Một số biện pháp giúp học sinh viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2

Một số biện pháp giúp học sinh viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2

Đối với người Việt Nam chúng ta, Tiếng Việt rất quan trọng trong cuộc sống, giao tiếp, học tập và sinh hoạt. Trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa hết sức quan trọng. Môn Tiếng Việt chiếm nhiều thời gian nhất và là cơ sở, là phương tiện để học các môn học khác.

 Tập làm văn là một phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình Tiếng Việt. Đây là một phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp, sáng tạo và mang đậm dấu ấn cá nhân. Phân môn Tập làm văn góp phần bổ sung kiến thức đồng thời cùng các môn học khác rèn luyện tư duy, phát triển ngôn ngữ và hình thành nhân cách cho học sinh. Nó có khả năng hàng đầu trong việc rèn cho học sinh nói và viết đúng tiếng Việt.

 Phân môn Tập làm văn là phân môn tổng hợp toàn bộ kiến thức đã học ở các phân môn: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Kỹ năng viết một đoạn văn ngắn là yêu cầu cơ bản, khá trọng tâm ở phân môn Tập làm văn lớp 2.

 

doc 21 trang thuychi01 50728
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số biện pháp giúp học sinh viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
 GIÚP HỌC SINH VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN 
TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 2
 Người thực hiện: Hàn Thị Hòa
 Chức vụ: Giáo viên 
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thiệu Dương
 SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt
THANH HOÁ NĂM 2019
1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
 Đối với người Việt Nam chúng ta, Tiếng Việt rất quan trọng trong cuộc sống, giao tiếp, học tập và sinh hoạt. Trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa hết sức quan trọng. Môn Tiếng Việt chiếm nhiều thời gian nhất và là cơ sở, là phương tiện để học các môn học khác. 
 Tập làm văn là một phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình Tiếng Việt. Đây là một phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp, sáng tạo và mang đậm dấu ấn cá nhân. Phân môn Tập làm văn góp phần bổ sung kiến thức đồng thời cùng các môn học khác rèn luyện tư duy, phát triển ngôn ngữ và hình thành nhân cách cho học sinh. Nó có khả năng hàng đầu trong việc rèn cho học sinh nói và viết đúng tiếng Việt.            
 Phân môn Tập làm văn là phân môn tổng hợp toàn bộ kiến thức đã học ở các phân môn: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Kỹ năng viết một đoạn văn ngắn là yêu cầu cơ bản, khá trọng tâm ở phân môn Tập làm văn lớp 2. 
Bản thân tôi đã từng có rất nhiều năm giảng dạy ở lớp 2. Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy kiểu bài viết đoạn văn ngắn là một rất yêu cầu rất khó đối với học sinh lớp 2. Thứ nhất, vì đây là loại bài hoàn toàn mới đối với học sinh lớp 2. Ở lớp 1 các em mới chỉ tập nói, viết những câu đơn giản, riêng lẻ theo nội dung, theo chủ đề bài học hoặc tìm tiếng có âm vần vừa học. Nhưng đến lớp 2, các em phải viết biết đoạn văn từ 3 đến 5 câu kể về một việc đơn giản hoặc tả sơ lược về người, vật xung quanh các em. Thứ hai, do ở lứa tuổi của các em vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Các em chưa hiểu sâu về nghĩa các từ ngữ và bản chất của câu, nên khi viết một đoạn văn các em thường bộc lộ các yếu điểm về vốn từ và kỹ năng diễn đạt. Bởi vậy kết quả bài văn còn rất hạn chế. 
 Mặt khác, do đặc điểm tâm lí học sinh lớp 2 thường hay tò mò, thích cái mới, cái lạ, dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo dài. Bên cạnh đó, các em rất hiếu động, hay bắt chước, dễ thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để giáo viên tạo sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày đến trường, các em được hoạt động nhóm, được cùng bạn bè tham gia chơi các trò chơi học tập ... được thầy cô ân cần chỉ bảo, quan tâm, tạo sự ham thích cho các em trong học tập sẽ là động lực thúc đẩy việc học, nâng cao được khả năng tiếp thu và thực hành thành các kĩ năng, kĩ xảo. Từ đó giúp các em học tập tiến bộ hơn. 
 Vì vậy tôi đã mạnh dạn đề xuất sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giúp học sinh viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu, đề xuất những biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn. 
- Trao đổi với đồng nghiệp một vài kinh nghiệm, mong được lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng nghiệp giúp bản thân có phương pháp dạy học tốt hơn .
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 Để hướng dẫn học sinh viết đoạn văn ngắn nhằm phát huy tính tích cực của người học, cần nghiên cứu kĩ các nội dung sau:
- Mục tiêu của việc luyện viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2.
- Nắm chắc trọng tâm chương trình môn học thông qua nội dung sách giáo khoa, vở bài tập, các loại sách tham khảo Tiếng Việt lớp 2.
- Nội dung, phương pháp dạy Tập làm văn lớp 2.
- Điều tra tình hình thực tiễn những vấn đề có liên quan đến sáng kiến kinh nghiệm. 
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp quan sát:
- Quan sát học sinh học tập trên lớp.
- Quan sát lời nói, cách ứng xử của học sinh với bạn bè và mọi người xung quanh ở mọi nơi, mọi lúc. 
- Đánh giá kết quả học tập của học sinh thông qua lời phát biểu của học sinh trong tiết Tập làm văn của mỗi tiết học, qua các bài tập thực hành.
b. Phương pháp phân tích - tổng hợp:
 Qua việc quan sát, theo dõi trong giờ học và các hoạt động giao tiếp của học sinh, tôi đã ghi chép, thu thập được và xử lí những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp. Như vậy sẽ đánh giá, nhận xét học sinh sát thực và cụ thể hơn.
c. Phương pháp thực hành luyện tập:
 Phương pháp này giúp học sinh thường xuyên được thực hành luyện viết đoạn văn trong tất cả các tiết học Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Nhờ đó khả năng viết đoạn văn của các em ngày được nâng cao và hoàn thiện hơn. Rèn cho các em viết sao cho đúng yêu cầu bài tập, bài viết trôi chảy, mạch lạc, câu văn thể hiện được tình cảm và suy nghĩ của mình.
1.5. Những điểm mới trong sáng kiến kinh nghiệm:
Sáng kiến kinh nghiệm này có nhiều đổi mới trong cả nội dung lẫn hình thức. Phân môn Tập làm văn có khả năng hàng đầu trong việc rèn cho học sinh nói và viết đúng Tiếng Việt. Việc tìm ra các biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn đã được nhiều giáo viên quan tâm, tìm tòi, nghiên cứu. Có nhiều giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm về nội dung này nhưng các biện pháp còn chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể; chưa biết lồng ghép, tích hợp phân môn Tập làm văn với các môn học khác để mở rộng kiến thức cho học sinh. Xuất phát từ tình hình nêu trên và thực tế trong quá trình giảng dạy, đồng thời ý thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn cho học sinh là rất cần thiết nên tôi đã tìm ra phương pháp giáo dục cụ thể, tìm ra những sáng kiến mới, hay và phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh, sát với thực tiễn của từng nhóm đối tượng học sinh trong lớp nhằm thực hành áp dụng, đúc rút, tích luỹ những kinh nghiệm để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và góp phần giúp cho chất lượng giáo dục của lớp, của trường ngày được nâng cao. 
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
 Phân môn Tập làm văn giúp học sinh có kỹ năng sử dụng Tiếng Việt được phát triển từ thấp đến cao, từ luyện đọc cho đến luyện nói, từ luyện viết câu văn đến đoạn văn và viết thành bài văn theo suy nghĩ của từng cá nhân. Tập cho các em ngay từ nhỏ có những hiểu biết sơ đẳng đó cũng là rèn cho các em tính tự lập, tự trọng. Hình thành cho các em biết rằng từ những việc nhỏ nhặt, tưởng như không quan trọng đó sẽ trở thành những điểm tựa trở thành một con người văn hóa trong tương lai. Hơn nữa, làm văn có nghĩa là tạo lập văn bản mà nhiệm vụ chính của phân môn Tập làm văn là rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo lập văn bản. 
 Nội dung chương trình phân môn Tập làm văn ở lớp 2 đặc biệt chú trọng tới rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh. Học sinh phải viết đoạn văn từ 1 đến 3 câu rồi cao hơn từ 4 đến 5 câu kể về một sự kiện đơn giản hoặc tả sơ lược về người, vật xung quanh các em. Kiến thức trong sách giáo khoa được sắp xếp một cách hợp lý, đi từ đơn giản đến phức tạp, từ cách nhìn thực tế đến vận dụng vốn sống, vốn hiểu biết để viết đoạn văn. Học sinh được dạy các kỹ năng kể, tả đơn giản. Song không phải kể lại hoặc tả lại câu chuyện, cảnh vật theo nội dung bài tập đọc mà các em kể, tả những gì diễn ra trong cuộc sống xung quanh. Điều này đã phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong viết đoạn văn. Cụ thể là:
- Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi,
- Thực hành về kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày như: viết bản tự thuật ngắn, lập danh sách học sinh, tra mục lục sách, 
- Thực hành rèn kỹ năng diễn đạt (nói, viết) như: kể về người thân, kể ngắn về con vật, tả ngắn về bốn mùa, tả biển, tả cây cối, tả ngắn về Bác,
- Thực hành rèn kỹ năng nghe.
 Tập làm văn  là sản phẩm thể hiện rõ vốn hiểu biết, đời sống, trình độ văn hoá của học sinh. Hiệu quả của việc dạy học không chỉ phụ thuộc vào nội dung dạy học mà còn phụ thuộc vào phương pháp dạy học. Đặc biệt Tập làm văn là phân môn mà các em ở Tiểu học học yếu hơn các môn khác. Bởi vậy người giáo viên phải có nhiệm vụ giúp các em nối tiếp một cách tự nhiên các bài khác nhau trong môn Tiếng Việt như Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, kể chuyện... nhằm giúp các em có năng lực nói, viết tốt. Để cung cấp và giúp các em có những kiến thức tiếng Việt, người giáo viên phải có phương pháp dạy Tập làm văn cụ thể, lô - gic thông qua các tiết dạy.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
a. Về giáo viên:
 Trường Tiểu học Thiệu Dương nơi tôi công tác có đội ngũ giáo viên được đào tạo chuẩn hoá về chuyên môn, đa số đều nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề, mến trẻ. Nhà trường có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ phục vụ cho việc dạy và học. 
 Tuy nhiên trong việc tổ chức dạy học phân môn Tập làm văn vẫn còn bộc lộ một số hạn chế:
 - Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập làm văn. Cách dạy của giáo viên có phần khuôn mẫu, còn lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên.
- Về hình thức tổ chức dạy học: còn đơn điệu, chưa linh hoạt, sáng tạo. Vì vậy chưa tạo được hứng thú học tập cho HS. 
- GV chưa thật chú ý đến cách liên kết các phân môn khác với phân môn Tập làm văn. Đặc biệt việc cung cấp vốn từ, việc viết câu, liên kết câu... trong tiết Luyện từ và câu.
- GV chưa chủ động trong việc xác định trọng tâm của giờ học cũng như chưa linh hoạt trong việc tập trung vào những kĩ năng còn yếu của HS lớp mình.
- Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý hay. Một số giáo viên còn cho học sinh học thuộc những bài văn mẫu, điều đó đã làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của học sinh.
- Việc chấm chữa bài của một số giáo viên còn qua loa, chưa chỉ ra lỗi sai phổ biến của học sinh và chưa hướng dẫn cách chữa lỗi cho các em nên lỗi sai thường lặp đi lặp lại nhiều lần như: lỗi về diễn đạt, lỗi viết câu sai ngữ pháp, lỗi dùng từ...
b. Về học sinh :
* Thuận lợi:
 Năm học 2018 - 2019 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2A.
 Lớp có 37 HS trong đó có 18 em nam, 19 em nữ. Học sinh chủ yếu là con gia đình nông nghiệp. Nhìn chung các em khá ngoan, biết nghe lời cô giáo, rất thích tham gia các hoạt động học tập. 
* Khó khăn:
- Địa bàn xã Thiệu Dương là vùng sông nước nên những khi thời tiết không thuận lợi, việc đến trường của các em gặp không ít trở ngại.
- Một số HS chưa chủ động, tích cực học tập, chỉ học khi có cô nhắc nhở. 
- Một số học sinh còn nhút nhát, thiếu tự tin trong học tập, nói quá nhỏ, nói nhát gừng, chưa thành câu, ít giao tiếp với bạn xung quanh. 
- Một số học sinh chỉ thích các bài tập làm miệng không thích các bài tập viết đoạn văn.
- Vốn từ của các em còn rất nghèo nàn do các em lười đọc sách báo hoặc ít tìm tòi, sưu tầm những tài liệu phục vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học. 
- Kỹ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ viết của học sinh còn hạn chế do các em chưa nhận ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, còn sử dụng từ địa phương trong bài làm.
c . Về phụ huynh:
- Người dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp và buôn bán nhỏ. Công việc bận rộn nên có rất ít thời gian quan tâm đến việc học hành của con cái. 
- Một số phụ huynh đi làm ăn xa, một số không biết chữ, kinh tế khó khăn nên giao phó việc học hành của con em cho thầy cô và nhà trường. Mà các em còn nhỏ, ý thức tự giác chưa cao, sẽ quên nhiệm vụ học ở nhà nếu không có sự dìu dắt của cha mẹ. 
- Một số phụ huynh chưa mua đủ đồ dùng học tập cho con.
d. Kết quả khảo sát đầu năm phân môn Tập làm văn: 
Sau khi dạy xong bài Tập làm văn tuần 8: Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cô giáo lớp 1 của em, tôi tiến hành cho HS khảo sát. 
Kết quả khảo sát như sau:
Sĩ số
Hoàn thành Tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
37 em
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
5 em
13,5 %
25 em
67,6 %
7 em
18,9 %
2.3. Những giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Phân loại đối tượng học sinh, lên kế hoạch giảng dạy, bồi dưỡng, phụ đạo:
Ngay từ khi mới nhận lớp, việc làm đầu tiên tôi xác định là phải phân loại đối tượng học sinh. Tôi làm một quyển sổ theo dõi, đánh giá chất lượng phân môn Tập làm văn của học sinh. Tôi ghi chép những điều đã quan sát được, ghi những hành vi, lời nói giao tiếp, ý thức học tập, ghi nhận xét những thói quen tốt và những hạn chế, khiếm khuyết của từng học sinh trong lớp. Từ đó tôi dễ dàng phân loại khả năng môn học này của từng học sinh trong lớp và có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao cho học sinh có năng khiếu, rèn kĩ năng cho những học sinh chưa đạt theo yêu cầu. Tôi chọn những câu hỏi gợi mở sao cho phù hợp với từng đối tượng để các em phát huy hết khả năng của mình trong phần luyện viết của tiết Tập làm văn. Tôi thường xuyên quan sát, phản ánh trung thực tình trạng của học sinh. Từ đó động viên, uốn nắn chỉ bảo cho các em biết cách thực hiện yêu cầu bài học đúng và có hiệu quả hơn.
2. 3.2. Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước khi làm bài tập làm văn:
- Để có kĩ năng viết tốt đoạn văn, người GV cần rèn cho học sinh kĩ năng nói gãy gọn, trọn vẹn ý, phải hướng cho học sinh tư duy, phân tích tổng hợp, sắp xếp
- Việc rèn cho học sinh viết đoạn văn cần tạo điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Phải làm sao cho mỗi đoạn văn là một cơ hội phát triển tư duy cho học sinh đưa từ việc quan sát, phân tích từ thực tế.
- Học sinh tập viết đoạn văn là tự viết lời nói, văn bản. Vì vậy giáo viên cần dựa vào các bước sau để hướng dẫn học sinh làm bài tập.
* Bước 1: Đọc đề bài để nắm vững yêu cầu bài tập: 
- Học sinh xác định yêu cầu bài tập.
- Giáo viên phân tích yêu cầu.
* Bước 2: Định hướng cách viết cho HS (qua hệ thống câu hỏi gợi ý):
- Tả, kể về ai? (cái gì)?
- Viết mấy câu?
- Viết với tình cảm như thế nào?
* Bước 3: Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý:
- Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài văn như các lớp trên cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết từ 3 đến 5 câu với 2 đến 3 ý cũng cần sự sắp xếp ý. Trong học kỳ I học sinh kể về những người thân thiết với mình như: cô giáo, thầy giáo, ông, bà, anh, chị, em. Do đó giáo viên nên gợi ý học sinh trước tiên tự giới thiệu về người đó (tên là gì, mối quan hệ với bản thân của HS đó như thế nào?).
- Tiếp đó là hình dáng, tính cách, công việc hoặc ý thích của người kể và cuối cùng là tình cảm của học sinh đối với người mình kể. Sang học kỳ II, học sinh được tả một số con vật, tả ngắn về bốn mùa, tả ngắn về biển, tả ngắn về cây cối,cảnh vật xung quanh mình. Đầu tiên cần gợi mở cho học sinh giới thiệu về vật (cảnh vật ) định tả. Chi tiết nổi bật của cảnh, vật đó. Cuối cùng nêu lên tình cảm của bản thân đối với cảnh vật và con vật đó.
* Bước 4: Hướng dẫn học sinh phát triển đoạn văn thông qua làm miệng:
- Khi thực hiện phần này học sinh bộc lộ rất rõ nhược điểm về tư duy, cách viết câu, sử dụng từ. Giáo viên không nên làm thay cho học sinh mà nên chuẩn bị một số tình huống, một số cách dùng từ, một số cách liên kết phù hợp với nội 
dung đoạn viết để học sinh tham khảo và vận dụng viết bài.
- Cho học sinh làm miệng đoạn văn.
* Bước 5: Học sinh viết đoạn văn hoàn chỉnh vào vở: 
Ví dụ: Tuần 8: Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị. Kể ngắn theo câu hỏi. 
Bài tập 2: Kể về cô giáo lớp 1 của em theo các câu hỏi gợi ý. 
+ Bước 1: HS xác định yêu cầu: Kể về cô giáo lớp 1. 
Giáo viên phân tích yêu cầu: kể về cô giáo lớp 1 của em.
+ Bước 2: Định hướng cách làm bài cho HS: 
. YC HS xem lại bài tập đọc “ Người mẹ hiền ”(SGK tập 1, trang 63, 64); “ Bàn tay dịu dàng ”(SGK, tập 1, trang 66); chú ý đến thái độ, tình cảm của cô giáo (thầy giáo) với học sinh biểu hiện qua lời nói, việc làm nào? 
. Nhớ lại: Tên cô giáo (thầy giáo) dạy em ở lớp 1; tình cảm của cô giáo (thầy giáo) đối với em và các bạn trong lớp; điều mà em đáng nhớ nhất ở cô giáo (thầy giáo); tình cảm của em đối với cô giáo (thầy giáo). 
(Điều đáng nhớ nhất có thể là: Khi em mắc khuyết điểm, cô giáo (thầy giáo) ân cần khuyên bảo em như thế nào? Lúc em viết sai, cô giáo (thầy giáo) đã uốn nắn cho em từng nét chữ như thế nào?...) 
+ Bước 3: Sắp xếp các ý ( câu hỏi gợi ý của bài này đã sắp xếp đúng trình tự ).
+ Bước 4: Làm bài miệng:
Các em lần lượt trả lời từng câu hỏi trong SGK để kể về cô giáo (thầy giáo) của mình. Chú ý dùng từ đúng, nói thành câu đủ ý và thể hiện được tình cảm chân thành của em đối với cô giáo (thầy giáo). 
a. Cô giáo (hoặc thầy giáo) lớp một của em tên là gì ? 
- Cô giáo lớp Một của em tên là cô Hà. 
- Cô Minh Châu là cô giáo dạy em hồi lớp Một. 
b. Tình cảm của cô (hoặc thầy) đối với học sinh như thế nào? 
- Cô rất thương yêu và quan tâm, chăm sóc chúng em chu đáo. 
- Cô luôn luôn chăm lo cho chúng em từng li, từng tí. 
c. Em nhớ nhất điều gì ở cô (hoặc thầy)? 
- Em nhớ nhất lần đầu tiên cô cầm tay giúp em viết từng nét chữ. 
- Em nhớ mãi lần em bị ốm sốt cô đã ân cần đưa em xuống phòng y tế của nhà trường. 
d. Tình cảm của em đối với cô giáo (hoặc thầy giáo) như thế nào? 
- Em sẽ nhớ mãi cô Minh Châu.
- Dù đã lên lớp hai, không được học cô Hà nữa, nhưng hình ảnh cô vẫn còn in đậm trong tâm trí em. 
 + Bước 5: Học sinh viết đoạn văn hoàn chỉnh vào vở. 
Bài tập 3: Dựa vào các câu trả lời ở bài tập 2, em hãy viết một đoạn văn khoảng 4, 5 câu nói về cô giáo (hoặc thầy giáo) cũ của em. 
- Nhớ lại những câu trả lời của em theo các câu hỏi ở bài tập 2 để chuẩn bị làm 
bài (chú ý tiếp thu những ý kiến nhận xét hay sửa chữa của cô giáo và các bạn trên lớp nếu có). 
- Viết nháp từng câu rồi sửa lại trước khi chép vào vở. 
- Chú ý lời kể cần tự nhiên, chân thực, bộc lộ tình cảm của em; dùng từ, đặt câu rõ ý; các ý cần gắn với nhau sao cho mạch lạc. Viết xong, đọc lại bài, phát hiện và sửa những chỗ sai (về nội dung, từ, câu, chính tả). 
Ví dụ: Bài văn viết về cô giáo lớp 1của HS Nguyễn Lê Hà My lớp tôi:
2.3.3. Giúp học sinh có hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng:
+ Với mỗi đề bài khác nhau giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng, phù hợp, dễ hiểu với học sinh.
+ Tôi đưa ra hệ thống câu hỏi gợi ý trong 1 số dạng bài như sau:
* Bài viết về một mùa trong năm:
- Em thích mùa nào nhất trong năm?
- Mùa đó bắt đầu từ tháng nào, kết thúc vào tháng nào?
- Thời tiết, mặt trời, mưa, nắng, gió như thế nào?
- Cây cối, hoa lá trong vườn ra sao?
 - Em thường làm gì vào dịp đó?
* Bài viết về người thân :
- Người thân của em là ai?
- Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi? Làm công việc gì?
- Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?
- Em sẽ làm gì để đền đáp sự quan tâm của người ấy đối với em?
- Em có yêu quý người đó không?
* Bài viết về một loài hoa:
- Loài hoa ấy tên là gì? Em thấy ở đâu?
- Hoa có những đặc điểm gì (màu sắc, các bộ phận: cánh hoa, nhụy, hương 
thơm,)
- Vì sao em thích loài hoa ấy?
* Bài viết về một việc tốt mà em hoặc bạn em đã làm:
- Em ( bạn em) đã làm việc tốt khi nào? Ở đâu? Đó là việc gì?
- Em ( bạn ấy) đã làm như thế nào?
- Em suy nghĩ gì khi làm (thấy bạn làm) việc tốt đó?
 2.3.4. Hướng dẫn học sinh cách quan sát: 
- Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng, mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật. 
- Để làm được dạng bài này các em phải biết quan sát các đối tượng khác nhau: một bức tranh, một cây cối, một con vật. Biết quan sát tức là các em dùng các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, da) để nhận biết đặc điểm của bức tranh hay con vật, cây cối.(Hình dạng của chúng thế nào? Chúng có màu sắc, mùi vị gì? Các hoạt động của chúng ra sao?) 
- Khi quan sát, đầu t

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_viet_doan_van_ngan_trong_phan.doc