Vận dụng kỹ năng tạo lập nhóm trong mô hình trường học mới vnen vào dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong bộ môn Tin học ở trường trung học phổ thông
Dạy học hướng vào người học là luận điểm then chốt của lý luận dạy học hiện đại, là bản chất của đổi mới phương pháp dạy - học. Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) đã quán triệt quan điểm này với một loạt hoạt động đổi mới : đổi mới về tổ chức lớp học, về tài liệu dạy – học, về phương pháp dạy – học, về đánh giá học sinh, về quan hệ với cha mẹ học sinh và cộng đồng. Được bắt đầu triển khai thí điểm từ năm 2012, cho đến nay, mô hình trường học mới này đã nhận được những phản hồi cả tích cực và chưa tích cực. Ưu điểm nổi bật của mô hình dạy học này là rèn luyện cho học sinh (HS) sự tự tin, tích cực, bản lĩnh chủ động xử lý các tình huống trong cuộc sống. Tuy nhiên, mô hình này mới được thí điểm thực hiện tại bậc tiểu học và đang triển khai ở bậc THCS. Còn ở bậc THPT hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn thực hiện.
Là hình thức dạy học đặt học sinh vào môi trường học tập tích cực, trong đó học sinh được tổ chức thành nhóm một cách thích hợp. Học hợp tác nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm việc với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định.
Ở bậc THPT hiện nay Bộ giáo dục đang triển khai thực hiện dự án phát triển giáo dục giai đoạn 2:”Đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh” và một trong những hoạt động chủ lực trong hoạt động giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh cơ bản là vận dụng hoạt động nhóm, như vậy chúng ta thấy nó khá tương đồng với mô hình trường học mới VNEN. Nhưng việc dạy học theo nhóm được tổ chức dạy học như thế nào? Theo hình thức nào là phù hợp? Ở bậc tiểu học và THCS đã được Sở và Bộ tập huấn nhưng ở bậc THPT thì hoàn toàn mới. Đa số giáo viên chưa hiểu nhiều về phương pháp này. Theo họ thì học hợp tác nhóm là xếp các em vào một nhóm để cùng giải quyết một vấn đề khó, một câu hỏi khó mà một em học sinh bình thường không thể giải quyết được. Xuất phát từ vấn đề đó nên tôi mạnh dạn viết kinh nghiệm: “Vân dụng kỹ năng tạo lập nhóm trong mô hình trường học mới VNEN vào dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong bộ môn tin học ở trường Trung học phổ thông.”.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG KỸ NĂNG TẠO LẬP NHÓM TRONG MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VNEN VÀO DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG BỘ MÔN TIN HỌC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Người thực hiện: Trương Văn Phát Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Dân tộc nội trú Tỉnh SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tin THANH HOÁ, NĂM 2016 MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU 1 1.1 Lý do chọn đề tài 1 1.2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 1 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu 2 1.5 Một số phương pháp nghiên cứu 2 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1 Cơ sở lý luận 3 2.2 Thực trạng 4 2.3 Giải pháp, biện pháp 12 2.4 Kết quả thu được qua thực nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 15 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1 Kết luận 17 3.2 Kiến nghị 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 181. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Dạy học hướng vào người học là luận điểm then chốt của lý luận dạy học hiện đại, là bản chất của đổi mới phương pháp dạy - học. Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) đã quán triệt quan điểm này với một loạt hoạt động đổi mới : đổi mới về tổ chức lớp học, về tài liệu dạy – học, về phương pháp dạy – học, về đánh giá học sinh, về quan hệ với cha mẹ học sinh và cộng đồng. Được bắt đầu triển khai thí điểm từ năm 2012, cho đến nay, mô hình trường học mới này đã nhận được những phản hồi cả tích cực và chưa tích cực. Ưu điểm nổi bật của mô hình dạy học này là rèn luyện cho học sinh (HS) sự tự tin, tích cực, bản lĩnh chủ động xử lý các tình huống trong cuộc sống. Tuy nhiên, mô hình này mới được thí điểm thực hiện tại bậc tiểu học và đang triển khai ở bậc THCS. Còn ở bậc THPT hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn thực hiện. Là hình thức dạy học đặt học sinh vào môi trường học tập tích cực, trong đó học sinh được tổ chức thành nhóm một cách thích hợp. Học hợp tác nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm việc với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định. Ở bậc THPT hiện nay Bộ giáo dục đang triển khai thực hiện dự án phát triển giáo dục giai đoạn 2:”Đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh” và một trong những hoạt động chủ lực trong hoạt động giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh cơ bản là vận dụng hoạt động nhóm, như vậy chúng ta thấy nó khá tương đồng với mô hình trường học mới VNEN. Nhưng việc dạy học theo nhóm được tổ chức dạy học như thế nào? Theo hình thức nào là phù hợp? Ở bậc tiểu học và THCS đã được Sở và Bộ tập huấn nhưng ở bậc THPT thì hoàn toàn mới. Đa số giáo viên chưa hiểu nhiều về phương pháp này. Theo họ thì học hợp tác nhóm là xếp các em vào một nhóm để cùng giải quyết một vấn đề khó, một câu hỏi khó mà một em học sinh bình thường không thể giải quyết được. Xuất phát từ vấn đề đó nên tôi mạnh dạn viết kinh nghiệm: “Vân dụng kỹ năng tạo lập nhóm trong mô hình trường học mới VNEN vào dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong bộ môn tin học ở trường Trung học phổ thông.”. 1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. a) Mục tiêu: Nhằm đề xuất các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả học tập theo nhóm trong học sinh qua đó phát triển các kỹ năng dạy học theo nhóm và nhân rộng ở các lớp, qua dạy học nhóm giúp chia sẻ, tư duy sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, tự tin góp phần nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, Đánh giá đúng năng lực học sinh. b) Nhiệm vụ: Với thực trạng trên và để đáp ứng yêu cầu về đổi mới PPDH theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Theo tôi, để thực hiện tốt phương pháp dạy học theo nhóm, giáo viên cần phải có các kĩ năng tổ chức sau: - Kĩ năng chia nhóm. - Kĩ năng giao nhiệm vụ. - Kĩ năng tổ chức cho học sinh làm việc trong nhóm. - Kĩ năng quan sát. - Kĩ năng tổ chức cho học sinh trình bày kết quả học tập. - Kĩ năng đánh giá kết quả học tập. - Kĩ năng phản hồi. Đây cũng chính là vấn đề được nhiều giáo viên chúng tôi quan tâm nhất hiện nay. Chính vì điều đó mà tôi chọn đề tài “Vân dụng kỹ năng tạo lập nhóm trong mô hình trường học mới VNEN vào dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong bộ môn tin học ở trường Trung học phổ thông.”. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh của lớp 12C, 12A Trường THPT Dân tộc nội trú Thanh Hóa năm học 2015 – 2016. Trong đó Lớp Thực nghiệm là lớp 12C và lớp đối chứng là lớp 12A. 1.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về “Vân dụng kỹ năng tạo lập nhóm trong mô hình trường học mới VNEN vào dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong bộ môn tin học ở trường Trung học phổ thông” Nhằm mang lại hiệu quả cao trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh ở lớp 12C và các lớp triển khai dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. 1.5. Một số phương pháp nghiên cứu. Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng một số nhóm phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thường xuyên sưu tầm tra cứu sách báo tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài, qua đó phân tích tổng hợp hệ thống hóa theo mục đích nghiên cứu. - Phương pháp quan sát: Thực hiện quan sát trong quá trình học tập trong lớp, ngoài giờ học tập, đặc biệt là theo dõi trong những giờ thảo luận nhóm của học sinh nhằm đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học theo nhóm. - Phương pháp điều tra phỏng vấn: Tiến hành thiết lập một số câu hỏi dạng trắc nghiệm và tự luận cho 1 số nhóm học sinh và điều tra qua phiếu liên quan đến việc phân tích đánh giá việc học của học sinh, hay thông qua phỏng vấn trực tiếp qua đó nắm bắt được thực trạng. - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Thông qua các sản phẩm làm ra của học sinh như bài tập làm việc theo nhóm, bài kiểm tra của học sinh hoặc bài làm cá nhân nhằm để phân tích, đánh giá sản phẩm và nhận định đưa kết luận đúng khi dạy học. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Qua các hoạt động, Giáo viên ghi chép qua đó đúc rút kinh nghiệm được và chưa được để tổng hợp đi đến kết luận - Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Cơ sơ lý luận. Đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động giáo dục ở trường THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh hiện nay đang được triển khai giai đoạn 2 đến các trường THPT trong toàn quốc, phương pháp này rất phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục nước ta. Các phòng học dạy theo mô hình VNEN được bố trí giống như phòng học bộ môn, thư viện linh động với đồ dùng dạy và học sẵn có để HS tham khảo; góc đồ dùng học tập, góc cộng đồng, góc trưng bày sản phẩm... Mô hình VNEN thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy HS làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh. Chuyển việc truyền thụ của GV thành việc hướng dẫn HS tự học. Lớp học do HS tự quản và được tổ chức theo các hình thức, như: Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Học sinh được học trong môi trường học tập thân thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. học sinh khá giỏi được phát huy, học sinh còn hạn chế, yếu kém được học sinh của nhóm và giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp. Ở đây được coi là một phương pháp dạy học. Những người tham gia trong nhóm phải có mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ và phối hợp lẫn nhau. Nói cách khác là tồn tại tương tác "mặt đối mặt" trong nhóm HS. HS trong nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên là phải có sự phụ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm cần hiểu rằng họ không thể trốn tránh trách nhiệm, hay dựa vào công việc của những người khác. Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo cho tất cả các thành viên trong nhóm thực sự mạnh lên trong học tập theo nhóm. Học sinh thường được phát huy hơn, cơ hội cho HS tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những trẻ em nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học. Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt động mang bầu không khí thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân. HS có cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều được tôn trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó sẽ khắc phục tình trạng áp đặt, uy quyền, làm thay, thiếu tôn trọng...giữa những người tham gia hoạt động, đặc biệt giữa giáo viên và học sinh. 2.2. Thực trạng. a) Thuận lợi – khó khăn. * Thuận lợi : - Đa số học sinh được trang bị đầy đủ tài liệu HD học và đồ dùng học tập. - Học sinh trong lớp và trường thích học mô hình hoạt động giáo dục theo nhóm này. - Bản thân giáo viên thích nghiên cứu sâu và dạy học theo nhóm học sinh có hiệu quả. - Mô hình dạy học của VNEN chuyển cơ bản từ hoạt động dạy của giáo viên sang hoạt động học của học sinh. Tức là chuyển từ phương pháp dạy truyền thống sang phương pháp học tích cực của học sinh. * Khó khăn: - Thiết kế của bài học theo định hướng phát triển năng lực học sinh và theo mô hình VNEN dành cho bậc THPT chưa có, điều này sẽ gây bối rối cho giáo viên trong quá trình vận dụng và triển khai kiến thức trong hoạt động giáo dục, bởi vẫn bị gò bố theo chuẩn kiến thức và phân phối chương. - Đòi hỏi nhiều thời gian: Một lớp học đông với thời gian giảng dạy 45 phút học một tiết là một trở ngại rất lớn cho dạy học nhóm thành công. Nếu như GV không kiểm soát cẩn thận tương tác giữa HS trong nhóm, thì một vài HS có thể lãng phí thời gian vào việc thảo luận những vấn đề không có liên quan hoặc có thể xảy ra trường học là một HS phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, đa số các thành viên trong nhóm không tham gia thảo luận mà lại quan tâm đến vấn đề kháctrong nhóm và giữa các nhóm có thể phát sinh tình trạng đối địch, ganh đua quá mức. Thường khó để đánh giá từng HS một cách công bằng và một vài em có thể cảm thấy không thoải mái với việc đánh giá dựa trên sự nỗ lực của nhóm và sự bình xét của các bạn. b) Thành công - Hạn chế. * Thành công: Dạy học theo nhóm đã được GV sử dụng khá phổ biến và thường xuyên: Từ khi có chủ trương đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường sự tham gia của HS, phát huy tối đa vai trò chủ động, tích cực của các em thì dạy học theo nhóm đã được coi là phương pháp dạy học hữu hiệu và bước đầu đã làm thay đổi bộ mặt phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông GV đã nhận thức được những ích lợi của dạy học nhóm: GV đã thấy rõ tác dụng của dạy học theo nhóm trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, tăng cường sự tham gia của HS như: mọi HS đều được trình bày ý kiến, HS tự tìm ra tri thức, nắm bài chắc hơn, hứng thú với học tập hơn.v.v... và phát triển những kĩ năng XH cho HS, như biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của bạn, biết trình bày ý kiến của mình cho các bạn nghe và hiểu, biết thống nhất ý kiến,v.v...; Còn đối với GV thì dạy học nhóm giúp họ không phải nói nhiều trên lớp, nhưng chuẩn bị bài cần kỹ lưỡng hơn; hiểu khả năng của HS hơn.v.v.... GV đã có kiến thức và một số kỹ năng để tiến hành dạy học theo nhóm: Qua dự giờ của một số giáo viên đều cho thấy về cơ bản GV biết sử dụng phương pháp dạy học nhóm phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu và nội dung bài học. GV bước đầu đã biết lựa chọn hình thức và cơ cấu nhóm tương đối phù hợp, đã nêu được các bước dạy học theo nhóm. HS bước đầu đã có những kĩ năng làm việc theo nhóm: Các em đã biết nhanh chóng gia nhập vào nhóm, bầu nhóm trưởng, thư kí; bước đầu biết bày tỏ quan điểm, ý kiến và trình bày mạch lạc kết quả làm việc chung của cả nhóm. * Hạn chế: Bên cạnh những kết quả tích cực như trên, vẫn còn những tồn tại nhất định, cụ thể là: 100% học sinh là người Dân tộc thiểu số thuộc 11 Huyện miền núi trong Tỉnh Thanh Hóa nên việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường chưa thực sự gắn kết, việc học tập của các em do Nhà trường mà thiếu đi sự quan tâm sâu sát của Gia đình. Khi tiến hành tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ, GV chủ yếu hướng HS nhằm vào mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ học tập cụ thể mà nhóm HS cùng nhau thực hiện chứ chưa chú trọng GD cho HS những kĩ năng xã hội quan trọng mà làm việc nhóm có ưu thế. Sau khi các nhóm thảo luận GV ít quan tâm chốt lại những kiến thức, kết luận chung làm cho HS không biết ý kiến nào là phù hợp. Dạy học nhóm chưa được sử dụng đồng đều ở tất cả các môn học. Còn đơn điệu trong việc sử dụng các hình thức tiến hành và nhiệm vụ giao cho nhóm. Nhiệm vụ giao cho nhóm còn đơn giản, ít phương án trả lời, không cần huy động nhiều kinh nghiệm của từng cá nhân và thiếu định hướng để HS buộc phải phân chia công việc hay phải trưng cầu ý kiến riêng của từng người trong nhóm. c) Mặt mạnh – Mặt yếu. * Mặt mạnh : Dạy học theo nhóm có thể tập trung những mặt mạnh của từng học sinh, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu. Dạy học theo nhóm nâng cao tính tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Thực hiện tốt theo 10 bước học tập. - Tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú mới. Kích thích sự giao tiếp, chia sẻ tư tưởng, nguồn lực và cách giải quyết vấn đề - Tăng cường các kĩ năng biểu đạt, phản hồi bằng các hình thức biểu đạt như lời nói, ánh mắt cử chỉ - Khích lệ mọi thành viên tham gia học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phát triển mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau, từng người và trở thành niềm vui chung của tất cả. Họ gắn kết với nhau theo phương thức Nhà trường – Gia đình – Cộng đồng . *Mặt yếu: Một số khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm. Bàn ghế chưa phù hợp để có thể sắp xếp cho dạy học nhóm, một số HS lúng túng và nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động trong nhóm. Một số học sinh còn ỷ lại, dựa dẫm vào các bạn cùng nhóm. Việc quan sát, đánh giá của giáo viên chưa được quan tâm đúng mức. d) Các nguyên nhân, các yếu tố tác động. Từ nhiều năm học trở về trước, quan điểm dạy học của giáo viên chủ yếu là lên lớp cố gắng truyền tải hết khối lượng kiến thức theo yêu cầu trong sách giáo khoa cho học sinh, các tiết học của học sinh thật sự rất đơn điệu, hình thức tổ chức dạy học chủ yếu là ngồi nghe thầy cô giảng bài sau đó luyện tập theo những gì các em tiếp thu được. Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh chủ yếu thông qua học thuộc lòng hoặc việc áp dụng bài học vào thực tiễn một cách máy móc. Đánh giá cảm tính, không thông qua biểu hiện cụ thể. Những tiết học được tổ chức theo hình thức nhóm, trò chơi học tập, sắm vai rất ít; điều này chỉ diễn ra khi thao giảng, hội giảng, nhưng cũng chỉ mang tính hình thức. Đồ dùng như tranh ảnh, bản đồ, hay các giáo cụ phục vụ cho việc dạy học cũng ít khi sử dụng. Tiết học chỉ có phấn trắng, bảng đen, SGK, “Tư trang”của GV lên lớp chỉ có giáo án với SGK và có chút vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học như máy chiếu để chiếu các slide kiến thức đã được chuẩn bị sẵnViệc học của học sinh tất nhiên là phải phụ thuộc vào khâu tổ chức của giáo viên, giáo viên tổ chức dạy thế nào thì học sinh học theo thế đó. Ngồi yên một chỗ nghe giảng và làm bài quả thực là điều rất khó khăn đối với trẻ nhất là học sinh tiểu học. Chính vì điều đó mà học sinh rất rụt rè, nhút nhát trong các hoạt động, nhàm chán trong việc học tập, kết quả học tập không cao, khả năng tự bộc lộ bản thân yếu, - Học sinh còn lúng túng, nhút nhát, ít nói, chưa mạnh dạn tham gia vào hoạt động nhóm nhất là học sinh yếu. - Giáo viên Chưa hiểu rõ hoạt động nhóm giúp học sinh tích cực và tham gia nhiều hơn; các kĩ năng giao tiếp về mặt xã hội và một số kĩ năng sống được phát triển. Chưa hiểu được thông qua hoạt động nhóm, các em có thể tự diễn đạt bằng lời và chia sẻ các ý tưởng của mình với những người khác trong việc phát triển các kĩ năng ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ lẫn nhau. Thông qua hoạt động nhóm, GV có thể hỗ trợ các đối tượng HS theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong quá trình giao tiếp. Hơn 40% học sinh là học sinh vốn từ vựng còn nghèo nàn, sự rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp ngôn ngữ diễn ra còn phổ biến. - Cơ sở vật chất - Bàn ghế chưa phù hợp để có thể sắp xếp chổ ngồi theo nhóm - Trang thiết bị dạy học còn ít, không đồng bộ. - Tài liệu về bồi dưỡng nghiệp vụ, rèn kĩ năng dạy học vẫn chưa đồng bộ, nội dung, còn chung chung. - Phòng học thiếu không gian Đó là những nguyên nhân làm cho giáo viên ngại tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm. e) Phân tích đánh giá, các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đã đặt ra. Nhằm để khắc phục thực trạng trên đồng thời rèn kĩ năng tổ chức hoạt động nhóm theo quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục theo chương trình của Bộ. Bản thân tôi đã áp dụng vào lớp 12C Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh và chia sẻ kinh nghiệm của mình tới đồng nghiệp. Những điều giáo viên cần biết và rèn luyện. * Nhận thức đầy đủ một cách có hệ thống về quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm, tổ chức và quản lý hoạt động giáo dục theo đinh hướng phát triển năng lực học sinh. Là đặt người học vào trung tâm của quá trình dạy học, tạo cơ hội tới mức tối đa để HS được tham gia tích cực vào quá trình học tập thông qua các hoạt động trên lớp. Đây cũng chính là cách học có hiệu quả nhất. Học qua các hình thức sau: - Trải nghiệm: Học qua thực tế, học từ những kinh nghiệm thông qua việc làm và qua khám phá tìm tòi của các em. - Giao tiếp: Thông qua trao đổi, tranh luận các em có thể chia sẻ cho nhau những gì mình biết được, học được và cách học của mình cho bạn bè. “Học thầy không tày học bạn” - Học qua tương tác: (Sự qua lại) Chia sẻ với bạn bè những kinh nghiệm của mình và học kinh nghiệm từ bạn bè cũng như người lớn. - Rút kinh nghiệm: Sau những lần thất bại, các em cố gắng làm lại lần nữa, lần sau sẻ tốt hơn lần trước. Từ những kinh nghiệm học tập đó, các em có thể áp dụng vào các tình huống khác. Bốn hình thức trên chính là biểu hiện của quan điểm dạy học này.Để thực hiện được điều đó thì giáo viên cần phải biết hình thức đặc trưng cho từng cách học. * Biết được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm. - Tầm quan trọng của việc hoạt động nhóm: Là giúp học sinh tích cực tham gia ý kiến và có cơ hội trao đổi với các bạn khác để cùng học, khám phá và phát triển tư duy. Cách chia nhóm và tổ chức hoạt động nhóm. CÁC CÁCH CHIA NHÓM Nhóm theo đếm số Nhóm theo biểu tượng Nhóm theo mã màu Nhóm theo trình độ Nhóm tương trợ Nhóm theo ghép hình Nhóm theo sở thích Bàn trên quay xuống bàn dưới Nhóm theo tháng sinh nhật Nhóm cặp Nhóm theo tên các loài hoa * Kiểu nhóm: Tuy nhiên trong thực tế thì có nhiều kiểu nhóm khác, nhưng tôi nêu ra 11 kiểu điển hình trên và hướng dẫn cách chia và các hình thức chia các nhóm này .Cách chia như sau : Nhóm đếm số : Muốn chia lớp thành 5 nhóm thì điểm số từ 1 đến 6 rồi quay lại 16. Ví dụ lớp bạn có 30 học sinh , bạn muốn chia thành 5 nhóm thì yêu cầu học sinh đếm 1,2,3,4; 5; 6 Bạn yêu cầu những học sinh có số đếm là 1 thì về nhóm 1, những học sinh có số 2 về nhóm 2 Khi chuyển nhóm có thể cho học sinh vừa đi vừa hát hoặc vỗ tay Ưu điểm : Tốn ít thời gian , tạo cho học sinh có không khí học tập thoải mái, phong cách nhanh nhẹn, áp dụng được cho tất cả các môn học. Nhóm biểu tượng . - Biểu tượng có thể là : (con vật , cây cối , hình ảnh, các bông hoa ) Muốn chia lớp thành 5 nhóm thì bạn phải chuẩn bị 5 biểu tượng . Nhóm mã màu: Hình thức chia như nhóm biểu tượng. Nhóm cặp đôi: Xếp 2 học sinh vào một cặp . Nhóm sở thích: Những học sinh có cùng sở thích ngồi cùng một nhóm .“Những người cùng sở thích thì sự thống nhất sẽ cao hơn.” Nhóm tương trợ: Xếp những học sinh có trình độ và năng lực khác nhau
Tài liệu đính kèm:
- van_dung_ky_nang_tao_lap_nhom_trong_mo_hinh_truong_hoc_moi_v.doc