Học sinh trường thpt Quảng xương 3 thiết kế, chế tạo và làm một số thí nghiệm về chất khí – chương trình Vật lý 10

Học sinh trường thpt Quảng xương 3 thiết kế, chế tạo và làm một số thí nghiệm về chất khí – chương trình Vật lý 10

Với vai trò là giáo viên bộ môn Vật lý và làm công tác quản lý trong nhà trường, tôi thấy trong công tác giảng dạy của bộ môn, có nhiều thí nghiệm Vật lý mà thiết bị thí nghiệm cũ, hỏng, hoặc không có làm cho học sinh không hứng thú khi tiếp thu kiếm thức, không tư duy tìm tòi dẫn đến chán học môn Vật lý.

Đồng thời qua kết quả khảo sát PASEC 10 và thống kê mới nhất từ cuộc khảo sát PISA cho thấy, những hạn chế của học sinh Việt Nam khi được “xếp hạng” công khai theo các tiêu chí của quốc tế. Tuy kỹ năng đọc, viết và tính toán cao hơn nhiều nước phát triển, nhưng tiêu chí linh hoạt, cởi mở của học sinh lại đứng cuối bảng. Lỗi từ đâu?

Vì vậy ngành giáo dục nước ta đã và đang thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013, tiến hành cải cách nội dung và phương pháp giảng dạy trong nhà trường ở mọi cấp học, ngành học. Tuy vậy trong nhà trường hiện nay điểm yếu của học sinh như đã nêu ở trên vẫn tồn tại.

Để góp phần khắc phục các điểm yếu như đã nêu, về phí bộ môn Vật lý tôi thấy rằng: làm các thí nghiệm Vật lí ở nhà trường là một trong các biện pháp quan trọng nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí. Điều này quyết định bởi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và bởi nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học đi đôi với hành”.

Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận thức của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, điều đó rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt động thực tế. Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị và đo lường các đại lượng,., các em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất sau này.

 

doc 23 trang thuychi01 6713
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Học sinh trường thpt Quảng xương 3 thiết kế, chế tạo và làm một số thí nghiệm về chất khí – chương trình Vật lý 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
HƯỚNG DẪN
HỌC SINH TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 3 THIẾT KẾ, CHẾ TẠO VÀ LÀM MỘT SỐ THÍ NGHIỆM VỀ CHẤT KHÍ – CHƯƠNG TRÌNH VẬT LÝ 10
Người thực hiện: Võ Anh Tuấn
Chức vụ: P. Hiệu trưởng
SKKN môn: Vật lý
THANH HOÁ NĂM 2016
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu 
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG
 2.1 Cơ sở lí luận của việc phát huy tính tìm tòi, sáng tạo của học sinh trong thiết kế, chế tạo và làm thí nghiệm Vật lý.
2.1.1.Phát huy tính tìm tòi, sáng tạo, và tích cực
 2.1.2. Tầm quan trọng của thí nghiệm Vật lý. 
2.2. Thực trạng. 
 2. 3. Xây dựng quy trình tổ chức và hướng dẫn 
2.4 Nội dung thực hiện.
2.5. Kết quả nghiên cứu của các nhóm.
2.5.1. Bộ thí nghiệm 1
2.5.2. Bộ Thí nghiệm 2 
2.5.3. Bộ thí nghiệm 3 
II. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 PHỤ LỤC
2
2
2
3
3
4
4
4
5
7
7
9
10
10
13
15
18
20
MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Với vai trò là giáo viên bộ môn Vật lý và làm công tác quản lý trong nhà trường, tôi thấy trong công tác giảng dạy của bộ môn, có nhiều thí nghiệm Vật lý mà thiết bị thí nghiệm cũ, hỏng, hoặc không có làm cho học sinh không hứng thú khi tiếp thu kiếm thức, không tư duy tìm tòi dẫn đến chán học môn Vật lý.
Đồng thời qua kết quả khảo sát PASEC 10 và thống kê mới nhất từ cuộc khảo sát PISA cho thấy, những hạn chế của học sinh Việt Nam khi được “xếp hạng” công khai theo các tiêu chí của quốc tế. Tuy kỹ năng đọc, viết và tính toán cao hơn nhiều nước phát triển, nhưng tiêu chí linh hoạt, cởi mở của học sinh lại đứng cuối bảng. Lỗi từ đâu?
Vì vậy ngành giáo dục nước ta đã và đang thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013, tiến hành cải cách nội dung và phương pháp giảng dạy trong nhà trường ở mọi cấp học, ngành học. Tuy vậy trong nhà trường hiện nay điểm yếu của học sinh như đã nêu ở trên vẫn tồn tại. 
Để góp phần khắc phục các điểm yếu như đã nêu, về phí bộ môn Vật lý tôi thấy rằng: làm các thí nghiệm Vật lí ở nhà trường là một trong các biện pháp quan trọng nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí. Điều này quyết định bởi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và bởi nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học đi đôi với hành”.
Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận thức của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, điều đó rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt động thực tế. Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị và đo lường các đại lượng,..., các em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất sau này.
Đặc biệt, việc thiết kế, chế tạo và làm các thí nghiệm Vật lí phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lí và khả năng nhận thức của học sinh cấp THPT, đồng thời tạo điều kiện rèn luyện cho học sinh các kỹ năng thực hành và thái độ ứng xử trong thực hành, cần thiết cho việc học tập và làm việc khi tốt nghiệp. Nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của thí nghiệm Vật lí trong việc đáp ứng mục tiêu của bộ môn Vật lí, vì vậy tôi chọn đề tài “HƯỚNG DẪN HỌC SINH TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 3 THIẾT KẾ, CHẾ TẠO VÀ LÀM MỘT SỐ THÍ NGHIỆM VỀ CHẤT KHÍ – CHƯƠNG TRÌNH VẬT LÝ 10’’ 
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Điểm mới của sáng kiến là xây dựng được quy trình tổ chức, và hướng dẫn các nhóm học sinh chế tạo được các bộ thí nghiệm đơn giản, rẻ tiền và thực hiện thành công được các bộ thí nghiệm trong buổi ngoại khóa Vật lí trước toàn trường. Sáng kiến cũng đã kết hợp phương pháp dạy học truyền thống và các phương tiện dạy học hiện đại để xây dựng nên phương pháp dạy học tích cực, ở đó học sinh là chủ thể hợp tác tham gia vào quá trình tìm tòi, khám phá tri thức.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Đối với bộ môn Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, các khái niệm vật lí, các định luật vật lí, các thuyết vật lí, các ứng dụng kĩ thuật của vật lí đều phải gắn liền với thực nghiệm. Thông qua thí nghiệm, những biểu tượng cụ thể về sự vật và hiện tượng được hình thành ở học sinh mà không lời lẽ nào có thể mô tả đầy đủ được. Tuy nhiên qua khảo sát thực tế tôi nhận thấy, số bộ thí nghiệm trang bị cho dạy và học còn thiếu nên lượng học sinh được tiếp cận các bộ thí nghiệm này trong quá trình học là rất ít. Không những vậy một số bộ thí nghiệm được cấp về trường lại thiếu thiết bị hỗ trợ như: Một số bộ thí nghiệm điện lớp 11 không có nguồn điện để thực hiện thí nghiệm, một số bộ thí nghiệm của Trung quốc không có hướng dẫn sử dụng Theo mục tiêu giáo dục học sinh không những phải tiến hành các thí nghiệm có sẵn mà còn được giao nhiệm vụ thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm đơn giản. Với nhiệm vụ học tập này sẽ kích thích hứng thú học Vật lí, đặc biệt là phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng tư duy kỹ thuật, năng lực làm việc nhóm, chia sẻ thông tin... 
Do vậy, việc hướng dẫn học sinh biết thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm từ vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền để học sinh có thể tự chế tạo được luôn là một hướng nghiên cứu phổ biến của tổ Vật lý và các giáo viên dạy môn Vật lí.
Vì vậy sáng kiến “HƯỚNG DẪN HỌC SINH TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 3 THIẾT KẾ, CHẾ TẠO VÀ LÀM MỘT SỐ THÍ NGHIỆM VỀ CHẤT KHÍ – CHƯƠNG TRÌNH VẬT LÝ 10’’ đáp ứng được các vấn đề đã nêu.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu qua thực tế dạy và học Vật lí ở trường phổ thông, qua việc áp dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn, khả năng giải quyết tình huống cụ thể, khả năng chia sẻ, hợp tác của học sinh trong việc giải quyết nhiệm vụ.
- Nghiên cứu quy trình tổ chức, hướng dẫn của giáo viên dạy Vật lý với một nhóm, một lớp học sinh để giải quyết một nhiệm vụ cụ thể được giao ngoài giờ học chính khóa, để có sản phẩm được học sinh giới thiệu trước tập thể. 
- Yêu cầu là đạt được sản phẩm sau: 
Bộ thí nghiệm 1: Kiểm nghiệm tính dễ nén của chất khí. Chứng minh có khoảng trống giữa các phân tử chất lỏng. Chứng minh tính linh động của các phân tử chất lỏng, chất khí.
Bộ thí nghiệm 2: Kiểm nghiệm hệ quả của lực hút phân tử giữa nước và thuỷ tinh – chứng tỏ nước như một “keo dính”. Xác định lực căng mặt ngoài của chất lỏng.
Bộ thí nghiệm 3. Kiểm nghiệm nội dung các định luật định luật Bôilơ - Mariốt, định luật Sac-lơ. Thí nghiệm cho quả trứng vào trong chai có miệng nhỏ hơn để minh họa sự phụ thuộc của áp suất vào nhiệt độ. 
NỘI DUNG
 2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÌM TÒI, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG THIẾT KẾ, CHẾ TẠO VÀ LÀM THÍ NGHIỆM VẬT LÝ.
 2.1.1.Phát huy tính tìm tòi, sáng tạo, và tích cực là các yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự thành công của mỗi cá nhân trong mọi loại hoạt động và quyết định sự hoàn thiện không ngừng của nhân cách trong quá trình hoạt động thực tiễn. Là điều kiện cần cho sự phát triển tư duy độc lập và tư duy sáng tạo mặc dù mức độ độc lập của tư duy và sáng tạo của mỗi học sinh còn phụ thuộc vào nhiều đặc điểm mang tính cách cá nhân, vì thế rất khác nhau với các học sinh khác nhau. Mức độ phát triển của tư duy và óc sáng tạo không thể hoạch định trong mục tiêu giáo dục, không thể đòi hỏi mọi học sinh cùng đạt tới một chuẩn mực sáng tạo nào đó nhưng dạy học cần tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của tư duy và óc sáng tạo của học sinh.
 a, Động cơ học tập - nguồn gốc của tính tích cực trong học tập
Động cơ học tập là sự giác ngộ nhiệm vụ học tập. Nói đến động cơ, chúng ta phải nói đến lòng say mê, ham muốn đối với một công việc, một đối tượng nào đó mà chủ thể cần đạt được. Lòng ham mê đối với tri thức sẽ hình thành ở học sinh một động cơ học tập đúng đắn.
Môn Vật lý có nhiều ưu thế để hình thành động cơ học môn học. Để HS có động cơ học tập môn Vật lý đúng, giáo viên cần đầu tư nhiều thời gian, công sức và tình cảm, phát huy lợi thế chuyên môn vào quá trình dạy học môn khoa học này.
b, Hứng thú, tự giác, tự lực - các phẩm chất của tính tích cực học tập
Hứng thú học tập nuôi dưỡng bởi động cơ. Làm thế nào để gây hứng thú và duy trì sự hứng thú ấy là điều không đơn giản. Tri thức sâu, rộng của thầy, lời nói chữ viết của thầy, những bài thí nghiệm mà thầy biểu diễn trước lớpcó thể sẽ gây hứng thú cho học sinh. Tuy nhiên nếu chỉ như vậy thôi thì hứng thú cũng rất có thể mất đi khi một ngày nào đó những yếu tố trên không còn gì mới mẻ. Trong dạy học Vật lý, khai thác tìm tòi, làm các thí nghiệm và hàng “kho” bài tập song không phải tự chúng có thể gây hứng thú và duy trì sự hứng thú cho học sinh. Đôi khi, nếu không biết sử dụng, chúng còn làm cho học sinh thấy nhàm chán hoặc coi là những khó khăn trong học tập. 
Để môn Vật lý tạo ra và duy trì được hứng thú học tập và từ đó xuất hiện các phẩm chất khác của tính tích cực học tập, người giáo viên cần phải:
- Chế biến mỗi bài học, mỗi sự kiện là một tình huống để HS tham gia giải quyết, không biến bài học lí thuyết trở thành một chuỗi những câu thuyết giảng, trừu tượng.
- Đưa các nội dung bài học vào đời sống thực tế để học sinh nhìn thấy ích lợi của việc học, thấy cái hay, cái đẹp của Vật lý.
- Sắp xếp các bài tập Vật lý thành những chuyên đề nhỏ, theo các mức độ nhận thức của học sinh, sử dụng chúng có ý đồ phát triển rõ rệt. Các dạng bài tập phong phú, cách sử dụng đa dạng sẽ khai thác được tối đa tác dụng của chúng. Đặc biệt không thể bỏ qua các thí nghiệm Vật lý.
 c, Những biểu hiện của tính tích cực học tập
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung lắng nghe, theo dõi mọi hành động của giáo viên, chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn, có khả năng vận dụng kiến thức vào việc giải quyết những tình huống mới, có sáng tạo trong giải quyết vấn đề tìm ra cái mới.
 d, Các cấp độ của tính tích cực học tập
Theo GS.TS. Trần Bá Hoành:tính tích cực của học sinh được chia làm 3 cấp độ từ thấp đến cao.
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn bè
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau để tìm ra lời giải đáp hợp lý nhất.
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu
2.1.2. Tầm quan trọng của thí nghiệm Vật lý.
Trong dạy học Vật lý, thí nghiệm đóng một vai trò quan trọng, dưới quan điểm lí luận dạy học vai trò đó được thể hiện những mặt sau:
-  Thí nghiệm có thể được sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của tiến trình dạy học
 - Thí nghiệm góp phần vào việc phát triển toàn diện học sinh
 - Thí nghiệm là phương tiện góp phần quan trọng vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho học sinh.
 - Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập của học sinh
 - Thí nghiệm là phương tiện gây hứng thú, là yếu tố kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của học sinh học tập, nhờ đó làm cho các em tích cực và sáng tạo hơn trong quá trình nhận thức.
-  Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức hoạt động của học sinh
- Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc độc lập hoặc tập thể qua đó góp phần bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức của học sinh . 
-  Thí nghiệm vật lý góp phần làm đơn giản hoá các hiện tượng và quá trình vật lý.
 Làm các thí nghiệm vật lí ở nhà trường là một trong các biện pháp quan trọng nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí. Điều này quyết định bởi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và bởi nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học đi đôi với hành”.
Thường thì, do kinh nghiệm sống học sinh đã có một số vốn hiểu biết nào đó về các hiện tượng Vật lí. Nhưng không thể coi những hiểu biết ấy là cơ sở giúp họ tự nghiên cứu Vật lí bởi vì trước một hiện tượng vật lí, học sinh có thể có những hiểu biết khác nhau, thậm chí là sai. 
Ví dụ: Học sinh nào cũng thấy được mọi vật rơi là do Trái Đất hút, nhưng không ít học sinh lại cho rằng vật nặng thì rơi nhanh hơn vật nhẹ. Vì vậy, khi giảng dạy Vật lí, giáo viên một mặt phải tận dụng những kinh nghiệm sống của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh lí, bổ sung, hệ thống hoá những kinh nghiệm đó và nâng cao lên mức chính xác, đầy đủ bằng các thí nghiệm Vật lí, nhờ đó mà tránh được tính chất giáo điều, hình thức trong giảng dạy.
Trong dạy học Vật lí, các thí nghiệm được quy về một trong hai dạng thí nghiệm sau:
Thí nghiệm biểu diễn
Thí nghiệm biểu diễn là thí nghiệm do giáo viên trình bày ở trên lớp.
- Thí nghiệm nêu vấn đề: Thí nghiệm này nhằm nêu lên vấn đề cần nghiên cứu tạo ra tình huống có vấn đề làm tăng hiệu quả của dạy học.
 - Thí nghiệm giải quyết vấn đề: Thí nghiệm thuộc bài này được thực hiện giải quyết vấn đề đặt ra sau phần nêu vấn đề. 
Bao gồm hai loại thí nghiệm:
+Thí nghiệm khảo sát: Là thí nghiệm tiến hành nghiên cứu vấn đề đặt ra thông qua đó giáo viên hướng dẫn học sinh đi đến khái niệm cần thiết.
+ Thí nghiệm kiểm chứng: Là thí nghiệm dùng để kiểm tra lại những kết luận được suy ra từ lí thuyết.
 - Thí nghiệm củng cố:
- Thí nghiệm thuộc loại này dùng để củng cố kiến thức đã nghiên cứu bao gồm cả những thí nghiệm nói lên ứng dụng của kiến thức Vật lí trong đời sống và trong kỹ thuật.
b. Thí nghiệm thực hành
 Thí nghiệm thực hành Vật lí là thí nghiệm do tự tay học sinh tiến hành đưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Căn cứ vào nội dung:
Có thể chia thí nghiệm thực hành làm hai loại:
- Thí nghiệm thực hành định tính:Loại thí nghiệm này có ưu điểm nêu bật bản chất của hiện tượng.
 - Thí nghiệm thực hành định lượng: Loại thí nghiệm này có ưu điểm giúp học sinh nắm được quan hệ giữa các đại lượng vật lí một cách chính xác rõ ràng.
 Căn cứ vào tính chất
 - Thí nghiệm thực hành khảo sát: Loại thí nghiệm này học sinh chưa biết kết quả thí nghiệm, phải thông qua thí nghiệm mới tìm ra được các kết luận cần thiết. Loại thí nghiệm này được tiến hành trong khi nghiên cứu kiến thức mới.
 - Thí nghiệm kiểm nghiệm: Loại thí nghiệm này được tiến hành kiểm nghiệm lại những kết luận đã được khẳng định cả về lí thuyết và thực nghiệm nhằm đào sâu vấn đề hơn..
 Căn cứ vào hình thức tổ chức thí nghiệm
- Thí nghiệm thực hành đồng loạt: Loại thí nghiệm này tất cả các nhóm học sinh đều cùng làm một thí nghiệm, cùng thời gian và cùng một kết quả. Đây là thí nghiệm được sử dụng nhiều nhất hiện nay vì có nhiều ưu điểm. Đó là: 
+ Trong khi làm thí nghiệm các nhóm trao đổi giúp đỡ nhau và kết quả trung bình đáng tin cậy hơn.
+ Việc chỉ đạo của giáo viên tương đối đơn giản vì mọi việc uốn nắn hướng dẫn, sai sót, tổng kết thí nghiệm đều được hướng dẫn đến tất cả học sinh.
- Thí nghiệm thực hành loại phối hợp:Trong hình thức tổ chức này học sinh được chia thành nhiều nhóm khác nhau, mỗi nhóm chỉ làm thí nghiệm một phần đề tài trong thời gian như nhau, sau đó phối hợp các kết quả của các nhóm lại sẽ được kết quả cuối cùng của đề tài.
- Thí nghiệm thực hành cá thể:Trong hình thức tổ chức này các nhóm học sinh làm thí nghiệm trong cùng thời gian hoặc cùng đề tài nhưng dụng cụ và phương pháp khác nhau.
Các loại bài thực hành 
 - Thí nghiệm thực hành khảo sát đồng loạt lớp: Trong kiểu bài này tất cả các nhóm học sinh cùng làm thí nghiệm khảo sát trong giờ học thay cho thí nghiệm biểu diễn của giáo viên để nhận thức kiến thức mới. Nội dung có thể là định tính hay định lượng.
- Thí nghiệm thực hành kiểm nghiệm đồng loạt lớp: Loại thí nghiệm này thường sử dụng cho thí nghiệm định lượng.
- Thí nghiệm thực hành ở ngoài lớp: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm ở nhà với mục đích chuẩn bị bài sau hoặc củng cố bài học.
2.2. Thực trạng.
	Trong chương trình THPT hiện nay, nội dung về chất khí trong chương trình lớp 10 gồm 6 bài (chương trình nâng cao), 4 bài (chương trình cơ bản). Trong khung chương trình theo quy định không có tiết thực hành. Nhìn chung, do giới hạn về thời gian và thiết bị thí nghiệm cũ, hỏng, nên các nội dung thí nghiệm của các bài học trên giáo viên đều trình bày như sách giáo khoa mà không tiến hành làm tại lớp được. Dẫn đến học sinh khó khăn trong tiếp thu kiến thức mới. Tư duy của học sinh hạn chế làm mất hứng thú với bộ môn Vật lý.
2. 3. Xây dựng quy trình tổ chức và hướng dẫn .
2.3.1. Các yêu cầu đối với việc thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản. 
Các dụng cụ thí nghiệm mà chúng tôi dự kiến giao cho học sinh thiết kế, chế tạo phải đáp ứng các yêu cầu về mặt kĩ thuật và sư phạm đối với dụng cụ thí nghiệm đơn giản như sau:
- Việc chế tạo dụng cụ thí nghiệm đòi hỏi ít vật liệu, các vật liệu này đơn giản, rẻ tiền, dễ kiếm. 
- Dễ chế tạo dụng cụ thí nghiệm từ việc gia công các vật liệu đơn giản bằng các công cụ thông dụng như kìm, búa, cưa, giũa,... Chính nhờ đặc điểm này của các dụng cụ thí nghiệm đơn giản, trong một số trường hợp, ta có thể làm được một số thí nghiệm mà không thể tiến hành được với các dụng cụ thí nghiệm có sẵn trong phòng thí nghiệm.
- Dễ lắp ráp, tháo rời các bộ phận của dụng cụ thí nghiệm. Vì vậy, với cùng một dụng cụ thí nghiệm đơn giản, trong nhiều trường hợp, ta chỉ cần thay thế các chi tiết phụ trợ là có thể làm được thí nghiệm khác.
- Dễ bảo quản, vận chuyển và an toàn trong chế tạo cũng như trong quá trình tiến hành thí nghiệm.
- Việc bố trí và tiến hành thí nghiệm với những dụng cụ thí nghiệm này cũng đơn giản, không tốn nhiều thời gian.
- Hiện tượng vật lí diễn ra trong thí nghiệm với dụng cụ thí nghiệm đơn giản phải rõ ràng, dễ quan sát.
Những đặc điểm cơ bản nêu trên của các dụng cụ thí nghiệm đơn giản cũng chính là những yêu cầu của các dụng cụ thí nghiệm mà chúng tôi dự kiến giao cho học sinh thiết kế, chế tạo trong các nhiệm vụ mà học sinh cần thực hiện.
2.3.2. Các bước thực hiện.
Tổ chức hướng dẫn học sinh thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm ở nhà có thể dựa theo quy trình tổ chức hoạt động ngoại khoá vật lí, gồm các bước như sau:
Bước 1: - Chuẩn bị điều kiện xuất phát, thảo luận và giao nhiệm vụ cho học sinh. 
- Học sinh được trang bị đầy đủ các kiến thức vật lí có liên quan đến thí nghiệm. 
- Tổ chức giới thiệu, giao nhiệm vụ nghiên cứu. 
- Phân chia học sinh thành các nhóm, giáo viên phải là người đứng ra phân định công bằng, nhưng không gây sức ép để đảm bảo cho sự thỏa mái khi tham gia nhóm. (Các em thường thích làm cùng với các bạn hay chơi cùng nhau).
- Cùng học sinh thảo luận về dụng cụ thí nghiệm, phương án thiết kế, các bước tiến hành của từng thí nghiệm, mục tiêu cần đạt được sau mỗi thí nghiệm bằng các bộ câu hỏi định hướng. 
- Giáo viên cần cung cấp cho học sinh nguồn tài liệu tham khảo, sách báo, địa chỉ internet và địa chỉ liên lạc với giáo viên khi cần.
 - Dự kiến thời gian hoàn thành nhiệm vụ.
- Xác định được mục tiêu cần đạt. 
Bước 2: Các nhóm học sinh tự thực hiện nhiệm vụ. 
Giáo viên hướng dẫn để các nhóm sẽ tự tổ chức, phân chia nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm cũng như lựa chọn địa điểm để cùng nhau thảo luận và thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Bước 3: Các nhóm báo cáo kết quả
Các nhóm có thể báo cáo định kì với giáo viên về tiến độ thực hiện công việc và các khó khăn cần giáo viên giúp đỡ và báo cáo sản phẩm thực hiện nghiên cứu về ý tưởng thiết kế, dụng cụ thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm và kết quả đó đạt được. 
Bước 4: Tổ chức buổi giao lưu với học sinh toàn trường.
Thảo luận để lựa chọn các thí nghiệm đưa vào giới thiệu vào buổi ngoại khóa giao lưu với học sinh trong toàn trường. Giáo viên nhận xét, khen thưởng và động viên. 
2.4. Nội dung thực hiện.
2.4.1. Nhiệm vụ thực hiện giao cho học sinh.
- Giáo viên tỏ chức thảo luân giao nhiệm vụ thiết kế, chế tạo và thực hiện 3 bộ thí nghiệm cho cả lớp:
Bộ thí nghiệm 1: Kiểm nghiệm tính dễ nén của chất khí. Chứng minh có khoảng trống giữa các phân tử chất lỏng. Chứng minh tính linh động của các phân tử chất lỏng, chất khí.
Bộ Thí nghiệm 2: Kiểm nghiệm hệ quả của lực hút phân tử giữa nước và thuỷ tinh – chứng tỏ nước như một “keo dính”. Xác định lực căng mặt ngoài củ

Tài liệu đính kèm:

  • dochoc_sinh_truong_thpt_quang_xuong_3_thiet_ke_che_tao_va_lam_m.doc