2 giúp các em học sinh thực hành rèn luyện các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc, phục vụ cho việc học tập và giao tiếp hằng ngày, cụ thể:
* Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu, như: Chào hỏi; tự giới thiệu; cảm ơn; xin lỗi; mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị; chia buồn, an ủi; chia vui, khen ngợi; ngạc nhiên, thích thú; đáp lại lời chào, lời tự giới thiệu; đáp lời cảm ơn; đáp lời xin lỗi
* Thực hành về một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, như: Viết bản tự thuật ngắn, lập danh sách học sinh, tra mục lục sách, đọc thời khoá biểu, nhận và gọi điện thoại, viết nhắn tin, lập thời gian biểu, chép nội quy, đọc sổ liên lạc.
* Thực hành rèn luyện về kỹ năng diễn đạt (nói, viết), như: Kể về người thân trong gia đình, về sự vật hay sự việc được chứng kiến; tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi...
* Thực hành rèn luyện về kỹ năng nghe: Dựa vào câu hỏi gợi ý để kể lại hoặc nêu được ý chính của mẩu chuyện ngắn đã nghe.
Như vậy, môn Tập làm văn trong Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 không chỉ giúp học sinh nắm các nghi thức tối thiểu của lời nói và biết sử dụng các nghi thức đó trong những tình huống khác nhau, như ở nơi công cộng, trong trường học, trong gia đình, với những đối tượng khác nhau như: Bạn bè, thầy cô, bố mẹ, người xa lạ...mà còn là việc nắm các kỹ năng giao tiếp thông thường khác; tạo lập văn bản phục vụ đời sống hằng ngày; nói, viết những vấn đề theo chủ điểm quen thuộc.
2. Thực trạng:
Qua thực tế giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, tôi nhận thấy, muốn học sinh viết tốt đoạn văn, trước hết học sinh phải viết đúng yêu cầu và nhận thức được tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn.
Thực tế hiện nay, việc rèn cho học sinh viết đoạn văn tốt chưa được giáo viên chú tâm nhiều. Bên cạnh đó, nhiều học sinh khi viết bài còn viết cẩu thả, không đúng yêu cầu, lan man, không đủ số câu, sai ý, trình bày ý lộn xộn, thiếu tự nhiên, sai nhiều chính tả, Hơn thế nữa, một số em thiếu tự tin trong giờ Tập làm văn dễ dẫn đến hậu quả là các em chán nản, thiếu quyết tâm trong học tập. 
Cụ thể chất lượng khảo sát học sinh lớp tôi đối với phân môn Tập làm văn giai đoạn đầu năm như sau:
Lớp 2A6
 (46 em)
 Mức độ 1
 Mức độ 2
 Mức độ 3
 Mức độ 4
 Trước khi thực
 hiện SKKN
 16 em
 (34,8%)
 18 em
 (49,1%)
 12 em
 (26,1%)
 0
Mức độ 1: Các em chưa biết diễn đạt ý của mình.
Mức độ 2: Các em chỉ nói được những câu ngắn chưa đủ ý.
Mức độ 3: Các em diễn đạt câu rời rạc.
Mức độ 4: Các em diễn đạt được các câu có hình ảnh, đúng mục đích.
Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn, trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đề ra? Để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi người giáo viên phải có kinh nghiệm và sáng tạo trong giảng dạy, phải thật kiên trì, nhẫn nại, giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của môn học. Từ đó, giáo dục cho các em ý thức rèn luyện bài viết của mình đạt yêu cầu cao hơn.
3. Các biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn lớp 2.
3.1. Đối với dạng bài kể ngắn:
Biện pháp 1: Lập nội dung chương trình giảng dạy các dạng bài kể ngắn. 
Chương trình Tập làm văn lớp Hai gồm ba dạng bài cơ bản: 
* Dạng bài luyện tập về nghi thức lời nói tối thiểu. 
* Dạng bài luyện tập các kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày.
* Dạng bài kể ngắn.
Ba dạng bài này có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Bài tập của dạng bài này ngoài tác dụng rèn luyện kĩ năng cho chính dạng bài đó, còn có tác dụng hỗ trợ cho dạng bài khác. Ví dụ: Bài 1 (tuần 1): Tự giới thiệu – Câu và bài. Bài này ngoài việc rèn luyện kĩ năng về nghi thức lời nói (tự giới thiệu) cũng có tác dụng hỗ trợ cho việc rèn luyện kĩ năng nói, kể. Chẳng hạn bài tập 2: Nghe các bạn trong lớp trả lời các câu hỏi ở bài tập 1, nói lại những điều em biết về một bạn. Hay bài tập 3: Kể lại nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành một câu chuyện. Để tiện việc nghiên cứu, soạn bài và chuẩn bị tốt cho các tiết dạy dạng bài kể ngắn và tả ngắn, tôi lập nội dung chương trình như sau:
 Tuần
Nội dung bài dạy
Lưu ý
 1
 Tự giới thiệu – Câu và bài
 Bài tập 3 có tác dụng rèn kĩ năng kể
 3
 Sắp xếp câu trong bài – Lập danh sách HS 
 Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể
 5
 Luyện tập về mục lục sách
 Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể
 7
 Kể ngắn theo tranh – Luyện tập về thời khóa biểu
 Bài tập 1: Kể ngắn
 8
 Mời nhờ, yêu cầu, đề nghị – Kể ngắn theo câu hỏi
 Bài tập 2: Kể ngắn
 10
 Kể về người thân
 Trọng tâm cả tiết là rèn luyện 
kĩ năng kể ngắn.
 13
 Kể về gia đình
 Trọng tâm cả tiết là rèn luyện kĩ năng kể ngắn.
 15
 Chia vui – Kể về anh, chị, em
 Bài tập 3 có tác dụng rèn kĩ năng kể
 16
 Khen ngợi – Kể về con vật – Lập thời gian biểu.
 Bài tập 2: Kể ngắn
Biện pháp 2: Lập mạng từ then chốt để dạy tốt dạng bài kể ngắn.
Thực tế, tư duy trừu tượng của học sinh lớp 2 rất hạn chế. Việc yêu cầu học sinh kể ngay một sự việc nào đó dù là ngắn cũng rất khó khăn với các em. Do vốn từ của các em hạn chế và nhất là việc sắp xếp ý, vì thế tôi tổ chức cho học sinh lập mạng từ then chốt để phục vụ cho việc kể ngắn.
Ví dụ: Dạy bài Kể về gia đình em. Cuối tiết tập làm văn trước, tôi dặn dò học sinh về nhà dựa vào câu hỏi gợi ý lập mạng từ chốt (khoảng 4 – 5 từ). Trong tuần, trước khi học tập làm văn, tôi thường xuyên kiểm tra và nhắc nhở việc lập mạng từ chốt của học sinh. Ngoài việc tổ chức học sinh lập mạng từ chốt, tôi cũng lập một mạng từ chốt và ghi vào bảng phụ để chuẩn bị cho tiết dạy.
Ví dụ: Mạng từ chốt (những từ ngữ) cần dạy bài Kể về gia đình: Năm người, ông nội, cha, mẹ, chị và em, nông dân, cần cù, vui tính, học giỏi, yêu quý,... Đến giờ tập làm văn, tôi cho các em cầm mạng từ chốt để kể. Đối với học sinh học tốt, tôi khuyến khích các em thoát ly mạng từ chốt để kể tự nhiên hơn. Đối với học sinh học chưa tốt, tôi cho các em nhìn vào mạng từ chốt của giáo viên để kể. Để đánh giá hiệu quả của biện pháp này, tôi thực hiện 2 tiết dạy ở 2 lớp 2A5 và 2A6. Bài dạy: Kể về người thân. Kết quả HS lớp 2A5 còn lúng túng trong việc diễn đạt ý cần nói và viết câu văn cũng lủng củng, nhiều em dùng từ viết câu chưa chính xác. Qua tiết dạy, tôi nhận thấy biện pháp đó đạt hiệu quả tốt và vận dụng vào thực tế dạy học. 
Biện pháp 3: Dạy học tốt các bài “Trả lời câu hỏi”, “Tập nói”,  để làm nền cho học sinh kể ngắn tốt.
Kiến thức – Kĩ năng Tập làm văn lớp Hai được sắp xếp từ dễ đến khó một cách hợp lý. Đầu lớp Hai, các em được thực hiện các bài tập “Trả lời câu hỏi” (Tuần 1, tuần 5, tuần 8, tuần 14), bài tập “Nói lại – nhắc lại” (Tuần 1, tuần 2), sau đó nâng lên một bước HS được làm các bài tập “Sắp xếp lại thứ tự các tranh và dựa theo nội dung các tranh để kể lại câu chuyện”, “Sắp xếp lại các câu cho đúng thứ tự của truyện ”. Do đó để giúp học sinh kể tốt, tôi tổ chức các biện pháp giúp các em thực hiện tốt các bài tập trên. Ngoài việc yêu cầu học sinh trả lời đúng nội dung, tôi yêu cầu các em phải trả lời đủ câu.
Ví dụ: Bài Tập làm văn tuần 5. 
Câu hỏi: 
- Bạn trai đang vẽ ở đâu? Trả lời: Đang vẽ ở trên tường (câu cụt). Trả lời đầy đủ: Bạn trai đang vẽ ở trên tường. Tôi yêu cầu các em phải trả lời lại cho đủ thành phần của câu. Thực hiện nhiều lần như thế, kết quả các em có thói quen trả lời đủ câu. Đây cũng là cơ sở để các em kể chuyện tốt.
Đối với dạng bài tập “Kể lại theo tranh”, “Sắp xếp lại thứ tự các tranh, sau đó dựa theo nội dung các tranh ấy, kể lại câu chuyện”, “Dựa vào tranh, trả lời câu hỏi”, “Dựa vào tranh vẽ, kể chuyện”, tôi gợi ý cho HS thêm các từ ngữ để kết nối ý giữa các tranh cho câu chuyện thêm sinh động. Đầu tiên tôi gợi ý để các em học tốt thực hiện trước, sau đó nhân ra cho cả lớp.
Ví dụ: Tuần 1, HS làm bài tập “Kể lại nội dung dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành một câu chuyện”. Theo yêu cầu của đề bài học sinh có thể kể: “Huệ cùng các bạn vào vườn hoa (tranh 1). Huệ thấy một khóm hồng đang nở rất đẹp (tranh 2). Huệ giơ tay định ngắt bông hồng. Tuấn thấy thế vội ngăn lại (tranh 3). Tuấn khuyên Huệ không được ngắt hoa (tranh 4).Tôi gợi ý cho học sinh thêm từ, câu... như sau:“Một hôm, Huệ cùng các bạn vào vườn hoa (tranh 1). Thấy một khóm hồng đang nở rất đẹp, Huệ thích lắm (tranh 2). Huệ len lén giơ tay định ngắt một bông hồng. Tuấn thấy thế vội ngăn lại (tranh 3). Tuấn khuyên Huệ không nên ngắt hoa trong vườn. Hoa của vườn hoa phải để cho tất cả mọi người cùng ngắm (tranh 4).
Biện pháp 4: Tăng cường luyện nói, luyện kể, thông qua phân môn Tập đọc, Kể chuyện. 
 Như chúng ta đã biết, sở dĩ học sinh diễn đạt còn hạn chế do một phần trong học tập các em ít được nói, nhất là những em có tính rụt rè (Phương An, Hồng Anh, Minh Thư, Phong). Do đó tôi tạo điều kiện cho các em được nói, kể  nhiều trong quá trình dạy học. Không những chỉ trong phân môn Tập làm văn mà trong các phân môn Tập đọc, Kể chuyện tôi cũng tạo điều kiện để mọi học sinh được nói, được kể. Chương trình môn Tiếng Việt lớp Hai có thuận lợi là các bài Tập đọc đầu tuần đều là những truyện kể và cũng là nội dung để học sinh tập kể chuyện.Tôi đã tận dụng thuận lợi này để giúp các em được rèn luyện kĩ năng nói, kể như sau:
+ Đối Với phân môn Tập đọc: Khi học sinh trả lời câu hỏi, tôi hướng dẫn trả lời theo giọng kể cho phù hợp với văn kể chuyện và có tác dụng giúp các em trau dồi kĩ năng kể. Ngoài việc rèn đọc, tôi dành thời gian 5 phút tập kể lại từng đoạn của truyện.
+ Đối với phân môn Kể chuyện: Tôi hướng dẫn để giúp cho tất cả các em đều phải kể được câu chuyện. Đối với những em có tính rụt rè, ít nói, tôi kiên trì giúp đỡ các em kể cho bằng được. Lúc đầu chỉ yêu cầu các em kể được một đoạn, sau đó nâng dần yêu cầu lên. Cách làm như sau: Đầu tiên tôi gợi ý trả lời từng câu. Ví dụ dạy bài “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Tôi chỉ tay vào hình vẽ số 1 và hỏi: “Ngày xưa có một cậu  bé như thế nào?” ( làm việc gì cũng mau chán). Hỏi tiếp: “Khi học bài cậu học như thế nào?” (chỉ đọc vài dòng đó ngáp ngắn ngáp dài rồi bỏ dở). Hỏi tiếp: “Lúc tập viết cậu thế nào?” ( chỉ nắn nót được mấy chữ đầu, rồi lại viết nguệch ngoạc). Sau mỗi câu trả lời, tôi khen ngợi để khích lệ, động viên. Sau khi các em trả lời xong, tôi chuyển qua cho các em chưa mạnh dạn kể, một lát sau, tôi quay lại cho em học sinh lúc đầu kể lại đoạn 1.Trong một tiết, chỉ cần giúp đỡ cho một đến hai em rụt rè. Tôi kiên trì hướng dẫn, kích thích các em luyện nói. Ví dụ: Cho em đó nhắc lại câu trả lời của bạn. Qua mỗi tiết học, phải rèn cho học sinh được nói ít nhất là một đến hai câu, nhất là những câu chuyện liên quan đến Tập làm văn.
Biện pháp 5: Thực hiện tốt quan điểm tích hợp để nâng cao chất lượng môn Tập làm văn.
Quan điểm biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt 2 thể hiện từ 3 quan điểm: Quan điểm dạy học giao tiếp, quan điểm tích hợp, quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn (Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn) trước đây ít gắn bó với nhau, nay được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm; các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước. Thực hiện tốt quan điểm tích hợp góp phần khắc phục tình trạng “nghèo ý tưởng và vốn từ” cho học sinh, giúp học sinh diễn đạt tốt.
* Dạy tốt phân môn Chính tả.
Ví dụ: Khi dạy bài chính tả “Cô giáo lớp em”, trong phần củng cố, tôi cho nhiều học sinh, nhất là các em còn yếu nhắc lại hình ảnh cô giáo (Cô đến lớp sớm, cô rất chịu khó, thương yêu học sinh, luôn tươi cười với học sinh), tình cảm của học sinh đối với cô giáo, (yêu quý cô giáo, ngắm những điểm mười cô cho), để phục vụ cho bài Tập làm văn “Bút của cô giáo” và bài “Kể ngắn về cô giáo”. Nhờ thực hiện biện pháp này trong tiết Tập làm văn, học sinh kể chuyện mạch lạc, tự nhiên.
* Dạy tốt phân môn Luyện từ và câu.
Ví dụ 1: Tuần 1, phân môn Luyện từ và câu có Bài tập 3: “Hãy viết một câu nói về người hoặc cảnh vật trong mỗi tranh sau”.Tôi tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều làm được bài tập này để phục cho bài tập làm văn cuối tuần (Kể lại nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành một câu chuyện). Để tất cả học sinh đều làm được bài tập này tôi tổ chức như sau: Sau khi học sinh xác định được yêu cầu của đề bài, tôi tổ chức hoạt động nhóm đôi hỏi - đáp về nội dung trong tranh. Sau đó tôi chỉ định những em học sinh học chưa tốt phát biểu trước để uốn nắn, sửa chữa.
Ví dụ 2: Tuần 7, phân môn Luyện từ và câu có Bài tập 2: ″Tìm từ ngữ chỉ hoạt động của người trong mỗi tranh dưới đây”. 
Bài tập 3: Kể lại nội dung mỗi tranh trên bằng một câu. Tổ chức học sinh thực hành tốt hai bài tập này sẽ giúp các em học tốt tiết Tập làm văn cuối tuần: Dựa vào tranh vẽ, hãy kể câu chuyện có tên Bút của cô giáo. Cách tiến hành tương tự như ví dụ 1. 
3.2. Đối với dạng bài: Viết đoạn văn ngắn
Viết một đoạn văn ngắn về:
- Cô giáo (hoặc thầy giáo) của em.
- Một người thân.
- Gia đình.
- Một em bé.
- Các mùa trong năm.
- Kể một việc làm tốt.
- Một con vật.
- Một loài chim.
- Tả ngắn về biển.
- Tả ngắn về một loài cây.
- Một loài hoa.
- Viết về Bác Hồ.
Để tránh tình trạng học sinh lớp 2 không làm được bài hoặc viết lan man quá nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy. Do vậy tôi xin đưa ra những biện pháp sau nhằm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn tốt hơn. 
Biện pháp 1: Giúp học sinh lập hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng. 
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. Giáo viên có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn học sinh chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở nhà, trước khi lên

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_hoc_phan_mon_tap_lam_va.doc