SKKN Tích hợp giáo dục học sinh bảo vệ môi trường vào một số bài học trong chương trình Vật lí 12 - Ban cơ bản
Vật lí là môn học chiếm vai trò quan trọng trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông. Môn Vật lý là môn khoa học chính xác, môn học thực nghiệm, là môn học giúp học sinh rèn luyện kỹ năng quan sát, phát triển tư duy logic và tư duy sáng tạo.
Vật lí là một môn học giúp học sinh có những hiểu biết khoa học về thế giới sống, kể cả con người trong mối quan hệ với môi trường, có tác dụng tích cực trong việc giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, vì vậy môn Vật lý trong trường phổ thông có khả năng tích hợp rất nhiều nội dung trong dạy học, trong đó việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề quan trọng trong hoạt động dạy học hiện nay.
Hiện nay như chúng ta đã biết môi trường đang bị huỷ hoại nghiêm trọng, gây nên sự mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống. Một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng trên là do tiến trình công nghiệp hoá, sự yếu kém về khoa học xử lý chất thải, sự thiếu ý thức, thiếu hiểu biết của con người. Bên cạnh đó các hoạt động của con người như: chặt phá rừng, sản xuất công, nông nghiệp, giao thông vận tải, sinh hoạt, dân số tăng nhanh, do các phong tục tập quán của người dân như đốt nương làm rẫy, canh tác, việc săn bắt động vật hoang dã, tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản bừa bãi đã ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống trên Trái Đất gây mất cân bằng sinh thái, tài nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng đe doạ chất lượng cuộc sống, sức khoẻ của con người; khí hậu toàn cầu đang thay đổi, hạn hán, lũ lụt, lỗ thủng tầng ôzôn, mất cân bằng sinh thái, làm tan băng, . ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội. Do đó vấn đề ô nhiễm môi trường, sự phá vỡ cân bằng sinh thái đang là vấn đề quan tâm chung của nhân loại, là một trong các "vấn đề toàn cầu" hiện nay[1].
Giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề cấp bách có tính toàn cầu và là vấn đề có tính khoa học, tính xã hội sâu sắc. Đặc biệt vấn đề này rất cần thiết cho các em học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước. Làm thế nào để hình thành cho các em ý thức bảo vệ môi trường và thói quen sống vì một môi trường xanh - sạch - đẹp.Tình trạng trường học ít cây xanh hoặc không có cây xanh vẫn còn phổ biến, ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận học sinh còn chưa tốt, như việc vứt rác bừa bãi, hút thuốc lá khi đến trường vẫn còn diễn ra hàng ngày. Ngay bên trong một số trường học, dù đã có những thùng đựng rác lớn nhưng rác vẫn được vứt không đúng nơi qui định. Những điểm công cộng ở gần các trường học, nhà ga, bến xe, chợ hiện tượng xả rác bừa bãi là khá phổ biến. Tình trạng sử dụng điện, nước lãng phí cũng đã trở nên “quen thuộc” trong các nhà trường. Dường như tâm lý “dùng của chùa’ vẫn còn tồn tại nên ở nhiều nhà trường, ở các phòng học và phòng làm việc, quạt, điều hoà nhiệt độ, các thiết bị chiếu sáng được sử dụng “vô tư” và lãng phí [1]. Trước những vấn đề trên là một giáo viên và là người trực tiếp giáo dục các em học sinh thì việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các em, những chủ nhân tương lai của đất nước qua các tiết dạy là một yêu cầu cần thiết trong quá trình dạy học. Vậy thì giáo dục các em như thế nào để có hệ thống và đạt hiệu quả cao. Từ thực tế giảng dạy, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm, tôi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm: “Tích hợp giáo dục học sinh bảo vệ môi trường vào một số bài học trong chương trình Vật lí 12 - Ban cơ bản ”.
I. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Vật lí là môn học chiếm vai trò quan trọng trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông. Môn Vật lý là môn khoa học chính xác, môn học thực nghiệm, là môn học giúp học sinh rèn luyện kỹ năng quan sát, phát triển tư duy logic và tư duy sáng tạo. Vật lí là một môn học giúp học sinh có những hiểu biết khoa học về thế giới sống, kể cả con người trong mối quan hệ với môi trường, có tác dụng tích cực trong việc giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, vì vậy môn Vật lý trong trường phổ thông có khả năng tích hợp rất nhiều nội dung trong dạy học, trong đó việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề quan trọng trong hoạt động dạy học hiện nay. Hiện nay như chúng ta đã biết môi trường đang bị huỷ hoại nghiêm trọng, gây nên sự mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống. Một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng trên là do tiến trình công nghiệp hoá, sự yếu kém về khoa học xử lý chất thải, sự thiếu ý thức, thiếu hiểu biết của con người. Bên cạnh đó các hoạt động của con người như: chặt phá rừng, sản xuất công, nông nghiệp, giao thông vận tải, sinh hoạt, dân số tăng nhanh, do các phong tục tập quán của người dân như đốt nương làm rẫy, canh tác, việc săn bắt động vật hoang dã, tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản bừa bãi đã ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống trên Trái Đất gây mất cân bằng sinh thái, tài nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng đe doạ chất lượng cuộc sống, sức khoẻ của con người; khí hậu toàn cầu đang thay đổi, hạn hán, lũ lụt, lỗ thủng tầng ôzôn, mất cân bằng sinh thái, làm tan băng, ... ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội. Do đó vấn đề ô nhiễm môi trường, sự phá vỡ cân bằng sinh thái đang là vấn đề quan tâm chung của nhân loại, là một trong các "vấn đề toàn cầu" hiện nay[1]. Giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề cấp bách có tính toàn cầu và là vấn đề có tính khoa học, tính xã hội sâu sắc. Đặc biệt vấn đề này rất cần thiết cho các em học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước. Làm thế nào để hình thành cho các em ý thức bảo vệ môi trường và thói quen sống vì một môi trường xanh - sạch - đẹp.Tình trạng trường học ít cây xanh hoặc không có cây xanh vẫn còn phổ biến, ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận học sinh còn chưa tốt, như việc vứt rác bừa bãi, hút thuốc lá khi đến trường vẫn còn diễn ra hàng ngày. Ngay bên trong một số trường học, dù đã có những thùng đựng rác lớn nhưng rác vẫn được vứt không đúng nơi qui định. Những điểm công cộng ở gần các trường học, nhà ga, bến xe, chợhiện tượng xả rác bừa bãi là khá phổ biến. Tình trạng sử dụng điện, nước lãng phí cũng đã trở nên “quen thuộc” trong các nhà trường. Dường như tâm lý “dùng của chùa’ vẫn còn tồn tại nên ở nhiều nhà trường, ở các phòng học và phòng làm việc, quạt, điều hoà nhiệt độ, các thiết bị chiếu sáng được sử dụng “vô tư” và lãng phí [1]. Trước những vấn đề trên là một giáo viên và là người trực tiếp giáo dục các em học sinh thì việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các em, những chủ nhân tương lai của đất nước qua các tiết dạy là một yêu cầu cần thiết trong quá trình dạy học. Vậy thì giáo dục các em như thế nào để có hệ thống và đạt hiệu quả cao. Từ thực tế giảng dạy, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm, tôi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm: “Tích hợp giáo dục học sinh bảo vệ môi trường vào một số bài học trong chương trình Vật lí 12 - Ban cơ bản ”. 1. 2. Phạm vi đối tượng nghiên cứu. - Sáng kiến kinh nhiệm áp dụng cho một phần kiến thức trong một số bài học trong chương trình Vật lí 12 – Ban cơ bản. - Tích hợp giáo dục học sinh bảo vệ môi trường trong giảng dạy và học tập môn vật lý 12 ở trường THPT Lê Văn Linh. 1. 3. Mục đích nghiên cứu. * Đối với học sinh: - Định hướng cho học sinh hiểu và ý thức được một số vấn đề về môi trường đang được quan tâm hiện nay, có liên quan trực tiếp tới quá trình dạy và học môn Vật lí. - Giúp học sinh ham mê, yêu thích bộ môn Vật lí. - Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường, cải thiện và xây dựng môi trường xanh - sạch - đẹp. * Đối với giáo viên : Đẩy mạnh công tác "giáo dục môi trường", lồng ghép giáo dục môi trường một cách thuận lợi, khoa học và thường xuyên hơn. 1. 4. Phương pháp nghiên cứu. - Dựa vào thực tế giảng dạy, dự giờ, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, thông qua tham khảo sách báo, Internet, thông tin đại chúng. - Dựa vào công tác điều tra, khảo sát, tham quan, nghiên cứu tình hình môi trường ở địa phương, thảo luận đưa ra phương án xử lí. - Dựa vào kinh nghiệm thực tế, các hoạt động thực tiễn, từ đó phân tích, tổng hợp đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường. II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận. Môn Vật lí là môn học chính khóa trong chương trình học của cấp THPT, Vật lí 12 – Ban cơ bản, theo phân phối chương trình hiện hành gồm 2 tiết/ tuần, tổng 70 tiết/ năm học. “Với mức độ thấp thì dạy học tích hợp là lồng ghép những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học một môn học như: lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giáo dục bảo vệ môi trường, an toàn giao thông” [4]. “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên” [1]. “Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên” [1]. “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường, có quyền và có trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường”[1]. Bảo vệ môi trường hiện nay là một trong nhiều mối quan tâm mang tính toàn cầu. Ở nước ta, bảo vệ môi trường cũng đang là vấn đề được quan tâm sâu sắc. Nghị quyết số 41/NQ- TƯ ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước[1]. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh phải “Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường” [1]. Quyết định số 1363/ QĐ- TTg ngày 17 tháng 10 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án: “ Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân” và Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho những nỗ lực và quyết tâm bảo vệ môi trường theo định hướng phát triển một tương lai bền vững của đất nước. Luật bảo vệ môi trường 2014 số 55/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 thay thế Luật bảo vệ môi trường 2005, 18/2015/NĐ-CP Quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường có hiệu lực từ ngày 01/04/2015. Nghị định số 19/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ ngày 01/04/2015. Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thay thế Nghị định 179/2013/NĐ-CP (Phần phụ lục) & 81/2006/NĐ-CP với mức phạt tăng lên nhiều lần có hiệu lực từ ngày 01/02/2017[1] . Cụ thể hóa và triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Chỉ thị 02/2005/CT-BGDĐT ngày 31 tháng 01 năm 2005 về việc “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường”; Chỉ thị số 40/2008/CT-BGD ĐT ngày 22/07/2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013. Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục trong cả nước tổ chức triển khai các nhiệm vụ về giáo dục bảo vệ môi trường, đưa nội dung giáo dục môi trường vào trường học. Từ đó, hướng dẫn xây dựng chương trình, tài liệu giảng dạy, học tập và tài liệu tham khảo về Giáo dục bảo vệ môi trường (GDBVMT) của các cấp học, trình độ đào tạo làm cơ sở cho việc thực hiện thống nhất mục tiêu, nội dung và phương pháp GDBVMT trong các cơ sở giáo dục, đào tạo; tổ chức tập huấn cho giáo viên cốt cán các cấp học từ mầm non đến trung học phổ thông về các phương pháp tích hợp/lồng ghép nội dung giáo dục môi trường vào các môn liên quan trực tiếp đến môi trường như sinh học, địa lý, giáo dục công dân.., qua đó đã xây dựng được mạng lưới đội ngũ giáo viên cốt cán triển khai nhiệm vụ tập huấn, tuyên truyền về giáo dục bảo vệ môi trường tại cơ sở. Đội ngũ giáo viên cốt cán này đã phát huy hiệu quả vai trò của mình trong việc triển khai nhiệm vụ GDBVMT tại địa phương [1]. 2. 2. Thực trạng của vấn đề. * Về phía giáo viên. - Thông thường giáo viên chỉ thiết kế nội dung bài học theo SGK, chú tâm vào những nội dung chính của bài học, dẫn tới nội dung bài học không sinh động học sinh sẽ cảm thấy chán học, học sinh hiện nay có rất ít kiến thức thực tế: SGK nói những gì thì học sinh biết điều đó hoặc giáo viên phải cung cấp thông tin cho học sinh. - Trong quá trình dạy học giáo viên thường bỏ qua vấn đề cấp bách về ô nhiễm môi trường hiện nay, cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục học sinh bảo vệ môi trường, một số giáo còn thiếu kiến thức thực tế về tình hình ô nhiễm môi trường, chưa tìm được sự liên hệ giữa kiến thức của bài học với việc giáo dục học sinh bảo vệ môi trường. Từ đó dẫn tới nhiệm vụ giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các em chưa được quan tâm thường xuyên, đúng mức và chưa đạt hiệu quả. * Về phía học sinh. - Thực trạng học sinh hiện nay ít được tiếp xúc với thực tế nên chưa đánh giá hết mức độ ô nhiễm môi trường, còn thờ ơ trước sự ô nhiễm môi trường. Bản thân một số học sinh là tác nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường. Minh chứng cho điều này là hiện nay các em vẫn còn xả rác bừa bãi, bẻ cây, bẻ cành và thờ ơ trước những hành động gây ô nhiễm môi trường .... - Hiện nay đa số học sinh chưa có kỹ năng thu nhận thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, chưa vận dụng kiến thức thực tế vào bài học. Vì vậy ý thức và kiến thức bảo vệ môi trường của học sinh là rất hạn chế. Đây chính là lí do thúc đẩy tôi tìm tòi, đưa ra các biện pháp để khắc phục vấn đề này. * Thực trạng về nguồn tài nguyên nước, rừng, chất thải trong sản xuất và sinh hoạt ở nước ta hiện nay (nguồn Internet). Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Trong ba loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, tỉ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lí nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 - 20%, như tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay, mới có 60 khu công nghiệp đã hoạt động có trạm xử lí nước thải tập trung (chiếm 42% số khu công nghiệp đã vận hành) và 20 khu công nghiệp đang xây dựng trạm xử lí nước thải. Bình quân mỗi ngày, các khu, cụm, điểm công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại khác. Dọc lưu vực sông Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận... Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp của bà con nông dân [1]. Tình trạng ô nhiễm các các khu công nghiệp. Ảnh minh họa Nhìn chung, hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về môi trường theo quy định. Thực trạng đó làm cho môi trường sinh thái ở một số địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư lân cận với các khu công nghiệp, đang phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường. Họ phải sống chung với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công nghiệp..Từ đó, gây bất bình, dẫn đến những phản ứng, đấu tranh quyết liệt của người dân đối với những hoạt động gây ô nhiễm môi trường, có khi bùng phát thành các xung đột xã hội gay gắt [1]. Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ công truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc phát triển các làng nghề có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm ở các địa phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi trường do các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do nhiên liệu sử dụng trong các làng nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 và NO2 thải ra trong quá trình sản xuất khá cao. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay cả nước có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống, đang giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả lao động thường xuyên và lao động không thường xuyên. Các làng nghề được phân bố rộng khắp cả nước, trong đó các khu vực tập trung phát triển nhất là đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Tây Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Hoạt động gây ô nhiễm môi trường sinh thái tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ của những người dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận [1]. Các làng nghề tự phát gây ô nhiễm môi trường. (hình minh họa) Bên cạnh các khu công nghiệp và các làng nghề gây ô nhiễm môi trường, tại các đô thị lớn, tình trạng ô nhiễm cũng ở mức báo động. Đó là các ô nhiễm về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn... Những năm gần đây, dân số ở các đô thị tăng nhanh khiến hệ thống cấp thoát nước không đáp ứng nổi và xuống cấp nhanh chóng. Nước thải, rác thải sinh hoạt (vô cơ và hữu cơ) ở đô thị hầu hết đều trực tiếp xả ra môi trường mà không có bất kỳ một biện pháp xử lí môi trường nào nào ngoài việc vận chuyển đến bãi chôn lấp. Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi ngày người dân ở các thành phố lớn thải ra hàng nghìn tấn rác; các cơ sở sản xuất thải ra hàng trăm nghìn mét khối nước thải độc hại; các phương tiện giao thông thải ra hàng trăm tấn bụi, khí độc. Trong tổng số khoảng 34 tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 1/3; bầu khí quyển của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có mức benzen và sunfua đioxit đáng báo động. Theo một kết quả nghiên cứu mới công bố năm 2008 của Ngân hàng Thế giới (WB), trên 10 tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất, nước, không khí, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm đất nặng nhất. Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu châu Á về mức độ ô nhiễm bụi [1]. Tình trạng ô nhiễm ở các thành phố lớn đang là bài toán khó giải. Tác động của ô nhiễm của môi trường đến sự biến đổi khí hậu trên trái đất. 2. 3. Giải pháp để giải quyết vấn đề. Từ những thực trạng trên về chất lượng môi trường hiện nay thì việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho mọi người là rất cần thiết, đặc biệt là với các em học sinh, là những chủ nhân tương lai của đất nước. Giáo viên, là những người trực tiếp giáo dục các em thì chúng ta cần có trách nhiệm và có giải pháp phù hợp và đạt hiệu quả nhất để giáo dục các em ý thức bảo vệ môi trường. Theo tôi giải pháp đó là: Chú trọng và tăng cường việc tích hợp bảo vệ môi trường trong các tiết dạy, dành thời gian thích hợp để giáo dục học sinh có ý thức bảo vệ môi trường, phù hợp với nội dung kiến thức của bài học (Thời gian cho phần tích hợp có thể từ 5 – 7 phút). Trong chương trình Vật lí 12 – Ban cơ bản có nhiều bài học có thể tích hợp hoặc liên hệ để giáo dục cho học sinh ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường, trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi nghiên cứu một số bài học có một phần kiến thức để tích hợp giáo dục học sinh bảo vệ môi trường. Sáng kiến kinh nghiệm “Tích hợp giáo dục học sinh bảo vệ môi trường vào một số bài học trong chương trình Vật lí 12 – Ban cơ bản” là sáng kiến kinh nghiệm nhằm góp phần đưa việc giáo dục học sinh có ý thức tốt hơn đối với môi trường sống, bên cạnh đó làm tăng tính hứng thú cho môn học. Để tích hợp bảo vệ môi trường vào giảng dạy môn Vật lý nói chung, môn Vật lí 12 nói riêng có hiệu quả là một việc không phải đơn giản và dễ dàng. Ngoài việc giáo viên giảng dạy phải đảm bảo được chuẩn kiến thức, kỹ năng của bộ môn, giáo viên còn phải đưa những kiến thức về bảo vệ môi trường từ cuộc sống thực tế vào bài giảng, bên cạnh đó phải thường xuyên tìm tư tiệu về bảo vệ môi trường như tranh ảnh, video, các thí nghiệm có liên quan để phục vụ cho tiết dạy giáo dục bảo vệ môi trường. Phải xác định được mục tiêu khi lồng ghép kiến thức, những đơn vị kiến thức đó phải dể hiểu, và sự vật hiện tượng mà giáo viên giới thiệu phải nằm trong tầm hiểu biết của học sinh, tránh trường hợp nó trở thành kiến thức trừu tượng, khó hình dung, rất dễ gây sự nhàm chán cho học sinh. Bằng phương pháp giảng dạy đưa những kiến thức bảo vệ môi trường đơn giản, cụ thể gắn liền với cuộc sống, với địa phương, kết hợp với sự nhắc nhở của giáo viên sẽ là một trong những yếu tố góp phần cho sự thành công cho tiết dạy có tích hợp bảo vệ môi trường. Cần tổ chức những buổi ngọai khóa để học sinh có điều kiện tìm hiểu về vấn đề môi trường ở địa phương, để từ đó các em có biện pháp và hành động cụ thể để bảo vệ môi trường. Cuối cùng theo tôi để đạt được hiệu quả cao thì mỗi giáo viên phải là một tấm guơng về bảo vệ môi trường. Để cụ thể vấn đề trên, tôi xây dựng phương pháp giảng dạy cho các bài có tích hợp giáo dục học sinh bảo vệ môi trường vào môn Vật lí 12 - Ban cơ bản như sau: 2.3.1. Các bài dạy tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh trong chương trình Vật lí 12 – Ban cơ bản. Bài 1: Sóng cơ và sự truyền sóng cơ. * Địa chỉ tích hợp: Năng lượng của sóng. * Nội dung tích hợp: - Yêu cầu hoc sinh trình bày các đặc trưng của sóng hình sin. GV: Năng lượng của sóng được con người sử dụng như thế nào? HS: Trả lời bằng sự hiểu biết của mình qua thực tiễn. GV: Ngày nay năng lượng sóng được con người sử dụng làm quay tua bin để tạo ra điện năng, tạo ra điện năng từ nguồn năng lượng sóng (năng lượng sạch), sẽ góp phần bảo vệ môi trường trái đất. - Chiếu video việc tạo ra điện năng từ năng lượng sóng (2 – 3 phút) (kèm theo trong đĩa CD). * GD học sinh ưu tiên sử dụng các nguồn năng lượng sạch. Bài 2. Đặc trưng vật lí của âm. * Địa chỉ tích hợp: Các đặc trưng vật lí của âm. * Nội dung tích hợp: GV: Tại sao ở trong môi trường có tiếng ồn lớn gây trạng thái căng thẳng mệt mỏi cho cơ thể (ô nhiễm tiếng ồn)? HS: Trả lời. GV: Khắc phục như thế nào? HS: Trả lời qua hiểu biết thực tiễn. GV: Giảm tiếng ồn bằng cách tạo ra các thiết bị ít tiếng ồn, các thiết bị cách âm, điều chỉnh giảm âm lượng của các nguồn âm một cách phù hợp. - GV cho học sinh tìm hiểu cách sử dụng
Tài liệu đính kèm:
- skkn_tich_hop_giao_duc_hoc_sinh_bao_ve_moi_truong_vao_mot_so.doc
- BIA SKKN.doc
- CV34-Z-Danh muc de tai SKKN da duoc xep giai cua tac gia.doc
- Mục lục.doc