SKKN Tích hợp ca dao, tục ngữ trong giảng dạy môn Địa lí lớp 10, 12 ở trường THPT

SKKN Tích hợp ca dao, tục ngữ trong giảng dạy môn Địa lí lớp 10, 12 ở trường THPT

Địa lí được xem là môn học tổng hợp vừa mang tính xã hội, vừa mang tính tự nhiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì thế trong quá trình dạy học, nếu chúng ta biết chọn lọc các câu ca dao, tục ngữ hay phù hợp, những trích đoạn của câu ca, điệu hò, lồng ghép vào các bài dạy tương ứng, sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, hiểu rõ và khắc sâu hơn nội dung cần tìm hiểu, bài dạy sẽ sinh động hơn. Đồng thời khuyến khích học sinh tự tìm tòi học hỏi, để rút ra những kinh nghiệm cho bản thân tạo cho các em vốn kiến thức để tích lũy cho cuộc sống các em sau này. Vận dụng những kiến thức đã học với những bài học từ dân gian giúp học sinh có cách nhìn thực tế hiện thực khách quan hơn về thế giới duy vật biện chứng. Hiện tại chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về vấn đề này, đồng nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm giải quyết, khắc phục. Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Tích hợp ca dao, tục ngữ trong giảng dạy môn Địa lí lớp 10, 12 ở trường THPT" nhằm giúp học sinh sẽ dễ nhớ và khắc sâu kiến thức hơn và đây cũng chính là mục đích của quá trình lồng ghép các chương trình giáo dục theo bản thân tôi là hiệu quả nhất đối với học sinh THPT.

doc 15 trang thuychi01 7700
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tích hợp ca dao, tục ngữ trong giảng dạy môn Địa lí lớp 10, 12 ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.3. Một số giải pháp tích hợp kiến thức ca dao, tục ngữ vào giảng dạy một số bài trong chương trình địa lí lớp 10 và lớp 12 ở trường THPT.
4
2.3.1. Mối quan hệ giữa tự nhiên với tự nhiên
4
2.3.2. Mối quan hệ giữa tự nhiên với hoạt động sản xuất
6
2.3.3. Mối qua hệ giữa con người với các cảnh quan tự nhiên của các miền đất trên đất nước ta
8
2.3.4. Các câu ca với địa lí các vùng kinh tế (Sự phân hóa lãnh thổ)
9
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
11
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
11
3.1. Kết luận.
11
3.2. Kiến nghị
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
14
1. MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Địa lí được xem là môn học tổng hợp vừa mang tính xã hội, vừa mang tính tự nhiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì thế trong quá trình dạy học, nếu chúng ta biết chọn lọc các câu ca dao, tục ngữ hay phù hợp, những trích đoạn của câu ca, điệu hò, lồng ghép vào các bài dạy tương ứng, sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, hiểu rõ và khắc sâu hơn nội dung cần tìm hiểu, bài dạy sẽ sinh động hơn. Đồng thời khuyến khích học sinh tự tìm tòi học hỏi, để rút ra những kinh nghiệm cho bản thân tạo cho các em vốn kiến thức để tích lũy cho cuộc sống các em sau này. Vận dụng những kiến thức đã học với những bài học từ dân gian giúp học sinh có cách nhìn thực tế hiện thực khách quan hơn về thế giới duy vật biện chứng. Hiện tại chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về vấn đề này, đồng nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm giải quyết, khắc phục. Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Tích hợp ca dao, tục ngữ trong giảng dạy môn Địa lí lớp 10, 12 ở trường THPT" nhằm giúp học sinh sẽ dễ nhớ và khắc sâu kiến thức hơn và đây cũng chính là mục đích của quá trình lồng ghép các chương trình giáo dục theo bản thân tôi là hiệu quả nhất đối với học sinh THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu
 	Trên cơ sở lý luận, và thực tiễn sáng kiến đề xuất một số giải pháp tích hợp ca dao, tục ngữ nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em học sinh yêu thích môn địa lí, dễ nhớ và khắc sâu kiến thức sau mỗi bài học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 	 Đề tài này sẽ nghiên cứu, tìm hiểu các câu ca dao, tục ngữ, liên quan đến các hiện tượng địa lí tự nhiên, kinh tế - xã hội để lồng ghép vào bài dạy địa lí lớp 10, 12 ở trường THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 	Tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong đề tài: Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết, phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin....
 	Phương pháp thống kê, xử lí số liệu, hệ thống khái quát hóa những vấn đề cơ bản của các tư liệu về lý luận dạy học, phương pháp dạy học các vấn đề liên quan đến ca dao, tục ngữ về các hiện tượng địa lí tự nhiên, kinh tế - xã hội trong chương trình địa lí lớp 10 và lớp 12 ở trường trung học phổ thông. Tiến hành sưu tầm các câu ca dao, tục ngữ, thơ ca  có quan hệ sát với nội dung các bài địa lí thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Cần lưu ý rằng, không phải trong một bài ca dao, những câu tục ngữ liên quan ta có thể khai thác được hết cả bài mà nên lựa chọn những câu sát nhất, “đắt” nhất để sử dụng. Chọn lựa, phân loại các kiến thức ca dao, tục ngữ phù hợp với yêu cầu, phương pháp giảng dạy địa lí theo từng nội dung bài học. Sau khi phân loại, chúng tôi tiến hành sắp xếp nguồn tư liệu đó thành từng chủ đề.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm 
Sáng kiến kinh nghiệm đã vận dụng ca dao, tục ngữ trong giảng dạy Địa lí lớp 10 và lớp 12 nhằm giúp học sinh yêu thích môn Địa lí, tạo hứng thú học tập 
cho các em học sinh.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
 	 “Tích hợp ” là gì? Theo từ điển tiếng Anh, Integration - có nghĩa là sự kết hợp những phần, những bộ phận với nhau trong một tổng thể. Những phần, những bộ phận này có thể khác nhau nhưng kết hợp được với nhau. Như vậy đây là một khái niệm rộng có nguồn gốc từ tiếng Latinh. Integration - có nghĩa là xác lập cái chung, cái toàn thể, các thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ.
Trong dạy học bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau. Tích hợp trong dạy học địa lí có nghĩa là lồng ghép các nội dung có liên quan vào bài học địa lí, ví như lồng ghép kiến thức văn học, toán học , lịch sử.... vào nội dung bài học . Trong khuôn khổ của đề tài này tôi đã chọn lồng ghép kiến thức ca dao, tục ngữ, thơ ca của văn học để làm phong phú bài giảng, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Mục tiêu của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông là nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức mới. Một trong những phương pháp hiệu quả nhất đó là áp dụng việc dạy học liên môn.
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học ở trường phổ thông. Đây là cách tìm các nội dung chung giữa những môn học với bộ môn địa lí, từ đó sẽ bổ sung, làm sáng tỏ hơn những kiến thức mới cho học sinh. 
Vậy dạy học tích hợp là phương pháp giảng dạy kết hợp một hoặc nhiều môn học nhằm làm sáng tỏ cho môn học mà giáo viên thấy sự cần thiết trong việc giảng dạy. Có thể hiểu một cách đơn giản hơn, dạy học tích hợp là vừa dạy nội dung lý thuyết và thực hành trong cùng một bài dạy.  
 	 Môn Địa lý có vị trí và ý nghĩa sâu sắc, đây là môn học có tác dụng giáo dục và giáo dưỡng rất lớn - là một trong những yêu cầu cơ bản đầu tiên để xây dựng tình yêu Tổ quốc, yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam. 
 	Hiện nay, trong quá trình CNH-HĐH đang diễn ra mạnh mẽ, xu thế của nền kinh tế thị trường với những mưu toan trên thương trường, con người đôi khi đã thờ ơ trước quy luật phát triển của tự nhiên, làm thay đổi quy luật, gây ô nhiễm môi trường, đôi khi bỏ qua hoặc lãng quên những kinh nghiệm ngàn đời được thể hiện qua ca dao tục ngữ, ngạn ngữ mà họ đã được nghe, được học. Chính vì thế ngày nay chủ trương của ngành trong đổi mới phương pháp, dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm, đặc biệt đối với các bộ môn được chọn để lồng ghép, tích hợp, tiếp cận các chương trình giáo dục, như: môi trường, dân số, tình yêu quê hương đất nước, tiết kiệm năng lượng, kĩ năng sống... thì việc tích hợp vào trong bài học Địa lí là rất cần thiết.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 	Do cơ chế thị trường, sự bùng nổ thông tin, sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, do không tìm được việc làm vì thế mà một số em chú trọng môn khoa học tự nhiên, môn địa lí ít được quan tâm. Kiến thức địa lí nhiều bài khô khan giáo viên chỉ dạy cho hết giờ không tâm huyết với bộ môn thì người học sẽ thấy giờ địa lí nhàm chán , nặng nề và thực tế này đã xảy ra ở nhiều trường THPT.
Thực trạng này đòi hỏi người giáo viên phải sáng tạo trong việc sử dụng phương pháp và để làm bài giảng thêm sinh động hấp dẫn hơn giáo viên nên sử dụng ca dao, tục ngữ trong giờ dạy địa lí.
Tài liệu văn học, đặc biệt là ca dao, tục ngữ có vai trò hết sức to lớn trong quá trình dạy học môn địa lí ở trường phổ thông , góp phần vào việc giáo dục giáo dưỡng và phát triển tư duy học sinh. Tuy nhiên một phần lớn phụ huynh học sinh xem nhẹ môn địa lí cho rằng đây là môn học không quan trọng, quan niệm đó có cả trong suy nghĩ của lãnh đạo một số trường, rất quan tâm ưu ái cho môn khoa học tự nhiên còn môn khoa học xã hội nói chung và môn địa lí nói riêng thì thiếu sự quan tâm đúng mức. 
Bản thân các em học sinh chưa thật sự ham thích môn địa lí, coi môn địa lí là môn phụ nên thường xem nhẹ. Ngoài ra nếu chọn học lên đại học thì không xin được việc làm, nên thái độ của các em thường là học đối phó, do đó trong giờ học thường thụ động, chưa tích cực xây dựng bài.
Bên cạnh đó học sinh hiện nay học rất thực dụng, chỉ biết học như thế nào là có điểm và lên lớp còn việc tích hợp, tích lũy thêm kiến thức từ đời sống thực tế ngày càng xa vời. Các quy luật tự nhiên trong các câu ca dao tục ngữ khi đọc đến, có nghe thấy thì cũng nghe cho vui tai, nghe thấy "hay hay" vậy thôi, chứ đâu có hiểu nội dung của câu ca đó có nghĩa gì, nội dung ra thế nào, và vì sao lại như vậy....
Như bài: "Đi cấy" nhiều học sinh cũng biết đến và có thuộc, nhưng nhiều em không hiểu vì sao có đoạn "...trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm..."mà đó chính là trông cho mưa thuận, gió hòa, trông vào thời tiết khí hậu trước khi xuống mùa vụ. Hoặc như lời bài hát : "Trường sơn Đông, Trường sơn Tây bên nắng đốt, bên mưa bay" cũng có nhiều học sinh hát được, nhưng khi vận dụng vào bài học để giải thích thì học sinh không hiểu được đây là yếu tố địa hình của dãy Trường Sơn đã tác động đến khí hậu của hai sườn Đông - Tây tạo nên sự khác biệt. Vì vậy trong quá trình giảng dạy Địa lí, người giáo viên cần tác động đến các đối tượng học sinh, ra bài tập cho học sinh tự làm, tự tìm hiểu thêm, kích thích quá trình học hỏi, ham hiểu biết của các em bằng việc sưu tầm càng nhiều câu ca dao, tục ngữ làm phong phú thêm nguồn tư liệu dạy học, vừa góp phần bảo tồn các di sản văn hóa của dân tộc. Đồng thời việc đưa các câu ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ vào bài học Địa lí nhằm khắc sâu kiến thức hơn, góp phần làm phong phú hơn vốn tích lũy một số kinh nghiệm của ông cha ta, giúp chúng có thêm "tài sản" trong cuộc sống lao động, sản xuất sau này.
2.3. Một số giải pháp tích hợp kiến thức ca dao, tục ngữ vào giảng dạy một số bài trong chương trình địa lí lớp 10 và lớp 12 ở trường THPT.
2.3.1 Mối quan hệ giữa tự nhiên với tự nhiên:
 	Khi dạy bài “Hệ quả chuyển động xung quanh mặt trời của Trái đất”( Địa lí 10) để khắc sâu kiến thức về hiện tượng “Ngày đêm, dài ngắn theo mùa”. Tôi đọc câu ca dao:
“Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng Mười chưa cười đã tối” (ca dao)
Yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức mới học để giải thích.
 Học sinh vẽ hình
Giải thích: Mùa hè ở nửa cầu Bắc (Tháng 5 Việt Nam)
Cụ thể 22/6 hàng năm, tia bức xạ Mặt trời chiếu vuông góc với tiếp tuyến bề mặt Trái đất tại Chí tuyến Bắc (23027’B) nên thời gian chiếu sáng ở nửa cầu Bắc (Việt Nam) dài, càng về phía Cực Bắc ngày càng dài, nên hiện tượng có ngày dài, đêm ngắn.
Vào ngày 22/12, Mặt trời chuyển động biểu kiến về Chí tuyến Nam và vuông góc với tiếp tuyến bề mặt đất tại 23027’N (Chí tuyến Nam) thì ở Việt Nam hiện tượng đêm dài, ngày ngắn. Do đó có câu “Ngày tháng Mười chưa cười đã tối”.
Khi dạy bài “Sóng - Thủy triều- Dòng Biển” để giải thích hiện tượng thủy triều vận dụng câu tục ngữ: "Trăng lên thì nước lên" giải thích lực hút mạnh mẽ của Mặt Trăng. Đối với con nước triều “cường”, “kém” liên quan đến vị trí của Mặt Trăng, Mặt Trời và Trái Đất trong không gian, liên hệ hiện tượng trăng khuyết thời kỳ triều “kém”, ca dao có câu:
“Mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm” ( Ca dao)
Mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên rất khăng khít, chúng hoạt động theo một quy luật thống nhất và hoàn chỉnh. Chỉ một thành phần tự nhiên thay đổi sẽ làm cả tổng hợp thể tự nhiên thay đổi theo, mà nguyên nhân sâu xa là sự thay đổi của bức xạ Mặt trời, do “chuyển động biểu kiến” từ nửa cầu Bắc sang nửa cầu Nam của Mặt trời: Khi Mặt trời chuyển động về phía cầu nào thì các yếu tố: nhiệt độ, khí áp, hướng gió, mưa, sự phát triển của sinh vật sẽ thay đổi tạo ra cảnh quan địa lý đặc trưng theo mùa.
Trong các câu tục ngữ, ca dao đã thể hiện những quan sát tinh tế về mối quan hệ giữa thời tiết với sinh vật:  
 “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
 Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” (Ca dao)
Người nông dân chỉ đúc kết kinh nghiệm về thay đổi thời tiết của độ bay cao, thấp của con chuồn chuồn. Còn học sinh khi học phần khí hậu (khí quyển, khí áp, gió, mưa...) sẽ giải thích độ cao, thấp của chuồn chuồn khi bay với hiện tượng “mưa, nắng” là do yếu tố áp suất không khí và độ ẩm...
Cũng là hiện tượng thời tiết: 
 “Tháng Bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão”( Tục ngữ)
Hiện tượng “gió heo may” loại gió nhẹ, hơi lạnh và khô thường thổi vào mùa thu (đầu đông) ở vùng Bắc bộ hoạt động mạnh vào thời gian từ tháng 9, 10 dương lịch. Mùa này thường không có mưa. Nhưng nếu tháng Bảy có gió heo may với hiện tượng có chuồn chuồn bay nhiều báo hiệu có bão nhiệt đới, nên để chỉ tính chất của thời tiết này ông cha ta xưa mới có câu trên. 
Chỉ cần quan sát sự xuất hiện của những đàn kiến di chuyển cùng với “lương thực, thực phẩm...” từ dưới đất lên cao thì sẽ có lũ lớn.
Với câu: “Tháng bảy kiến đàn
Đại hàn hồng thủy” ( Ca dao)
Vào tháng 7, mùa hè của nửa cầu Bắc (Việt Nam), nhiệt độ không khí ở trên lục địa cao trở thành khu áp thấp hút gió (khối khí ẩm) từ Thái Bình Dương vào gây nên những trận mưa lớn cùng với sự xuất hiện của các khu khí áp thấp trên biển, gây nên mưa bão ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Cũng là khối khí ẩm từ cao áp Thái Bình Dương gây nên kiểu thời tiết mưa lớn bằng thực tế trong dân gian có câu:
“Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy”
Nhưng nếu thấy: “Cơn đàng Tây vừa làm vừa chơi”
Hay: “Cơn đàng Bắc đổ thóc ra phơi” ( Tục ngữ)
Do ảnh hưởng của địa hình: dãy Hoàng Liên Sơn ở Bắc Bộ, dãy Trường Sơn Bắc (Bắc Trung Bộ) nên khi có gió Tây Nam chỉ gây mưa ở Tây Bắc, Tây Trường sơn Bắc, Nam bộ và Tây Nguyên. Còn ở vùng đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và ven biển Nam Trung Bộ không có mưa. Tương tự “cơn đàng Bắc...” là ảnh hưởng của khối khí ôn đới xuất phát từ cao áp lục địa (Xibêri) tính chất lạnh và khô nên không gây mưa. Hay “tháng Tám nắng rám trái bưởi”. Do đặc điểm lãnh thổ nước ta trải dài trên những vĩ độ (150 vĩ tuyến), lưng dựa vào dãy Trường Sơn mặt hướng ra biển Đông hùng vĩ nên cảnh quan thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển. 
“Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang
 Mây kéo lên ngàn, thì mưa như trút” ( Ca dao)
 	Hoặc là dạy bài 13: “Ngưng đọng hơi nước trong khí quyển.Mưa”( Địa 10) , liên hệ các yếu tố thời tiết có câu tục ngữ:
Quá mù ra mưa;
Đông sao thì nắng, (nhiều sao trên trời)
vắng sao thì mưa ( Tục ngữ)
Khi dạy bài “Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển” (Địa lí 12) giảng đến phần các dạng địa hình bờ biển, bãi biển đẹp nổi tiếng, với những vũng, vịnh nước sâu để xây dựng các hải cảng. Để liên hệ với dạng địa hình, cảnh quan độc đáo của Bắc Trung Bộ có thể giới thiệu câu: 
 “ Thương anh, em cũng muốn vô
Sợ Truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”( Ca dao)
Giáo viên giải thích “Truông”- địa hình đồi cỏ cằn cõi ở Bắc Trung Bộ (Hà Tĩnh) rất phổ biến. Phá Tam Giang, vùng nước biển ăn sâu vào lục địa thông với cửa biển hẹp (Cửa Thuận An, cửa Tư Hiền) thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. “Phá” được 3 con sông đổ nước ngọt vào: sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương, tạo một vùng nước lợ với quần thể thủy sinh độc đáo như: Cá hanh, cá dìa, cá đối, cá liệt, tôm rằn, đặc biệt dưới đáy thảm rong phát triển rất dày. Nguồn phân hữu cơ được người dân khai thác bón cho hoa màu.
2.3.2 Mối quan hệ giữa tự nhiên với hoạt động sản xuất 
Người nông dân Việt Nam trải qua bao khó khăn gian khổ, chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt (thiên tai) để sản xuất Nông nghiệp. Họ đã có những kinh nghiệm được đúc kết thể hiện tính mùa vụ khắt khe. Để nhắc nhở đã có câu:
“Tháng Một là tháng trồng khoai
Tháng Hai trồng đậu, tháng Ba trồng cà”(Ca dao)
Đây là câu tục ngữ ca dao, tôi chỉ sử dụng khi dạy phần “các mùa trong năm”( Địa Lí 10). Do Trái đất là hình cầu, cùng một lúc thực hiện 2 chuyển động (tự quay) và chuyển động xung quanh Mặt trời. Quỹ đạo chuyền động xung quanh mặt trời là đường Elíp, từ đó sinh ra hiện tượng các mùa trong năm.
Từ 21-3 đến 22-6: Mùa xuân +Từ 23-9 đến 22-12: Mùa thu
+Từ 22-6 đến 23-9: Mùa hạ +Từ 22-12 đến 21-3năm sau: Mùa đông
(trong thực tế các mùa thường sớm hơn 40-45 ngày).
Mỗi mùa, điều kiện bức xạ mặt trời, nhiệt độ không khí, khí áp, gió, mưa (nhiệt, ẩm) thích nghi với sự phát triển của từng loại cây trồng nên có câu ca trên. Hiện nay sự tác động của khoa học, việc ứng dụng các kỹ thuật trong sản xuất. Con người có thể làm thay đổi cơ cấu mùa vụ, song ấn tượng “mùa nào, thức nấy” vẫn thơm, ngon hơn.
Đặc điểm phụ thuộc vào diễn biến của tự nhiên trong sản xuất nông nghiệp được thể hiện qua con mắt của người nông dân với câu hát mong mùa
“Mồng chín, tháng chín có mưa
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng chín, tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa đi buôn”( Ca dao)
Tháng 9, người nông dân bắt tay vào cày bừa vụ đông xuân (vụ Chiêm), nếu có mưa thường là do hoạt động của loại gió Tín phong Bắc bán cầu (mậu dịch) với khối khí chí tuyến khô-T, nếu thổi từ biển vào nên thường có mưa (gió Đông Bắc) do gió bị biến tính khi qua biển
.23027’B
Xích đạo
23027’N
Từ kinh nghiệm thực tế có câu:
“Đói thì ăn ráy, ăn khoai
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng( Ca dao)
Lúa trổ vào tháng Hai (âm lịch) thời kỳ hoạt động mạnh của các đợt, gió mùa Đông Bắc (bấc) gió to, khô nên lúa sẽ “ngậm đòng, đứng bông” vì lúa sẽ không "phơi mao, thụ phấn" sẽ thất bát.
 “Trời nồm tốt mạ, trời giá tốt rau”
Mùa hè ở Việt Nam thì chịu tác động của gió mùa mùa hạ: tín phong Đông Nam có mưa, Tây nam khô nóng (trừ Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long có mưa). Khi gieo mạ có gió Đông Nam nhiệt, ẩm phong phú, cây mạ phát triển xanh tốt. Về mùa Đông, Việt Nam chịu tác động của gió mùa mùa đông -Thời tiết lạnh (giá) lại phù hợp với các loại cây thực phẩm ôn đới, cận nhiệt được trồng nhiều ở vùng Bắc bộ: bắp cải, su hào, cà chua, súp lơ, cà rốt và cả các loại cây ăn quả: đào, lê, mận...đặc sản vùng miền Bắc.
Hoặc dựa vào tiết khí để xác định mùa vụ cây trồng: “Xuân sớm chậm gieo trồng” nghĩa là ngày Lập Xuân mà xuất hiện sớm vào tháng 12 âm lịch của năm trước là xuân sớm, nếu gieo hạt thì không nên. Hoặc “ Thanh minh mà có gió Nam, lương thực ắt hẳn bội thu” nghĩa là ngày thanh minh mà có gió Nam (Nồm) có thể trông chờ một vụ mùa bội thu.
2.3.3 Mối qua hệ giữa con người với các cảnh quan tự nhiên của các miến đất trên đất nước ta
* Nói về vùng đất Nam Bộ trước đây:
Tới đây xứ sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng run
Cà Mau khỉ khọt như bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống sông sợ đĩa, lên rừng sợ ma.( Ca dao)
Liên hệ đến các đặc sản của các vùng, nói lên sự phong phú của các sản phẩm nông nghiệp: Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
* Để sử dụng vào bài “Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa” - trong chương trình địa lí lớp12, chúng ta có thể trích đoạn thơ sau của nhà thơ Tố Hữu
"Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi! 
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt. 
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát. 
Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca"....
* Để sử dụng vào bài13: Thực hành - Đọc bản đồ Việt Nam - 
"Trên trời có đám mây xanh (4)
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì ta lấy được nàng
Hà Nội, Nam Ðịnh sửa đàng rước dâu
Thanh Hóa cũng đốn trầu cau
Nghệ An thì phải thui trâu mổ bò
Phú Thọ quạt nước hỏa lò
Hải Dương rọc lá giã giò gói nem
Tuyên Quang nấu bạc đúc tiền
Ninh Bình dao thớt Quảng Yên đúc nồi
An Giang gánh đá nung vôi
Thừa Thiên Đà nẵng thổi xôi nấu chè
Quảng Bình Hà Tĩnh thuyền ghe
Đồng Nai Gia Định chẻ tre bắc cầu...."( Ca dao)
2.3.4. Các câu ca với địa lí các vùng kinh tế (Sự phân hóa lãnh thổ)
Giáo viên có thể sử dụng các câu ca để giới thiệu, khắc sâu kiến thức cho học sinh về điều kiện tự nhiên, tiềm năng kinh tế, địa danh du lịch hay những nét văn hóa nổi tiếng của mỗi vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.
* Vùng trung du và miền núi Bắc bộ:
 Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên Xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Bắc Cạn có suối đãi vàng
Có hồ Ba bể có nàng áo xanh
Ai lên Phú Thọ thì lên
Lên non cổ tích, lên đền Hùng Vương ( Ca dao)
* Vùng đồng bằng sông Hồng:
“Vải Quang, húng Láng, ngô Đầm
Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây”
 Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến. 
Dù ai buôn bắc bán đông, 
Đố ai quên được nhãn lồng Hưng Yên( Ca dao)
* Vùng Bắc trung bộ:
Đường vô xứ Huế quanh quanh

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tich_hop_ca_dao_tuc_ngu_trong_giang_day_mon_dia_li_lop.doc