Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng đại trà Toán 7

Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng đại trà Toán 7

Trong những năm gần đây, tình hình học sinh học yếu môn Toán chiếm tỉ lệ khá cao. Các em cảm thấy chán nản khi học môn học này bởi nhiều lý do khác nhau. Đây là vấn đề mà hầu như các giáo viên giảng dạy bộ môn Toán đều quan tâm và trăn trở làm thế nào để chất lượng môn Toán được nâng lên và làm thế nào để các em yêu thích môn học này.

Chúng ta đã biết môn Toán là một môn khoa học tự nhiên, để học tốt bộ môn này đòi hỏi các em không những chăm học mà cần phải biết tư duy sáng tạo. Do xã Việt Xuân là một vùng có nền kinh tế tương đối khó khăn, cha mẹ các em chủ yếu làm nghề nông và đi làm xa nên chưa có sự quan tâm, giúp đỡ các em trong việc học. Nhưng khi các em đầu tư cho việc học của mình thì nguồn tài liệu giúp các em trong công việc học tập cũng còn nhiều hạn hẹp. Thầy cô, ở xa nên có những vấn đề khó khăn trong việc học, những vấn đề các em chưa hiểu, chưa rõ các em lại càng không biết hỏi ai.

docx 20 trang Mai Loan 11/09/2025 410
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng đại trà Toán 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH TƯỜNG
 TRƯỜNG THCS VIỆT XUÂN
 =====***=====
 BÁO CÁO KẾT QUẢ 
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đại trà Toán 7
 Tác giả sáng kiến: Nguyễn Minh Loan
 Việt Xuân, Năm 2019.
 0 SÁNG KIẾN
 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẠI TRÀ TOÁN 7 
 1. LỜI GIỚI THIỆU:
 - Năm học 2018 - 2019 với quyết tâm thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung
phương pháp dạy và học của thầy và trò. Đảm bảo hướng dẫn và tích cực hóa hoạt 
động dạy và học, tạo sự chuyển biến thực sự về việc truyền đạt kiến thức và kĩ năng 
của chương trình học ở bộ môn Toán toàn ngành Giáo dục có nhiều quyết tâm 
trong việc đổi mới chương trình giáo dục và nâng cao chất lượng đại trà. Bản thân 
tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán và làm cho 
các em yêu thích môn học này. Đó là lý do để tôi chọn sáng kiến khoa học này.
 2. TÊN SÁNG KIẾN: “ Một số giải pháp nâng cao chất lượng đại trà Toán 7”.
 3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN:
 - Họ và tên: Nguyễn Minh Loan
 - Địa chỉ: Trường THCS Việt Xuân
 - Số điện thoại: 0989994870 Email liên hệ: 
 nguyenminhloan.c2vietxuan@vinhphuc.edu.vn
 4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN: Nguyễn Minh Loan
 5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: Môn Toán lớp 7
 6. NGÀY ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: Sáng kiến được áp dụng thử từ tháng 9 
 năm 2018 đến tháng 5 năm 2019.
 7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN:
 7.1 Mục đích nghiên cứu:
 Trường THCS Việt Xuân là trường vùng ven không mấy thuận lợi, việc học 
của học sinh ít được quan tâm và đầu tư nên chất lượng thấp chưa đáp ứng với nhu 
cầu. Mỗi giáo viên có cách dạy riêng, có nhiều biện pháp khác nhau trong dạy học 
bộ môn Toán để nâng cao chất lượng bộ môn. Trong quá trình dạy học và qua dự 
 2 Trong những năm gần đây, tình hình học sinh học yếu môn Toán chiếm tỉ lệ 
khá cao. Các em cảm thấy chán nản khi học môn học này bởi nhiều lý do khác 
nhau. Đây là vấn đề mà hầu như các giáo viên giảng dạy bộ môn Toán đều quan 
tâm và trăn trở làm thế nào để chất lượng môn Toán được nâng lên và làm thế nào 
để các em yêu thích môn học này.
 Chúng ta đã biết môn Toán là một môn khoa học tự nhiên, để học tốt bộ môn 
này đòi hỏi các em không những chăm học mà cần phải biết tư duy sáng tạo. Do xã 
Việt Xuân là một vùng có nền kinh tế tương đối khó khăn, cha mẹ các em chủ yếu 
làm nghề nông và đi làm xa nên chưa có sự quan tâm, giúp đỡ các em trong việc 
học. Nhưng khi các em đầu tư cho việc học của mình thì nguồn tài liệu giúp các em 
trong công việc học tập cũng còn nhiều hạn hẹp. Thầy cô, ở xa nên có những vấn 
đề khó khăn trong việc học, những vấn đề các em chưa hiểu, chưa rõ các em lại 
càng không biết hỏi ai. Thực tế năm học 2017 – 2018 chất lượng môn Toán ở khối 
7 cụ thể như sau:
 Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
 12% 30% 39% 15% 4%
 7.6.2. TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN:
 1. Tồn tại:
 - Học sinh đến lớp không thuộc bài cũ và không làm bài tập về nhà.
 - Trong giờ học trên lớp học sinh còn thụ động, ít tham gia các hoạt động 
lĩnh hội kiến thức.
 - Chất lượng môn Toán 7 của học sinh ở những năm học trước chưa cao, dẫn 
đến các môn học khác cũng có chất lượng thấp.
 4 trình học toán học sinh luôn luôn phải suy nghĩ để hành động tìm ra giải pháp nhằm 
giải quyết những vấn đề chiếm lĩnh kiến thức mới. Quá trình đó đã rèn luyện khả 
năng phát triển tư duy trí tuệ ở học sinh. Phải nói môn Toán là môn học đòi hỏi học 
sinh phải hoạt động, chịu khó suy nghĩ nhiều. Từ đó góp phần phát triển tư duy rất 
mạnh so với các môn học khác.
 Phần nhiều học sinh học tốt môn Toán thì học tốt các môn học khác. Bởi lẽ 
các em đã có những khả năng tư duy toán học thì cũng có thể đủ khả năng để hiểu 
các vấn đề khác. Qua môn Toán đã rèn lại cho các em những đức tính: Chịu khó, 
cẩn thận, tỉ mỉ, thận trọng, chính xác, suy luận chặt chẽ  có phương pháp làm 
việc khoa học, sắp xếp thứ tự hợp lý trước sau để giải quyết vấn đề. Đó là đặc trưng 
nổi bật của môn Toán trong nhà trường phổ thông.
 2. Rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh, dạy kiến thức nói chung và kiến thức 
toán học nói riêng là hai vấn đề có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong quá 
trình giáo dục đào tạo:
 Việc rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh trong nhà trường cũng là một mặt 
quan trọng trong công tác giáo dục đào tạo, nó đi song đôi với việc dạy kiến thức 
cho học sinh. Hai mặt này có tác động qua lại, quan hệ với nhau trong quá trình học 
tập.
 Một học sinh có hạnh kiểm tốt tức là biết vâng lời thầy cô giáo, chăm chỉ học 
tập, biết học hỏi giúp đỡ bạn bè .. Đó cũng là một trong những yếu tố cần thiết để 
giúp học sinh học tập tốt. Trái lại, một học sinh ít chịu nghe lời thầy cô giáo, không 
chăm chỉ trong học tập, không học hỏi ở bạn bè, trong lớp thường gây ồn ào mất 
trật tự sẽ ảnh hưởng xấu đến quá trình học tập tiến bộ của các em. Vì vậy hạnh 
kiểm cũng là một trong những điều kiện quan trọng để thúc đẩy quá trình học tập 
cho học sinh. Đó cũng là một tác động mạnh mẽ để học sinh học tập tiến bộ, nắm 
 6 tiên đến câu cuối cùng để học sinh tự tìm kiếm ra kiến thức mới. Từ đó kiến thức 
mới sẽ được học sinh khắc sâu , nhớ lâu và sẽ gây hứng thú trong học tập.
 Dạy môn toán cần dạy cho học sinh nắm chắc các khái niệm, các qui ước, 
các ký hiệu, các tính chất  Nó là mấu chốt để học sinh khỏi mơ hồ, lẫn lộn giữa 
cái này với cái khác, có suy nghĩ lệch lạc, quan niệm tách rời xa với thực tế đời 
sống. Chẳng hạn, dạy về chu vi một hình, học sinh phải biết chu vi một hình là gì ? 
Tại sao hình vuông lại lấy (cạnh nhân 4) còn chu vi hình chữ nhật lại tính (dài + 
rộng) nhân 2 Các vấn đề đó rất gần gũi với đời sống, nếu chúng ta không để ý tới 
thì đôi khi học sinh chỉ thực hành một cách máy móc, rập khuôn các công thức do 
vậy mau quên, kiến thức Toán học không được sâu sắc.
 Khi dạy Toán cần có đồ dùng dạy học trực quan, nếu có điều kiện cần phát 
huy mặt này. Chẳng hạn khi dạy bài “Tính chất ba đường trung tuyến của tam giác 
” từng học sinh phải có thước thẳng để học sinh nắm chắc cách đo, kích thước của 
mỗi đơn vị độ dài, một tam giác bằng giấy, giấy kẻ ô vuông; giáo viên cũng cần 
chuẩn bị các dụng cụ như: Thước thẳng, tam giác, giấy kẻ ô vuông Khi dạy tiết 
thực hành ngoài trời xác định khoảng cách giữa hai địa điểm A và B trong đó có 
một địa điểm nhìn thấy nhưng không đến được, giáo viên phải chuẩn bị giác kế để 
học sinh biết giác kế là gì ? Đặt giác kế tại điểm A vạch theo đường xy vuông góc 
với AB tại A, ta phải đặt giác kế ra sao, dùng thước dây xác định E là trung điểm 
của AD trên mặt đất như thế nào ? 
 B
 1 E D
 x A 2 y
 C 8
 m Các bài tập a, b, c, d dành cho học sinh yếu và kiểm tra một lúc đồng thời 4 
học sinh lên bảng. Là các bài tập yêu cầu tối thiểu sau một tiết dạy học sinh phải tự 
làm được.
 Khi giảng bài “Quan hệ giữa góc và cạnh đối diện trong một tam giác”, kiến 
thức học sinh cần nắm được trong tiết học này là nội dung định lí 1 và định lí 2. 
Định lí 2 là định lí đảo của định lí 1, từ đó trong tam giác ABC, AC > AB  Bˆ  Cˆ . 
Nội dung định lí 1, định lí 2 được phát biểu như sau:
 Định lí 1: Trong một tam giác, góc đối diện với cạnh lớn hơn là góc lớn hơn.
 Định lí 2: Trong một tam giác cạnh đối diện với góc lớn hơn là cạnh lớn hơn.
 Để giúp học sinh nắm được định lí, cách vận dụng định lí để giải bài tập, yêu 
cầu tối thiểu để học sinh đạt được, giáo viên ra một bài tập:
 Bài tập 1: So sánh các góc của tam giác ABC, biết rằng:
 AB = 2cm; BC = 4cm; AC = 5cm
 Bài tập 2: So sánh các cạnh của tam giác ABC, biết rằng:
 Aˆ = 800 ; Bˆ = 450
Với bài tập này học sinh vận dụng trực tiếp định lí 1 và định lí 2 để giải:
 Bài tập 1:
 Áp dụng định lí 1, ta có:
 Trong  ABC: AB < BC < AC hay 2cm < 4cm < 5cm
  Cˆ < Aˆ < Bˆ
 Bài tập 2: 
 Áp dụng định lí 2, ta có:
 10 luyện và ra bài tập thật nhiều để học sinh thực hành để kiến thức mới được khắc 
sâu và lâu quên. Giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh cách ôn tập chương, cách 
liệt kê các công thức toán để tóm tắt và chốt lại những điểm trọng tâm vận dụng 
vào giải bài tập.
 Tóm lại trong quá trình dạy học sự nhiệt tình, chịu khó, tinh thần trách nhiệm 
của người giáo viên là đều không thể thiếu được để dạy nâng cao chất lượng học 
tập cho học sinh. Nhưng đó cũng chỉ là một mặt, là điều kiện cần nhưng chưa đủ để 
học sinh đạt chất lượng cao. Phải có sự kết hợp, vận dụng sáng tạo trong phương 
pháp dạy học nhất là phương pháp dạy học mới hiện nay. Người giáo viên cần chú 
ý trong từng trường hợp, từng đối tượng học sinh để học sinh tự lực của mình có 
điều kiện phát triển khả năng tư duy, chiếm lĩnh kiến thức.
 4. Kế hoạch ra bài tập về nhà:
 Môn Toán là môn học rất cần đến việc thực hành, luôn luôn phải có sự kết 
hợp với nhau giữa lý thuyết và thực hành. Qua thực hành mới củng cố được lý 
thuyết, khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán và phát triển tư duy. Ở 
phạm vi SGK sau mỗi bài học đều có một lượng bài tập để học sinh thực hành, 
luyện tập nhưng đôi khi còn ít, hệ thống bài tập chưa đủ cho học sinh yếu tập làm 
quen từ những bài tập rất dễ để từng bước nâng dần giải những bài tập khó hơn. Do 
đó trong từng tiết dạy người giáo viên có thể ra thêm bài tập tùy tình hình lớp học 
để học sinh có điều kiện tiếp xúc với khâu thực hành và nội dung bài tập phong phú 
hơn.
 Những số tiết cơ bản trong chương trình rất cần thiết. Vì vậy vấn đề luyện 
tập thật nhiều để học sinh nhớ lâu, củng cố lý thuyết được bền vững là rất cần thiết. 
 Nếu khâu thực hành làm ít thì rõ ràng kiến thức chóng quên hơn, lí thuyết 
không được khắc sâu đậm nét. Chẳng hạn khi dạy cộng, trừ, nhân, chia số hữu tỉ ở 
học sinh lớp 7, cần có lượng bài tập thật nhiều để qua bài tập học sinh mới được 
 12

Tài liệu đính kèm:

  • docxchuyen_de_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_dai_tra_toan.docx