Sử dụng sơ đồ tư duy dạy các bài trong chương IV – Tin học lớp 11 (kiểu dữ liệu có cấu trúc)

Sử dụng sơ đồ tư duy dạy các bài trong chương IV – Tin học lớp 11 (kiểu dữ liệu có cấu trúc)

Hiện nay, có rất nhiều cách thức dạy học theo hướng tích cực khác nhau đã và đang được ứng dụng trong thực tế. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu cuốn sách “Bản đồ tư duy trong công việc” của tác giả Tony Buzan thì bản thân tôi đã tự tìm ra cho mình một phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển năng lực của học sinh.

Theo Tony Buzan: “Với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ não, bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian, ghi nhớ tốt hơn, nhìn thấy bức tranh tổng thể, ngoài ra còn có thể tổ chức và phân loại suy nghĩ của học sinh”. Nội dung chính của bài được đặt tại vị trí trung tâm của sơ đồ, các đơn vị kiến thức được trình bày theo các nhánh, các nhánh này lại được chia thành nhiều nhánh con, chúng được thể hiện với các màu phấn khác nhau, từ đó có thể bổ sung, chỉnh sửa sao cho hoàn thiện, với cách trình bày như thế giúp học sinh sáng tạo hơn, ghi nhớ tốt hơn, khi kiểm tra bài cũ các em thuộc và nhớ lâu hơn. tăng khả năng hiểu và đọc hiểu của học sinh, giúp các em thấy thú vị khi học tập.

Khi học thì học sinh không cần vẽ giống giáo viên mà có thể vẽ theo ý mình, miễn là các em biết dùng các đường nét, màu sắc khác nhau để thể hiện các nội dung khác nhau. Chính vì vậy các em càng thấy hào hứng hơn mỗi khi học bộ môn Tin học, thậm chí thiết nghĩ nếu em nào vận dụng tốt phương pháp này cho các môn học mang nặng tính lý thuyết thì sẽ giúp các em rất nhiều trong quá trình ghi nhớ và phân loại kiến thức.

Tình hình học sinh THPT còn gặp nhiều khó khăn trong môn Tin học là rất phổ biến, như: không biết được trọng tâm của bài học, không hăng hái tham gia các hoạt động của giáo viên, đa số các em chưa được tiếp cận nhiều với dạng các câu lệnh, chương trình, kỹ năng lập trình trên máy tính, không có khả năng trình bày kiến thức trước lớp, không tích cực học hỏi từ bạn bè đó cũng là các lý do làm cho công tác đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên gặp nhiều khó khăn.

Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy tại trường THPT Dương Đình Nghệ về những khó khăn trong việc ghi nhớ và hiểu được các nội dung của bài học trong chương trình Tin học 11, mà điển hình là chương IV- Kiểu dữ liệu có cấu trúc và những lợi ích mà bản thân tôi nhận thấy được từ việc sử dụng SĐTD trong việc giúp giáo viên và học sinh trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua sơ đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới,

Với một vài lý do trên nên tôi chọn đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy dạy các bài trong Chương IV – Tin học lớp 11 (Kiểu dữ liệu có cấu trúc)”.

 

doc 18 trang thuychi01 19671
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng sơ đồ tư duy dạy các bài trong chương IV – Tin học lớp 11 (kiểu dữ liệu có cấu trúc)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ
------------›š------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY DẠY CÁC BÀI TRONG CHƯƠNG IV – TIN HỌC LỚP 11 (KIỂU DỮ LIỆU CÓ CẤU TRÚC)
Người thực hiện: Trương Thị Hường
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Tin học
THANH HÓA, NĂM 2016
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT:
TBC
Trung bình cộng
ĐTB
Điểm trung bình
SĐTD
Sơ đồ tư duy
SGK
Sách giáo khoa
I. MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài:
Hiện nay, có rất nhiều cách thức dạy học theo hướng tích cực khác nhau đã và đang được ứng dụng trong thực tế. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu cuốn sách “Bản đồ tư duy trong công việc” của tác giả Tony Buzan thì bản thân tôi đã tự tìm ra cho mình một phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển năng lực của học sinh. 
Theo Tony Buzan: “Với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ não, bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian, ghi nhớ tốt hơn, nhìn thấy bức tranh tổng thể, ngoài ra còn có thể tổ chức và phân loại suy nghĩ của học sinh”. Nội dung chính của bài được đặt tại vị trí trung tâm của sơ đồ, các đơn vị kiến thức được trình bày theo các nhánh, các nhánh này lại được chia thành nhiều nhánh con, chúng được thể hiện với các màu phấn khác nhau, từ đó có thể bổ sung, chỉnh sửa sao cho hoàn thiện, với cách trình bày như thế giúp học sinh sáng tạo hơn, ghi nhớ tốt hơn, khi kiểm tra bài cũ các em thuộc và nhớ lâu hơn. tăng khả năng hiểu và đọc hiểu của học sinh, giúp các em thấy thú vị khi học tập. 
Khi học thì học sinh không cần vẽ giống giáo viên mà có thể vẽ theo ý mình, miễn là các em biết dùng các đường nét, màu sắc khác nhau để thể hiện các nội dung khác nhau. Chính vì vậy các em càng thấy hào hứng hơn mỗi khi học bộ môn Tin học, thậm chí thiết nghĩ nếu em nào vận dụng tốt phương pháp này cho các môn học mang nặng tính lý thuyết thì sẽ giúp các em rất nhiều trong quá trình ghi nhớ và phân loại kiến thức.
Tình hình học sinh THPT còn gặp nhiều khó khăn trong môn Tin học là rất phổ biến, như: không biết được trọng tâm của bài học, không hăng hái tham gia các hoạt động của giáo viên, đa số các em chưa được tiếp cận nhiều với dạng các câu lệnh, chương trình, kỹ năng lập trình trên máy tính, không có khả năng trình bày kiến thức trước lớp, không tích cực học hỏi từ bạn bè đó cũng là các lý do làm cho công tác đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên gặp nhiều khó khăn.
Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy tại trường THPT Dương Đình Nghệ về những khó khăn trong việc ghi nhớ và hiểu được các nội dung của bài học trong chương trình Tin học 11, mà điển hình là chương IV- Kiểu dữ liệu có cấu trúc và những lợi ích mà bản thân tôi nhận thấy được từ việc sử dụng SĐTD trong việc giúp giáo viên và học sinh trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua sơ đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, 
Với một vài lý do trên nên tôi chọn đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy dạy các bài trong Chương IV – Tin học lớp 11 (Kiểu dữ liệu có cấu trúc)”. 
Nghiên cứu của tôi được tiến hành trên hai nhóm tương đương: Hai lớp 11C5 và 11C6 Trường THPT Dương Đình Nghệ. Lớp 11C5 là lớp đối chứng, lớp 11C6 là lớp thực nghiệm. Lớp thực nghiệm đã đạt kết quả học tập cao hơn so với lớp đối chứng. Kết quả kiểm chứng T- Test cho thấy p=0.0005< 0.05 có nghĩa là có sự khác biệt lớn giữa diểm trung bình của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Điều đó chứng minh rằng việc sử dụng phương pháp sử dụng SĐTD trong việc giảng dạy các bài mới của chương IV- Kiểu dữ liệu có cấu trúc của chương trình môn Tin học lớp 11 đã mang lại kết quả cao trong học tập ở chương trình Tin học lớp 11. 
2. Mục đích nghiên cứu:
SĐTD là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, v.v
Với việc sử dụng SĐTD trong dạy học kết hợp với sự gợi ý hướng dẫn của giáo viên, học sinh liên tục hoạt động, vận dụng các hình thức tuy duy để không ngừng đạt được mục tiêu của bài học từ đó lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, sâu sắc.
Trong đề tài này tôi sử dụng phương pháp trình bày để hiểu rõ hơn về cơ sở và bản chất của đề tài. Mục đích lớn nhất của tôi là mong muốn cho học sinh của mình chú tâm, yêu thích môn học mà mình đang trực tiếp giảng dạy. Đề tài mà tôi tìm hiểu chỉ với mục đích duy nhất là một người giáo viên luôn mong muốn việc dạy học của mình đạt được kết quả tốt, biến giờ học trở nên thú vị hơn. 
3. Đối tượng nghiên cứu:
+ Giáo viên có vài năm giảng dạy, nhiệt tình và có trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh, dạy môn Tin học trường THPT Dương Đình Nghệ trực tiếp thực hiện việc nghiên cứu.
+ Học sinh: Hai lớp: lớp 11C5 và lớp 11C6 có sỉ số gần tương đương nhau, trình độ như nhau, các em đều tích cực trong học tập.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Kết hợp thực tiễn giáo dục ở trường THPT Dương Đình Nghệ.
- Có tham khảo các tài liệu về ngôn ngữ lập trình Pascal và tài liệu về sáng kiến kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lí luận:
Tin học là một môn học công cụ, có tính trừu tượng và tính thực tiễn. Những tri thức và kỹ năng Tin học cùng với phương pháp làm việc trong Tin học đã trở thành công cụ để học tập những môn học khác trong nhà trường, là công cụ của nhiều ngành khoa học khác cũng như hoạt động trong đời sống thực tế. Bởi vậy, dạy Tin học không chỉ đơn thuần là tạo điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh những tri thức và kỹ năng Tin học mà còn phải góp phần phát triển, rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn.
SĐTD là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, là phương pháp dễ nhất để truyền tải thông tin vào não bộ rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, từ khoá và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. 
SĐTD có cấu trúc gồm 4 yếu tố chính:
Đường nét – dùng các đường kẻ (sử dụng đường cong là chính vì các đường cong có tổ chức sẽ lôi cuốn và thu hút sự chú ý của mắt hơn rất nhiều) để nối các nhánh chính tới hình ảnh và nối các nhánh với nhau, chúng ta sẽ hiểu và nhớ nhiều thứ hơn rất nhiều do bộ não của chúng ta làm việc bằng sự liên tưởng.
Từ ngữ - sử dụng một từ khoá trong mỗi dòng bởi vì mỗi từ khoá mang lại cho SĐTD của chúng ta nhiều sức mạnh và khả năng linh hoạt cao. Mỗi từ hay mỗi hình ảnh đơn lẻ giống như một cấp số nhân, mang đến cho những sự liên tưởng và liên kết của nó diện mạo đặc biệt. Khi chúng ta sử dụng những từ khoá riêng lẻ, mỗi từ khoá đều không bị giằng buộc, do vậy nó có khả năng khơi dậy các ý tưởng mới, các suy nghĩ mới.
Màu sắc – luôn sử dụng màu sắc bởi vì màu sắc cũng có kích thích não như hình ảnh. Màu sắc mang đến cho SĐTD những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo và nó cũng thật vui mắt.
Hình ảnh – do hình ảnh có giá trị tương đương cả nghìn từ và giúp chúng ta sử dụng trí tưởng tượng của mình. Một hình ảnh thú vị giúp chúng ta tập trung vào những điểm quan trọng và làm bộ não của chúng ta phấn chấn hơn. 
- SĐTD đã thể hiện ra bên ngoài cách thức mà não bộ chúng ta hoạt động. Đó là liên kết. Mọi thông tin tồn tại trong não bộ của con người đều cần có các mối nối, liên kết để có thể được tìm thấy và sử dụng. Khi có một thông tin mới được đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại, chúng cần kết nối với các thông tin cũ đã tồn tại trước đó.
- Việc sử dụng các từ khóa, chữ số, màu sắc và hình ảnh đã đem lại một công dụng lớn vì đã huy động cả bán cầu não phải và trái cùng hoạt động. Sự kết hợp này sẽ làm tăng cường các liên kết giữa 2 bán cầu não, và kết quả là tăng cường trí tuệ và tính sáng tạo của chủ nhân bộ não.
Với việc sử dụng SĐTD trong dạy học kết hợp với sự gợi ý hướng dẫn của giáo viên, học sinh liên tục hoạt động, vận dụng các hình thức tuy duy để không ngừng đạt được mục tiêu của bài học từ đó lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, sâu sắc
Như vậy, SĐTD là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, v.v
Tuy nhiên, nếu quá lạm dụng phương pháp sơ đồ tư duy sẽ gây cho học sinh cảm giác căng thẳng, mệt mỏi. Vì vậy, giáo viên phải làm như thế nào khi kết thúc tiết dạy học sinh lĩnh hội được tri thức mới với niềm vui của sự khám phá và trưởng thành thêm một bước về năng lực tư duy logic, sáng tạo.
Trong đề tài này tôi sử dụng phương pháp trình bày để hiểu rõ hơn về cơ sở và bản chất của đề tài. Mục đích lớn nhất của tôi là mong muốn cho học sinh của mình chú tâm, yêu thích môn học mà mình đang trực tiếp giảng dạy. Đề tài mà tôi tìm hiểu chỉ với mục đích duy nhất là một người giáo viên luôn mong muốn việc dạy học của mình đạt được kết quả tốt, biến giờ học trở nên thú vị hơn. 
2. Thực trạng vấn đề:
- Do tính đặc thù của chương trình Tin học 11 là lập trình và ngôn ngữ lập trình, các cấu trúc, kiểu dữ liệu, các câu lệnh,  tất cả đều mới, khô, khó, dài nên phần lớn các em còn gặp nhiều bỡ ngỡ và khó khăn trong môn học này.
- Thật sự, tin học là một môn học khó, đặc biệt là việc học lập trình, đòi hỏi người học phải đầu tư nhiều thời gian, trong khi đó, học sinh có thái độ coi môn Tin học là một môn phụ, rất ít quan tâm vì môn học này không có trong thi tập trung và kỳ thi tốt nghiệp cũng như thi đại học.
- Ở mỗi lớp học trình độ của học sinh không đồng đều, học sinh thờ ơ với việc học làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giảng dạy của giáo viên. 
3. Nguyên nhân:
- Các bài học Tin học thì khá thú vị nhưng còn nhiều chỗ làm cho học sinh khó hiểu và trừu tượng như viết chương trình Pascal, cấu trúc rẽ nhánh, cấu trúc lặp, xâu, mảng  nếu các em không tập trung cao thì kiến thức của các em ngày càng có nhiều lỗ hỏng.
- Kiến thức trừu tượng, khó hiểu nên việc giảng dạy của giáo viên và việc tiếp thu kiến thức của học sinh gặp nhiều khó khăn, học sinh khó hiểu và nhớ được nội dung bài học một cách trọn vẹn.
- Học sinh rất lười học các môn phụ, trong đó có Tin học, kĩ năng vận dụng những kiến thức của bài học vào thực tiễn chưa cao, chưa khắc sâu được kiến thức.
- Học sinh rất ngại suy nghĩ vì cho đây là môn học phụ, không quan trọng đến việc các em hiểu hay không hiểu bài nên không đầu tư vào môn học, thậm chí SGK mà cũng không đọc để tìm hiểu vấn đề như thế nào.
4. Giải pháp thay thế:
 Qua tất cả những hiện trạng trên, tôi quyết định chọn đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy dạy các bài trong Chương IV – Tin học lớp 11 (Kiểu dữ liệu có cấu trúc)” nhằm đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn để nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như phát triển năng lực của học sinh, giúp học sinh khắc sâu kiến thức, tự tin và tích cực tham gia xây dựng bài học, không khí lớp học thêm sinh động, sôi nổi. Học sinh không chỉ dùng trí nhớ đơn thuần mà phải động não để hiểu sự liên hệ, tác động qua lại thể hiện trong sơ đồ. 
4.1.Thiết kế:
Y Sử dụng thiết kế 2: Thiết kế kiểm tra trước và sau tác động đối với các nhóm tương đương:
- Tôi dùng kết quả kiểm tra 1 tiết lần 1( HKI) để làm bài kiểm tra trước tác động.
Bảng 1. Kiểm chứng để xác định các nhóm tương đương
Đối chứng
Thực nghiệm
TBC
6.37
6.30
Giá trị p của T- test, p =
0.86
+ Kết quả kiểm tra cho thấy điểm trung bình của hai nhóm có sự khác nhau, do đó tôi dùng phép kiểm chứng T-Test để kiểm chứng sự chênh lệch giữa điểm số trung bình của 2 nhóm trước khi tác động.
p = 0.86> 0.05, từ đó kết luận sự chênh lệch điểm số trung bình của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng là không có ý nghĩa, hai nhóm được coi là tương đương. 
- Kiểm tra sau tác động: Tôi dùng bài kiểm tra HKI theo phân phối chương trình để xác định sự tương đương giữa các nhóm.
Bảng 2. Thiết kế nghiên cứu:
Ở thiết kế này tôi sử dụng phép kiểm chứng T- Test độc lập:
Nhóm
Kiểm tra
trước tác động
Tác động
Kiểm tra
sau tác động
Thực nghiệm
(Lớp 11C6)
O1
Dạy học có sử dụng SĐTD ở các bài của chương IV - Kiểu dữ liệu có cấu trúc)
O3
Đối chứng
(Lớp 11C5)
O2
Dạy học bình thường (Không có sử dụng SĐTD ở các bài của chương IV - Kiểu dữ liệu có cấu trúc)
O4
4.2. Qui trình nghiên cứu:
a. Chuẩn bị bài của GV:
- Đối với lớp đối chứng (11C5): Thiết kế kế hoạch bài học theo quy trình bình thường.
- Đối với lớp thực nghiệm (11C6): Thiết kế kế hoạch bài học có sử dụng SĐTD để truyền đạt kiến thức cho học sinh. Qua đó giúp học sinh có thể khắc sâu kiến thức một cách nhanh chóng và dễ dàng, giờ dạy thêm phong phú và sinh động.
Phương pháp này gắn bó với giáo viên và học sinh trong quá trình tiếp nhận và ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, quán triệt nguyên lý “học đi đôi với hành”, “lý luận gắn liền với thực tiễn”. Qua đó hình thành nhận thức đúng đắn về thế giới quan và củng cố niềm tin cho học sinh. Nhưng không phải tiết dạy nào cũng sử dụng phương pháp sử dụng SĐTD trong giảng dạy, nếu sử dụng không đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ dẫn đến mất thời gian và không đạt hiệu quả như mong muốn. 
Phương pháp sử dụng SĐTD trong dạy học không phải là phương pháp vạn năng nên nó chỉ có thể đạt hiệu quả khi giáo viên biết kết hợp phương pháp truyền thống một cách hài hòa với những phương pháp dạy học tích cực.
Tuy phương pháp này còn phụ thuộc vào năng lực, thái độ của học sinh, có thể nảy sinh nhiều tình huống ngẫu nhiên và có thể mất nhiều thời gian nhưng khi dạy học bằng phương pháp này tôi nhận thấy đã phát huy được tính tích cực của học sinh khi tham gia vào quá trình học, kích thích được tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học sinh. Học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học.
b. Cách thức tiến hành:
- Trong đề tài này tôi sẽ thực hiện ở chương trình HKI môn Tin học lớp 11 cụ thể là lớp 11C6, trường THPT Dương Đình Nghệ. Để chứng minh cho tính hiệu quả của phương pháp này trong các bài học chương IV, chương trình Tin học 11 tôi đã sử dụng phương pháp này để dạy.
- Trong quá trình dạy học, giáo viên lựa chọn phù hợp giữa SĐTD với hệ thống tri thức và bài tập, để học sinh tiến hành tư duy, hiểu được kiến thức, nắm vững và có kỹ năng vận dụng kiến thức đó và qua đó sẽ nắm được nội dung bài học một cách rõ ràng và có hệ thống. 
Kế hoạch bài học một số tiết học trong chương trình chuẩn môn Tin học 11:
§12- Kiểu mảng- Mảng một chiều
1)Trong nội dung kiểm tra bài cũ:
GV cho HS xem sơ đồ 
Giáo viên đặt câu hỏi 1: Có 2 bạn nhỏ đang tranh giành nhau để được vào trong nhận quà tặng. Nhưng theo qui định là bạn nào thấp hơn thì sẽ được đi vào trước, ngược lại bạn nào cao hơn thì sẽ đi sau. Tình huống trên đã được chuyển hóa thành dạng cấu trúc rẽ nhánh, theo em đó là dạng nào? 
Readln (a, b );{a,b là chiều cao của 2 bạn nhỏ}
If a > b then writeln (’Ban nho co chieu cao la: ‘, b, ‘se duoc vao truoc’) 
Else writeln (’Ban nho co chieu cao la:‘, a, ‘se duoc vao truoc’);
Kết quả của tình huống trên sẽ là như thế nào nếu nhập a=157 và b=155
	A. Ban nho co chieu cao la: 157 se duoc vao truoc
	B. Ban nho co chieu cao la: 155 se duoc vao truoc
	C. Không thông báo gì.
	D. Không có phương án nào đúng.
GV đặt câu hỏi 2: An sử dụng 1 cái ca dung tích 1 lít nước để đổ nước vào 1 cái thùng phi dung tích 50 lít. An phải lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi thùng phi đầy nước. Tình huống trên đã được đưa vào trong đoạn câu lệnh sau:
50 lít
For i:=  to  do
  {Thực hiện công việc đổ nước} 
Em hãy điền vào chỗ trống ()
1 lít
Đáp án: For i:= 1 to 50 do
2)Trong nội dung bài mới:
- GV vẽ ra sơ đồ về khái niệm mảng một chiều
Xác định cs_đầu, cs_cuối
Các kdl chuẩn đã học
- GV vẽ ra sơ đồ về khai báo mảng một chiều
cs_đầu, cs_cuối: kiểu nguyên
cs_đầu là 1
cs_đầu ≤ cs_cuối
(A[i])
(Các kdl chuẩn đã học)
(Có 2 cách)
(cs_đầu, cs_cuối)
- GV vẽ ra sơ đồ về một số thao tác xử lý mảng một chiều
(read/readln)
(write/writeln)
(A[i]>A[i+1]àđổi chổ)
(A[i]<A[i+1]àđổi chổ)
Max:=A[1]àNếu A[i]>Max
à Max:=A[i]
Min:=A[1]àNếu A[i]>Min
à Min:=A[i]
 dem:=0àNếu đk thì
à dem:=dem+1
Như vậy, thông qua sơ đồ giáo viên và học sinh đã làm sáng tỏ 1 số khái niệm, thao tác mới. Nội dung thể hiện một cách trực quan, cụ thể, dễ tiếp thu, học sinh và giáo viên có thể nghiên cứu và lập được sơ đồ mà không đòi hỏi vật liệu, máy móc hiện đại mà chỉ đòi hỏi ở sự nhiệt tình trong giảng dạy.
Để đảm bảo được yêu cầu quan sát sơ đồ đi đúng với thiết kế mà người giáo viên đề ra thì giáo viên phải chuẩn bị những vấn đề có thể phát sinh trong quá trình giảng dạy. Hệ thống câu hỏi phải khai thác tối đa khả năng quan sát của học sinh, tạo cơ hội cho học sinh trình bày quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề đang học, khuyến khích các em nêu những thắc mắc trong khi nghe giảng, đặt ra câu hỏi cho thầy, cho bạn trao đổi, tranh luận, tạo nên mối quan hệ hợp tác trong giao tiếp giữa thầy và trò, giữa trò với trò trong quá trình chiếm lĩnh nội dung học tập. Sự tương tác đó trong học tập sẽ làm tăng hiệu quả học tập, trong hoạt động hợp tác, tính cách, năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ uốn nắn, tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ được phát triển. 
Chương IV- Kiểu dữ liệu có cấu trúc là một chương khó, khô khan khi người giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách đơn giản sẽ làm cho tiết học thêm nhàm chán, buồn tẻ, không sinh động. Do đó, giáo viên phải linh động thiết kế sơ đồ phù hợp với trình độ nhận thức của các em. Học sinh có thể trình bày những hiểu biết của mình về vấn đề này. 
3)Trong nội dung câu hỏi, bài tập củng cố:
Giáo viên đưa ra yêu cầu: Hãy dựa vào sơ đồ một số thao tác xử lý mảng 1 chiều, em hãy xác định các câu (đoạn lệnh) thực hiện các công việc sau:
1) Khai báo mảng 1 chiều (xác định là trực tiếp hay gián tiếp)?
2) Nhập mảng
3) Xuất mảng (nếu có)? Nếu không có thì xuất kết quả gì? Và đoạn lệnh nào thực hiện công việc đó?
Program TinhTong ;
Uses crt ;
var a : array[1..250] of integer ;
 n,i,Tong : Integer ;
Begin
 clrscr ;
 Write('Nhap n = ') ;
 Readln(n) ;
 For i := 1 to n do
 Begin
 Write('a[',i,'] = ') ;
 readln(a[i]) ;
 End ;
 Tong:=0;
 For i := 1 to n do
 If a[i] mod 2=0 then
 Tong:=Tong+a[i];
 Writeln('Tong cac phan tu chan la: ',Tong) ;
 Readln ;
 End .
Với sơ đồ, giáo viên đã giúp học sinh đúc kết được những kiến thức cần nắm trong bài, và kiểm tra lại mức độ tiếp thu chúng cũng như tính hiệu quả của việc sử dụng SĐTD trong bài học.
§13- Kiểu xâu
1)Trong nội dung bài mới:
- Giáo viên vẽ ra sơ đồ khi nói khái niệm về Xâu:
(Độ dài Max: 255)
(Xâu chứa dấu cách: S[i]:=’ ‘ ; độ dài bằng 1)
string
(Phép SS, phép ghép xâu)
A[i]
- Giáo viên kết hợp giữa sơ đồ với các phương pháp dạy học đặt vấn đề, thuyết trình, minh họa và vấn đáp để học sinh tìm hiểu về xâu.
- Học sinh quan sát sơ đồ để nắm được nội chính của bài học.
- Giáo viên vẽ ra sơ đồ khi nói về khai báo xâu:
- Dựa vào sơ đồ, giáo viên có thể gọi 1 hoặc 2 học sinh lên khai báo thử biến xâu bằng cách trực tiếp hay gián tiếp tùy ý.
- Học sinh thông qua sơ đồ có thể nắm được cách để khai báo biến xâu.
- Giáo viên vẽ ra sơ đồ khi nói về các thao tác xử lí xâu:
- Học sinh nhìn vào sơ đồ có thể thực hiện 1 số ví dụ về các thao tác, cũng như kết quả của các phép so sánh.
VD1: 
S:= ‘Tin’ + ‘ ‘ + ‘học’ à S=’Tin học’ à phép ghép xâu (+)
VD2:
‘

Tài liệu đính kèm:

  • docsu_dung_so_do_tu_duy_day_cac_bai_trong_chuong_iv_tin_hoc_lop.doc