Kinh nghiệm giảng dạy bài 16 - Tin học 11 cho đối tượng học sinh có học lực trung bình, yếu, kém tại trường thpt Cẩm Thủy 1
Trường THPT Cẩm Thủy 1 là một trường có số lượng học sinh đông nhất huyện và có địa bàn tuyển sinh cũng rộng nhất huyện vì thế mà chất lượng học sinh không được đồng đều. Số lượng học sinh có học lực trung bình và yếu vẫn còn khá lớn nhất là những lớp cơ bản “trơn” (tức là không nâng cao môn nào cả). Do đó khi dạy những lớp này, tôi luôn trăn trở để tìm ra cách truyền đạt dễ hiểu nhất những nội dung kiến thức cơ bản nhất.
Như chúng ta biết, chương trình sách giáo khoa Tin học 11 trang bị cho học sinh một số kiến thức cơ bản về cấu trúc dữ liệu và ngôn ngữ lập trình bậc cao. Bên cạnh đó, rèn luyện cho các em kĩ năng giải được một số bài toán đơn giản trên máy tính bằng cách vận dụng được các kiến thức về cấu trúc dữ liệu, thuật toán trên một ngôn ngữ lập trình cụ thể. Chúng ta đều biết rằng, muốn viết được một chương trình giải bài toán trên máy tính thì yêu cầu học sinh phải có kiến thức chắc chắn với sự tư duy logic và tính chính xác cao. Và quan trọng hơn cả là sự say mê, hứng thú với môn học. Để một học sinh trung bình có thể tự mình viết một chương trình đơn giản hoàn chỉnh đã rất khó khăn vậy đối với học sinh yếu-kém còn khó khăn hơn nữa.
Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy tại trường THPT Cẩm Thủy 1, tôi thấy rằng cần phải thiết kế bài giảng cho phù hợp với nội dung kiến thức, phương pháp và phương tiện dạy học cũng như phù hợp với từng đối tượng học sinh. Chính vì vậy, khi dạy các lớp cơ bản với phần đông là đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống bài 16 “Ví dụ làm việc với tệp” thuộc chương trình Tin học 11, tôi đã thực hiện một số điểm khác so với các lớp còn lại. Tôi xin được mạnh dạn trình bày ra đây để có thể xem như một kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình giảng dạy của mình với mong muốn được góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong nhà trường đồng thời cũng góp mình vào công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục của cả nước hiện nay.
I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trường THPT Cẩm Thủy 1 là một trường có số lượng học sinh đông nhất huyện và có địa bàn tuyển sinh cũng rộng nhất huyện vì thế mà chất lượng học sinh không được đồng đều. Số lượng học sinh có học lực trung bình và yếu vẫn còn khá lớn nhất là những lớp cơ bản “trơn” (tức là không nâng cao môn nào cả). Do đó khi dạy những lớp này, tôi luôn trăn trở để tìm ra cách truyền đạt dễ hiểu nhất những nội dung kiến thức cơ bản nhất. Như chúng ta biết, chương trình sách giáo khoa Tin học 11 trang bị cho học sinh một số kiến thức cơ bản về cấu trúc dữ liệu và ngôn ngữ lập trình bậc cao. Bên cạnh đó, rèn luyện cho các em kĩ năng giải được một số bài toán đơn giản trên máy tính bằng cách vận dụng được các kiến thức về cấu trúc dữ liệu, thuật toán trên một ngôn ngữ lập trình cụ thể. Chúng ta đều biết rằng, muốn viết được một chương trình giải bài toán trên máy tính thì yêu cầu học sinh phải có kiến thức chắc chắn với sự tư duy logic và tính chính xác cao. Và quan trọng hơn cả là sự say mê, hứng thú với môn học. Để một học sinh trung bình có thể tự mình viết một chương trình đơn giản hoàn chỉnh đã rất khó khăn vậy đối với học sinh yếu-kém còn khó khăn hơn nữa. Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy tại trường THPT Cẩm Thủy 1, tôi thấy rằng cần phải thiết kế bài giảng cho phù hợp với nội dung kiến thức, phương pháp và phương tiện dạy học cũng như phù hợp với từng đối tượng học sinh. Chính vì vậy, khi dạy các lớp cơ bản với phần đông là đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống bài 16 “Ví dụ làm việc với tệp” thuộc chương trình Tin học 11, tôi đã thực hiện một số điểm khác so với các lớp còn lại. Tôi xin được mạnh dạn trình bày ra đây để có thể xem như một kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình giảng dạy của mình với mong muốn được góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong nhà trường đồng thời cũng góp mình vào công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục của cả nước hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Với những trăn trở, tìm tòi của mình tôi thực hiện đề tài này để tìm ra phương pháp, cách thức tổ chức tốt hơn bài dạy cho đối tượng những học sinh có học lực trung bình, yếu, kém để nâng cao chất lượng học tập của các em. 3. Đối tượng nghiên cứu - Nội dung bài 16 “Ví dụ làm việc với tệp” và hệ thống kiến thức phần kiểu dữ liệu tệp và những kiến thức liên quan. - Đối tượng những học sinh có học lực trung bình, yếu, kém khối lớp 11 trường THPT Cẩm Thủy 1. 4. Phương pháp nghiên cứu Kết hợp giữa thực tiễn giáo dục tại trường THPT Cẩm Thủy 1 với sự tham khảo các tài liệu về phương pháp giảng dạy, về ngôn ngữ lập trình và các kinh nghiệm, ý kiến của các đồng nghiệp, các tài liệu trên mạng internet II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Khi học Tin học 11, học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp thu kiến thức. Những khái niệm, cấu trúc lệnh ở những chương đầu còn dễ hiểu, khi học đến “Kiểu dữ liệu có cấu trúc” là học sinh bắt đầu mơ hồ và kêu khó. Khi không nắm bắt được đầy đủ kiến thức, các em bắt đầu chán, bỏ bê và không muốn học. Nhất là những học sinh có học lực từ trung bình trở xuống, tiền thân các em đã kém thì đến khi học đến phần này còn kém hơn. Với đối tượng học sinh này, khi dạy bài 16 “Ví dụ làm việc với tệp”, tôi không thể dạy đúng như nội dung trong sách giáo khoa Tin học 11 được mà buộc phải đưa ra một kế hoạch dạy học với những ví dụ đơn giản, gần gũi dễ hiểu hơn. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Lại phải nói lại một lần nữa là trường tôi có những học sinh có chất lượng đầu vào rất thấp, có những em điểm thi đầu vào môn toán, tiếng Anh có 0,25 điểm. Do vậy các em gần như không thể đọc hiểu được một chương trình tính toán đơn giản chứ chẳng mong viết nổi được chương trình. Trong sách giáo khoa Tin học lớp 11, bài 16 “Ví dụ làm việc với tệp” đưa ra 2 ví dụ: Ví dụ 1: Một trường trung học phổ thông tổ chức cho giáo viên và học sinh của trường đi cắm trại, sinh hoạt ngoài trời ở vườn quốc gia Cúc Phương. Để lên lịch đến thăm khu trại các lớp, thầy hiệu trưởng cần biết khoảng cách từ trại của mình (ở vị trí có toạ độ (0,0)) đến trại của các giáo viên chủ nhiệm. Mỗi lớp có một khu trại, vị trí trại của mỗi giáo viên chủ nhiệm đều có toạ độ nguyên (x,y) được ghi trong tệp văn bản TRAI.TXT (như vậy tệp TRAI.TXT chứa liên tiếp các cặp số nguyên, các số cách nhau bởi dấu cách và không kết thúc bằng kí tự xuống dòng). Và sách giáo khoa có đưa ra một chương trình đọc các cặp toạ độ từ tệp ‘TRAI.TXT’, tính rồi đưa ra màn hình khoảng cách (với độ chính xác hai chữ số sau dấu chấm thập phân) giữa trại của mỗi giáo viên chủ nhiệm và trại của thầy hiệu trưởng như sau: Program Khoang_cach; var d: real; f: text; x,y :integer; begin assign(f,’trai.xtx’); reset(f); while not eof(f) do begin read(f,x,y); d :=sqrt(x*x + y*y ); writeln(‘khoang cach : ‘,d:10,2); end; close(f); end. Ví dụ 2: Cho 3 điện trở R1, R2, R3. Sử dụng cả ba điện trở để tạo ra năm mạch điện có điện trở tương đương khác nhau bằng cách mắc theo sơ đồ nêu ở Hình 17 trong sách giáo khoa trang 88. Mỗi cách mắc sẽ cho một điện trở tương đương khác nhau. Ví dụ nếu mắc theo sơ đồ I thì điện trở tương đương sẽ là: Nếu mắc tho sơ đồ V thì R = R1+R2+R3. Cho tệp văn bản ‘RESIST.DAT’ gồm nhiều dòng, mỗi dòng chứa 3 số thực R1, R2, R3, các số cách nhau 1 dấu cách, 0 < R1, R2, R3 ≤ 105. Sau đó sách giáo khoa đưa ra chương trình đọc dữ liệu từ tệp ‘RESIST.DAT’, tính các điện trở tương đương và ghi kết quả ra tệp văn bản ‘RESIST.EQU’, mỗi dòng ghi 5 điện trở tương đương của 3 điện trở ở dòng dữ liệu vào tương ứng như sau: Program Dien_tro; Var a: array[1..5] of real; R1, R2, R3: real; f1,f2 :text; i: integer; Begin Assign(f1,‘RESIST.DAT’); Reset(f1); Assign(f2,‘RESIST.EQU’); Rewrite(f2); While not eof(f1) do Begin Readln(f1,R1,R2,R3); a[1]:=R1*R2*R3/(R1*R2+R1*R3+R2*R3); a[2]:=R1*R2/(R1+R2)+R3; a[3]:=R1*R3/(R1+R3)+R2; a[4]:=R2*R3/(R2+R3)+R1; a[5]:=R1+R2+R3; For i:=1 to 5 do write(f2, a[i]:9:3,’ ‘); Writeln(f2); End; Close(f1); Close(f2); End. Đối với 2 ví dụ này, nếu dạy các lớp phân ban hay các lớp cơ bản học nâng cao các môn tự nhiên thì không thành vấn đề. Có những lớp như 11A1, 11A2 (là những lớp phân ban tự nhiên), tôi cho học sinh vận dụng các kiến thức liên môn toán và vật lý xây dựng chương trình rất tốt. Các em rất tích cực, hào hứng tham gia xây dựng bài và phần lớn các em hiểu bài, nắm chắc kiến thức. Những lớp yếu hơn (như 11A3, 11A4, 11A5, 11A6, 11a7), tôi chỉ dừng lại ở việc đọc hiểu chương trình bằng cách giải thích ý nghĩa từng câu lệnh, biên dịch và chạy thử chương trình để học sinh dự đoán kết quả (tính bằng tay) và đối chiếu kết quả chạy trên máy tính. Nhưng dù sao thì phần lớn các em cũng hiểu được ý nghĩa của chương trình, nhận biết được đâu là câu lệnh khai báo tệp, đâu là câu lệnh gắn tên tệp, mở tệp, đọc, ghi tệp và đóng tệp Từ đó có thể vận dụng những câu lệnh đó để viết một chương trình đơn giản nhất như đọc từ tệp vào dãy số, tính tổng hay tích các số đó rồi ghi kết quả vào một tệp khác. Còn đối với các lớp ban cơ bản, tôi nhận thấy là nếu mình thực hiện như với những lớp trên thì học sinh sẽ không hiểu bài và mục tiêu bài học sẽ không đạt được. Bởi thực tế dạy học ở các lớp này có những em học sinh không nhớ nổi công thức tính chu vi, diện tích hình tròn, hình chữ nhật, không giải nổi phương trình bậc hai chứ đừng mong các em tính được khoảng các giữa các điểm và tính được điện trở tương đương. Tôi thấy rằng hai ví dụ mà sách giáo khoa đưa ra là quá sức đối với các em. Có cố gắng thế nào đi nữa thì tôi cũng không thể làm sao cho các em hiểu được việc đọc các cặp tọa độ từ tệp TRAT.TXT, đọc dữ liệu từ tệp RESIST.DAT gồm nhiều dòng, mỗi dòng chứa 3 số thực R1, R2, R3, tính khoảng cách hay tính điện trở tương đương cho từng đoạn mạch rồi đưa kết quả vào mảng 1 chiều gồm 5 phần tử Những vấn đề đó dường như quá trừu tượng và phức tạp đối với các em. Do vậy, khi giảng dạy ở những lớp này (cụ thể là lớp 11A8, 11A9, 11A10) tôi không sử dụng hai ví dụ trong sách giáo khoa mà thay vào đó là những ví dụ vô cùng đơn giản để giúp các em có thể hiểu được chương trình và nắm được các thao tác với kiểu dữ liệu tệp. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Cụ thể khi dạy các lớp cơ bản bài 16 “Ví dụ làm việc với tệp” tôi đã tiến hành như sau: Tôi xin được trình bày sơ lược nội dung kế hoạch dạy-học của mình. Hoạt động 1: Ổn định tổ chức và kiểm tra bài cũ (15p) Mục tiêu: Kiểm tra việc học bài cũ của học sinh đồng thời củng cố lại kiến thức đã học. 1.1. Gọi học sinh nêu vai trò của tệp và phân loại tệp. 1.2. Gọi 3 học sinh lần lượt lên bảng thực hiện 3 câu hỏi sau. CH1:Viết cú pháp khai báo tệp, thủ tục gắn tên tệp và cho ví dụ khai báo 2 tệp văn bản và gắn tên cho 2 tệp đó. CH2: Viết cú pháp thủ tục mở tệp, đóng tệp. Cho ví dụ mở tệp, đóng tệp với 2 tệp đã được khai báo ở câu trên. CH3: Viết cú pháp thủ tục đọc, ghi tệp văn bản. Cho ví dụ. Sau khi học sinh thực hiện mỗi câu hỏi, giáo viên cho các học sinh khác nhận xét rồi chuẩn hóa kiến thức luôn. 1.3. Mời một bạn lên bảng nêu lần lượt các thao tác để có thể đọc dữ liệu từ tệp văn bản và một bạn nêu các thao tác để ghi dữ liệu ra tệp văn bản. Cho lớp nhận xét. Giáo viên nhận xét và chốt lại Sơ đồ đọc dữ liệu từ tệp văn bản: Khai báo tệp: var : text; Gắn tên tệp: assign (,); Mở tệp: reset(); Đọc tệp: read/readln(,); Đóng tệp: close(); Sơ đồ ghi dữ liệu ra tệp văn bản: Khai báo tệp: var : text; Gắn tên tệp: assign (,); Mở tệp: rewrite(); Ghi tệp: write/writeln(,); Đóng tệp: close(); 1.4. Gọi học sinh lên bảng nêu các hàm khi đọc/ghi tệp văn bản. Hoạt động 2: Tìm hiểu ví dụ 1: Chương trình đơn giản có sử dụng kiểu dữ liệu tệp. (15p) Mục tiêu: Giúp học sinh nắm được cấu trúc của một chương trình đơn giản có sử dụng kiểu dữ liệu tệp và nhận biết được các thao tác đối với tệp văn bản. Program VD; Var t1,t2: text; a, b, c, d : integer; Begin Assign(t1,’so.inp’); assign(t2,’so.out’); Reset(t1); rewrite(t2); Read(t1,a,b); c:= a+b; write(t2,c,’ ’,d); Close(t1); Close(t2); End. Giáo viên chiếu chương trình Ví dụ 1 lên màn hình và yêu cầu học sinh trả lời những câu hỏi sau: CH1: Chương trình trên sử dụng biến tệp nào? Đâu là câu lệnh khai báo biến tệp? CH2: Đâu là câu lệnh gắn tên tệp? Tên tệp ở đây là gì? CH3: Đâu là câu lệnh mở tệp? mở tệp để đọc hay ghi dữ liệu? CH4: Đâu là câu lệnh đọc dữ liệu từ tệp? tệp được đọc dữ liệu tên là gì? đọc dữ liệu từ tệp gán giá trị cho biến nào? CH5: Đâu là câu lệnh ghi dữ liệu vào tệp? ghi vào tệp tên là gì? ghi giá trị gì vào tệp? CH6: Đâu là câu lệnh đóng tệp? CH7: Chương trình này thực hiện công việc gì? Sau khi học sinh trả lời từng câu hỏi, giáo viên cho cả lớp nhận xét, giáo viên nhận xét, chỉ ra đáp án. Sau đó, giáo viên lấy ví dụ trên tệp cụ thể. Cho học sinh dự đoán kết quả của chương trình rồi biên dịch và chạy chương trình để học sinh quan sát và đối chiếu kết quả. Đồng thời trong lúc lấy ví dụ chạy chương trình, giáo viên hướng dẫn luôn cho học sinh cách tạo tệp văn bản, lưu tệp văn bản và mở tệp văn bản để xem trong Pascal. Giáo viên chạy chương trình nhiều lần với các bộ dữ liệu khác nhau cho học sinh quan sát và có thể sửa đổi cấu trúc các tệp ‘so.inp’ và câu lệnh đọc dữ liệu từ tệp (thay read(t1,a,b); bằng readln(t1,a,b); hoặc readln(t1,a); read(t1,b); ) để học sinh hiểu cách đọc tệp. Để học sinh phân biệt được việc khác nhau giữa Write và writeln trong câu lệnh ghi dữ liệu ra tệp, giáo viên có thể sửa đổi câu lệnh write(t2,c, ‘ ‘,d); thành writeln(t2,c); write(t2,d); Từ đó giúp học sinh củng cố lại một lần nữa câu lệnh đọc/ghi tệp văn bản và thấy nó không xa lạ gì vì giống với việc đọc dữ liệu vào từ bàn phím và ghi dữ liệu ra màn hình đã được học từ trước. Hoạt động 3: Rèn luyện kĩ năng viết một chương trình hoàn chỉnh đơn giản có sử dụng kiểu dữ liệu tệp. (15p) Mục tiêu: Học sinh sử dụng được các thủ tục làm việc với tệp để giải quyết yêu cầu bài toán đặt ra. 3.1. Ví dụ 2: Viết chương trình nhập 2 số dương từ bàn phím. Tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật có kích thước là 2 số vừa nhập, kết quả in ra màn hình. Với yêu cầu này thì phần đông các em có thể viết rất tốt nên buộc cả lớp phải viết vào giấy nháp để cô giáo kiểm tra và gọi 1 học sinh xung phong lên bảng viết chương trình ngay trên máy tính. Viết xong, cho học sinh chạy thử luôn chương trình cho cả lớp quan sát. 3.2. Ví dụ 3: Viết chương trình đọc 2 số dương từ tệp “so.inp”. Tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật có kích thước là 2 số vừa nhập, kết quả ghi ra tệp “so.out” Từ chương trình đã được viết ở trên với những kiến thức đã được củng cố đầu giờ học phần lớn các em có thể sửa đổi chương trình đã viết để đáp ứng yêu cầu đặt ra. Giáo viên gọi 1 học sinh lên bảng để viết chương trình. Sau đó giáo viên cho cả lớp nhận xét, rồi giáo viên nhận xét lại, chuẩn hóa chương trình nếu có sai sót; chạy chương trình cho học sinh xem. 3.3. Ví dụ 4: Viết chương trình đọc một dãy số từ tệp “Vidu.txt” tính tổng các số trong dãy và ghi kết quả ra tệp “Ketqua.txt”. Dữ liệu trong tệp “Vidu.txt” là các số thực trên cùng một dòng, các số cách nhau một dấu cách. Sau khi thực hiện ví dụ 3, học sinh đã nắm chắc hơn các câu lệnh làm việc với tệp để viết chương trình. Cái khó ở ví dụ này đối với học sinh là vì ở đây có nhiều số nhưng lại không giới hạn là nhiều nhất bao nhiêu số nên học sinh sẽ bị lúng túng khi khai báo biến và đọc dữ liệu từ tệp. Giáo viên phải dẫn dắt gợi ý học sinh một cách khéo léo. Thông thường, các em sẽ nghĩ ngay đến kiểu dữ liệu mảng nhưng lại gặp khó khăn là không biết giới hạn cao nhất của số phần tử của mảng. Nếu khai báo biến đơn thì không biết phải khai báo bao nhiêu biến. Do vậy ta buộc phải đọc từng số một từ tệp và như vậy ta phải sử dụng cấu trúc lặp để đọc tệp cụ thể ở đây phải sử vòng lặp While do chứ không thể sử dụng For do được. Ta chỉ dừng việc đọc từng số cho đến số cuối cùng tức là khi hết tệp và ta sẽ dùng đến hàm eof(). Nếu sau khi gợi ý, có học sinh có thể tự viết được chương trình thì ta gọi học sinh lên viết, chạy chương trình cho cả lớp xem. Nếu không có ai xung phong lên tự viết thì giáo viên sẽ hướng dẫn các em xây dựng chương trình từng phần một như: khai báo biến , gắn tên tệp, mở tệp, đọc tệp, tính tổng, ghi tệp và đóng tệp. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Qua thực tế giảng dạy áp dụng kinh nghiệm như đã trình bày ở năm học này đã có sự thay đổi rõ rệt so với năm học trước. Tôi đã hoàn toàn thoát khỏi cảm giác ức chế, chán nản sau giờ dạy của năm học trước. Năm ngoái, khi kết thúc giờ dạy ở những lớp cơ bản, vì học sinh không hiểu bài, chán học nên khi bước chân ra khỏi lớp, tôi luôn mang theo một tâm trạng nặng nề, băn khoăn. Lúc đó tôi cảm thấy mình như chưa hoàn thành giờ dạy. Tôi thấy tiết học vừa qua hình như mình vừa làm những việc không đúng và vô ích, tôi đã một mình “độc thoại” cả giờ mà học sinh chẳng hiểu gì. Giờ đây, ở năm học này, khi dạy Bài 16 - Tin học 11 ở những lớp 11a8, 11a9, 11a10, tôi đã thấy học sinh có thể tham gia xây dựng bài học, lớp học có không khí sôi nổi, các em đã chủ động, tích cực hơn rất nhiều trong việc nắm bắt kiến thức. Nhìn vào mặt các em, tôi thấy việc học lập trình đối với các em không còn cao xa, mơ hồ nữa. Các em đã có thể tự viết được chương trình để chạy trên máy tính, mặc dù chương trình đó có vô cùng đơn giản đi chăng nữa. Và hơn tất cả là các em đã yêu thích môn học hơn. Điều đó đã khuyến khích bản thân tôi rất nhiều. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy việc lựa chọn những nội dung kiến thức, ví dụ minh họa phù hợp với từng đối tượng học sinh là rất quan trọng nhất là với đối tượng học sinh có học lực từ trung bình trở xuống. Nó giúp cho các em dễ dàng tiếp thu được kiến thức. Các em thấy tự tin, hứng thú hơn trong học tập và vì thế kết quả cũng khả quan hơn rất nhiều. Tôi tin rằng kinh nghiệm này có thể áp dụng chung cho tất cả các bộ môn ở tất cả các phần kiến thức và tất cả các nhóm đối tượng học sinh ở các cấp, khối, lớp học. Đây cũng chính là một phần trong phương thức “dạy học phân hóa” đang được đẩy mạnh thực hiện hiện nay của nền giáo dục nước nhà. 2. Kiến nghị Trên đây là một số tìm tòi và suy nghĩ của tôi trong quá trình giảng dạy với mong muốn tìm ra phương pháp tốt để học sinh nói chung và học sinh có học lực trung bình, yếu kém nói riêng có thể tích cực nắm bắt, tiếp thu được kiến thức. Trong khi trình bày không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý, nhận xét của các đồng chí đồng nghiệp và ban giám khảo để đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 10 tháng 05 năm 2016 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người thực hiện: Lưu Thị Can
Tài liệu đính kèm:
- kinh_nghiem_giang_day_bai_16_tin_hoc_11_cho_doi_tuong_hoc_si.doc
- M2-Bia skkN.doc
- MỤC LỤC.doc