SKKN Thiết kế phiếu học tập hỗ trợ học sinh các lớp chuyên khối khoa học xã hội tự học vật lý

SKKN Thiết kế phiếu học tập hỗ trợ học sinh các lớp chuyên khối khoa học xã hội tự học vật lý

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh."

1.2. Việc thiết kế tài liệu tự học nói chung và phiếu học tập giúp HS tự học nói riêng được nhiều tác giả quan tâm đề cập. Hans - Joachim Laabs đã đưa ra những yêu cầu về nội dung, kỹ thuật thiết kế, chỉ dẫn cho việc viết tài liệu dùng cho HS. Theo tác giả, tài liệu chính dùng cho HS là giáo trình, ngoài ra còn có các tài liệu khác trợ giúp cho việc học như: sách bài tập, tập lưu trữ tư liệu, sách luyện tập, sách tóm tắt tài liệu tham khảo, phiếu học tập. Đồng thời tác giả chỉ rõ chức năng của các tài liệu dành cho HS là: Chức năng biểu đạt; chức năng điều khiển; chức năng khuyến khích động cơ; chức năng phân hóa, chức năng luyện tập và kiểm tra. Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn [15] đã chỉ ra rằng: “Để hướng dẫn tự học phải viết tài liệu, in ra và hướng dẫn người học tự học. Tài liệu hướng dẫn phải vạch được kế hoạch học tập, phương pháp học tập, nội dung tài liệu tự học có hướng dẫn phải chỉ ra mối quan hệ logic giữa các chương, vẽ ra một sơ đồ về mối liên hệ đó. Việc hướng dẫn nên thể hiện ra bằng những câu hỏi hoặc bài tập nhỏ”. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tài liệu là văn bản giúp cho việc tìm hiểu một vấn đề gì đó”. Dựa trên quan điểm của các tác giả trên, chúng tôi cho rằng tài liệu tự học nói chung và Phiếu học tập nói riêng được hiểu là văn bản được GV xây dựng thiết kế trong đó nội dung phải vạch được kế hoạch học tập, phương pháp học, nội dung phải có mối quan hệ logic, vẽ ra một sơ đồ về mối liên hệ đó. Việc hướng dẫn tìm hiểu kiến thức được thể hiện ra bằng những câu hỏi hoặc bài tập nhỏ.

 

doc 31 trang thuychi01 6092
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Thiết kế phiếu học tập hỗ trợ học sinh các lớp chuyên khối khoa học xã hội tự học vật lý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LAM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
THIẾT KẾ PHIẾU HỌC TẬP 
HỖ TRỢ HỌC SINH CÁC LỚP CHUYÊN KHỐI KHOA HỌC XÃ HỘI TỰ HỌC VẬT LÝ
Người thực hiện: Lương Viết Mạnh
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Vật lý
THANH HOÁ NĂM 2018
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh..." 
1.2. Việc thiết kế tài liệu tự học nói chung và phiếu học tập giúp HS tự học nói riêng được nhiều tác giả quan tâm đề cập. Hans - Joachim Laabs đã đưa ra những yêu cầu về nội dung, kỹ thuật thiết kế, chỉ dẫn cho việc viết tài liệu dùng cho HS. Theo tác giả, tài liệu chính dùng cho HS là giáo trình, ngoài ra còn có các tài liệu khác trợ giúp cho việc học như: sách bài tập, tập lưu trữ tư liệu, sách luyện tập, sách tóm tắt tài liệu tham khảo, phiếu học tập.. Đồng thời tác giả chỉ rõ chức năng của các tài liệu dành cho HS là: Chức năng biểu đạt; chức năng điều khiển; chức năng khuyến khích động cơ; chức năng phân hóa, chức năng luyện tập và kiểm tra. Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn [15] đã chỉ ra rằng: “Để hướng dẫn tự học phải viết tài liệu, in ra và hướng dẫn người học tự học. Tài liệu hướng dẫn phải vạch được kế hoạch học tập, phương pháp học tập, nội dung tài liệu tự học có hướng dẫn phải chỉ ra mối quan hệ logic giữa các chương, vẽ ra một sơ đồ về mối liên hệ đó. Việc hướng dẫn nên thể hiện ra bằng những câu hỏi hoặc bài tập nhỏ”. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tài liệu là văn bản giúp cho việc tìm hiểu một vấn đề gì đó”. Dựa trên quan điểm của các tác giả trên, chúng tôi cho rằng tài liệu tự học nói chung và Phiếu học tập nói riêng được hiểu là văn bản được GV xây dựng thiết kế trong đó nội dung phải vạch được kế hoạch học tập, phương pháp học, nội dung phải có mối quan hệ logic, vẽ ra một sơ đồ về mối liên hệ đó. Việc hướng dẫn tìm hiểu kiến thức được thể hiện ra bằng những câu hỏi hoặc bài tập nhỏ.
1.3. Phiếu học tập là loại phương tiện đơn giản nhưng mang lại hiệu quả cao trong dạy học. Chính vì thế, nó luôn được quan tâm và khuyến khích sử dụng. Tuy nhiên, để có thể phát huy hết vai trò của loại phương tiện này thì cần có sự đầu tư nhiều ở GV, cả trong khâu xây dựng và sử dụng. Nội dung hoạt động được ghi trong phiếu có thể là: đọc sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, mô tả hiện tượng Vật lí, rút ra kết luận, phát biểu thí nghiệm (định luật), chứng minh, giải thích Nguồn thông tin để học sinh hoàn thành phiếu học tập có thể từ tài liệu giáo khoa, từ hình vẽ, từ các thí nghiệm, từ mô hình, mẫu vật, sơ đồ hoặc từ những tư liệu được giáo viên giao cho mỗi HS sưu tầm trước khi học. Phiếu học tập giúp HS biết cách diễn đạt ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ của chính mình khi nghiên cứu một nội dung thành một hệ thống kiến thức hoàn chỉnh. Khi sử dụng phiếu học tập sẽ rèn luyện cho HS các kĩ năng, thao tác hoạt động, phát huy năng lực độc lập nâng cao tinh thần trách nhiệm của HS trong học tập, rèn cho HS phương pháp tư duy khái quát có khả năng chuyển tải thông tin ở mức độ cao hơn. Quan trọng hơn cả là phiếu học tập giúp HS vừa chiếm lĩnh kiến thức, vừa nắm vững phương pháp tái tạo kiến thức, thói quen tự học, phát triển năng lực tự học và sáng tạo, giúp HS có thể tự học suốt đời - đây là một trong những yêu cầu căn bản của lý luận dạy học. 
1.4. Đối với học sinh các lớp chuyên khối khoa học xã hội thì việc học các môn tự nhiên nói chung và Vật lý nói riêng là một khó khăn không chỉ ngoài giờ lên lớp mà ngay cả trong giờ lên lớp. Phiếu học tập là một phương tiện đơn giản, có hiệu quả cao để duy trì sự hưng phấn tích cực của HS. Từ trạng thái mệt mỏi sau thời gian nghe giảng sẽ được khởi động và hưng phấn trở lại qua hoạt động của bản thân hoặc trong hoạt động nhóm. Mọi HS được tham gia hoạt động tích cực, không còn hiện tượng thụ động nghe giảng. Khi dùng phiếu học tập, GV có thể kiểm soát, đánh giá được trình độ của HS và từ đó có những điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với đối tượng để tăng hiệu quả dạy học. Như vậy, bằng việc hoàn thành phiếu học tập, HS tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, được tham gia hoạt động tích cực, hứng thú trong giờ học, kích thích tư duy của HS, chuyển hoạt động của GV từ trình bày, giảng giải, thuyết minh sang hoạt động hướng dẫn, chỉ đạo.
Từ các lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài: “Thiết kế phiếu học tập hỗ trợ học sinh các lớp chuyên khối khoa học xã hội tự học Vật lý ” 
2. Mục đích nghiên cứu 
Trên cơ sở hệ thống hoá một số vấn đề cơ bản liên quan đến phiếu học tập và năng lực tự học môn vật lý, nghiên cứu thiết kế phiếu học tập bám sát nội dung chương trình vật lý theo hướng hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh, góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản, thực tiễn liên quan đến đề tài 
- Nghiên cứu thiết kế phiếu học tập theo hướng hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh 
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm hiệu quả và tính khả thi của đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu nội dung dạy học và năng lực tự học môn vật lý của học sinh các lớp chuyên khối khoa học xã hội.
- Nghiên cứu và thiết kế phiếu học tập phần Dao động cơ, Vật lý lớp 12 
5. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế được bộ phiếu học tập theo hướng hình thành và phát triển năng lực tự học vật lý cho học sinh các lớp chuyên khối khoa học xã hội sẽ góp phần hình thành, phát triển năng lực tự học môn vật lý cho HS.
6. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Nghiên cứu lý luận, Nghiên cứu thực tiễn, Nghiên cứu thực nghiệm và Thống kê toán học. 
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 03 chương.
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Năng lực tự học Vật lí
1.1.1. Năng lực
Khái niệm năng lực (competency) có nguồn gốc tiếng la tinh “competentia”, có nghĩa là “gặp gỡ”. Khái niệm này cho đến ngày nay vẫn có nhiều cách tiếp cận và cách diễn đạt khác nhau, sau đây là một số quan điểm của một số tác giả về NL:
Theo Từ điển Tiếng Việt [11], thì NL là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao. Cùng với quan điểm này tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: Năng lực là những đặc điểm tâm lí cá biệt, tạo thành điều kiện tâm lí cá biệt, tạo thành điều kiện quy định tốc độ, chiều sâu, cường độ của việc tác động vào đối tượng lao động [5]. Theo Nguyễn Văn Lê: Năng lực (hay cũng có khi người ta gọi là khả năng, ví dụ: Khả năng văn nghệ, thể thao, khả năng tính nhẩm ) là một sự kết hợp linh hoạt và độc đáo nhiều đặc điểm tâm lí của một người, tạo thành những điều kiện chủ quan thuận lợi giúp cho người đó tiếp thu dễ dàng, tập dượt nhanh chóng và hoạt động đạt hiệu quả cao trong một lĩnh vực nào đó [8, tr7]. Năng lực hiểu theo nghĩa đặc biệt là toàn bộ những đặc tính tâm lí của con người thích hợp với một hình thức hoạt động nghề nghiệp nhất định. Sự hình thành NL đòi hỏi cá thể phải nắm được các hình thức hoạt động mà loài người đã tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử - xã hội. Năng lực của con người không những do hoạt động bộ não quyết định, mà trước hết là do trình độ phát triển lịch sử mà loài người đã đạt được. Theo ý nghĩa đó thì NL của con người gắn liền và không thể tách rời với tổ chức lao động xã hội và với hệ thống giáo dục ứng với tổ chức đó. Năng lực là khả năng làm việc tốt, nhờ có phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn.[4]
Nhìn nhận vấn đề năng lực dưới góc độ gắn với các kĩ năng, xét từ phương diện tìm cách phát triển những năng lực thì X. Roegiers cho rằng: “Năng lực là sự tích hợp các KN tác động một cách tự nhiên lên các nội dung trong loại tình huống cho trước để giải quyết những vấn đề do tình huống đặt ra” [19, tr90].Cùng với quan điểm này, tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng “Năng lực là sự tích hợp tổng thể cách học và KN tác động đến nội dung trong hàng loạt tình huống – vấn đề khác nhau”. Năng lực = Cách học Kĩ năng Nội dung Tình huống – Vấn đề; Năng lực = Các mục tiêu riêng Các tình huống – Vấn đề [16, tr96,97]. 
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng lực được sử dụng như sau: Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy học: mục tiêu dạy học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành; Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết với nhau nhằm hình thành các năng lực; Năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn; Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức độ quan trọng và cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hành động dạy học về mặt phương pháp; Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các tình huống; Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành nền tảng chung cho công việc giáo dục và dạy học. [13]
Theo chúng tôi, người có NL về một hoạt động thuộc lĩnh vực nào đó thường bắt tay vào thực hiện một hoạt động trong lĩnh vực đó dễ dàng hơn, sự tiến bộ trong hoạt động đó rất nhanh về cường độ và chất lượng thể hiện ở các KN tiến hành hoạt động. Năng lực luôn được xem xét trong mối quan hệ với hoạt động hoặc trong các mối quan hệ nhất định nào đó. Cấu trúc của NL gồm ba bộ phận cơ bản: Tri thức về lĩnh vực hoạt động hay quan hệ nào đó; KN tiến hành hoạt động hay xúc tiến, ứng xử với quan hệ nào đó; Những điều kiện tâm lí để tổ chức và vận dụng tri thức, KN trong một cơ cấu thống nhất và theo một định hướng rõ ràng (ví dụ: tính tích cực). Nếu tách riêng từng bộ phận, mỗi bộ phận là một dạng chuyên biệt của NL: NL biết (NL ở dạng tri thức), NL làm (NL ở dạng KN), NL biểu cảm (NL ở dạng xúc cảm, biểu cảm). Khi kết hợp cả ba bộ phận lại, vẫn là NL, nhưng có tính hoàn thiện và khái quát hơn.[17]
Tổng hợp những quan niệm trên có thể nói rằng: Năng lực là khả năng thực hiện các hoạt động dựa trên cơ sở tri thức, kĩ năng, thái độ và kinh nghiệm có trách nhiệm và hiệu quả.
1.1.2. Năng lực tự học
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau, nhưng các nhà khoa học [2], [7], [10], [12], [15], [18] đều thống nhất ở một số điểm: NLTH là một NL thể hiện ở tính tự lực, sự tự làm lấy, tự giải quyết lấy vấn đề của một chủ thể hoạt động; NLTH gắn với khả năng tự hoàn thành hoạt động học của một cá nhân; NLTH chỉ nảy sinh và quan sát được trong hoạt động TH, tự giải quyết những yêu cầu mới mẻ và do đó nó gắn liền với tính sáng tạo ở mỗi cá nhân tuy có khác nhau về mức độ; NLTH tồn tại và phát triển thông qua hoạt động TH; NLTH có thể rèn luyện để phát triển được và mỗi cá nhân khác nhau có NLTH khác nhau. Năng lực tự học được thể hiện qua việc chủ thể tự xác định đúng đắn động cơ học tập cho mình, có khả năng tự quản lí việc học của mình, có thái độ tích cực trong các hoạt động để có thể tự làm việc, điều chỉnh hoạt động học tập và đánh giá KQHT của chính mình để có thể độc lập làm việc và làm việc hợp tác với người khác. [17]
Từ việc làm rõ các khái niệm về NL có thể hiểu: Năng lực tự học là khả năng thực hiện các hoạt động học tập dựa trên cơ sở tri thức, kĩ năng tự học, thái độ và kinh nghiệm có trách nhiệm và hiệu quả.
1.1.3. Năng lực tự học Vật lí 
Năng lực tự học Vật lí có vai trò rất quan trọng đối với chất lượng học tập môn Vật lí. NLTH Vật lí được hình thành, rèn luyện và phát triển tạo thành NL cơ bản để HS có thể TH Vật lí và tiến tới TH suốt đời. 
Người có KN thực hiện các phép đo một đại lượng Vật lí nào đó thì có thể thực hiện nhanh chóng, chính xác, khéo léo lắp rắp các thiết bị. Còn với người có NL thực nghiệm thì ngoài việc thực hiện các phép đo còn đề xuất được giả thuyết, nêu được phương án TH kiểm tra, xử lý các số liệu đo lường để rút ra kết quả, giải thích, đánh giá kết quả đo được, và rút ra kết luận khái quát.
Từ việc làm rõ các khái niệm KN, NL, cấu trúc của NL, NLTH, trên cơ sở các nghiên cứu của các nhà khoa học có thể thấy rằng: Năng lực tự học Vật lí là khả năng tự thực hiện các hoạt động học tập Vật lí trên cơ sở tri thức, kĩ năng tự học Vật lí, thái độ và kinh nghiệm có trách nhiệm và hiệu quả.
1.2. Mối quan hệ giữa kĩ năng và năng lực
Theo Thái Duy Tuyên [18, tr543]: Năng lực là những đặc điểm tâm lí của nhân cách, là điều kiện chủ quan để thực hiện có kết quả một dạng hoạt động nhất định. Năng lực có quan hệ với kiến thức, KN, kỹ xảo. NL thể hiện ở tốc độ, chiều sâu, tính bền vững và phạm vi ảnh hưởng của kết quả hoạt động, ở tính sáng tạo, tính độc đáo của phương pháp hoạt động.
Tác giả Nguyễn Đức Thâm [14] thì cho rằng: Năng lực gắn liền với KN, kỹ xảo trong lĩnh vực hoạt động tương ứng. Song KN, kỹ xảo liên quan đến việc thực hiện một loạt hành động hẹp, chuyên biệt đến mức thành thạo, tự động hoá, máy móc. Còn NL chứa đựng yếu tố mới mẻ, linh hoạt trong hành động, có thể giải quyết nhiệm vụ thành công trong nhiều tình huống khác nhau, trong một lĩnh vực hoạt động rộng hơn.
Giữa KN và NL có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. KN là khả năng thực hiện công việc đạt đến một hiệu quả nhất định trong khi NL lại đảm bảo cho việc thực hiện công việc đó đạt chất lượng cao. KN là thành phần quan trọng của NL, thông qua rèn luyện KN sẽ làm cho con người hình thành và phát triển NL. KN là một mặt biểu hiện NL của con người, nếu một người không có tri thức, KN về một hoạt động nào đó thì cũng đồng nghĩa với việc họ có không có NL về hoạt động đó. Khi có NL trong lĩnh vực nào thì sẽ đồng nghĩa với việc có tri thức và KN liên quan đến NL đó. 
Năng lực được thể hiện thông qua việc thực hiện nhiệm vụ, nên người học cần chuyển hoá những kiến thức, kỹ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới. Kiến thức, KN là những cơ sở cần thiết để hình thành năng lực. Không thể có năng lực nếu không có kiến thức và thực hành, luyện tập. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, KN trong một lĩnh vực nào đó thì chưa hẳn đã coi là có NL, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả nguồn kiến thức, KN cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi. Để hình thành và phát triển NL con người cần phải biết vận dụng sáng tạo tri thức, KN một cách linh hoạt trong hoạt động thực tiễn. Năng lực phụ thuộc nhiều vào tố chất với tư cách là tiền đề quan trọng, nhưng tố chất đó chỉ được phát huy cao nhất khi con người được trang bị những tri thức và KN về HĐ đó, nếu không thì những tiềm năng chứa đựng trong mỗi con người khó có thể trở thành hiện thực hoặc phát triển ở mức độ tốt nhất.
1.3. Những biểu hiện của năng lực tự học Vật lí của học sinh các lớp chuyên khối khoa học xã hội ở trường THPT chuyên Lam sơn 
Từ việc làm rõ khái niệm của NLTH và đặc điểm HS ở các lớp chuyên khối khoa học xã hội ở trường THPT chuyên Lam Sơn có thể thấy rằng NLTH Vật lí biểu hiện ở 3 mặt là nhận thức, thái độ và KN TH Vật lí của HS, cụ thể:
1.3.1. Năng lực tự học Vật lí biểu hiện qua nhận thức về việc tự học Vật lí của học sinh
Việc nhận thức về hoạt động tự học của HS ở các lớp chuyên khối khoa học xã hội ở trường THPT chuyên được thể hiện thông qua: Quan niệm về tự học; Ý nghĩa và vai trò của tự học; Nội dung và cách thức học và Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học. Nhận thức về hoạt động tự học của HS có tính chủ thể và thể hiện ở 3 mức:
- Nhận thức kém: Đó là việc HS chỉ xác định được một lượng thông tin ít ỏi, chung chung về các mục tiêu dạy học của nhà trường; nội dung và hình thức của hoạt động học tập tại trường.
- Nhận thức trung bình: HS xác định được thông tin về mục tiêu dạy học của nhà trường; nội dung và hình thức của hoạt động học tập. Tuy nhiên các nội dung này được HS nhận thức chưa đầy đủ và chưa cụ thể hoá trong hoạt động tự học
- Nhận thức đầy đủ: HS xác định được đầy đủ, chính xác về mục tiêu dạy học của nhà trường, nội dung và hình thức học tập cũng như tầm quan trọng và ý nghĩa của việc tự học.
1.3.2. Năng lực tự học Vật lí biểu hiện qua mức độ thực hiện các kĩ năng tự học Vật lí của học sinh
Các KN tự học được trình bày ở trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau, có ý nghĩa quyết định đến kết quả tự học Vật lí. Bởi vậy, trong quá trình tự học, HS phải biết vận dụng kết hợp một cách hài hoà các KN để tự điều khiển, tự điều chỉnh hoạt động nhằm giải quyết nhiệm vụ học tập đạt kết quả cao nhất. KN tự học của HS được thể hiện ở nhiều mức độ: Mức độ thấp (Quan sát một KN và cố gắng làm theo, các KN thực hiện thông qua việc bắt chước, có sự thử và sai); Mức độ trung bình (Thực hiện những hành vi có ý thức cần thiết để thực hiện KN); Mức độ thành thạo (Các KN được thực hiện tự tin và thành thạo, linh hoạt đáp ứng được các yêu cầu đặc biệt và dễ dàng thực hiện các nội dung và hình thức tự học). 
1.3.3. Năng lực tự học Vật lí biểu hiện qua thái độ của học sinh đối với việc tự học môn Vật lí 
Thái độ học tập, tự học là yếu tố bên trong quy định hướng tự giác, tích cực học tập hay ngược lại, được biểu hiện ra bên ngoài bằng những cảm xúc, những hành vi. Thái độ tự học HS ở các lớp chuyên khối khoa học xã hội được thể hiện ở 2 mặt: Mặt định tính (Nhu cầu tự học, động cơ tự học, hứng thú tự học, say mê tự học, ý chí khắc phục khó khăn và tính tự giác trong tự học); Mặt biểu hiện ra bên ngoài và có thể quan sát được như (Tích cực đi thư viện, trao đổi sôi nổi về nhiệm vụ và kết quả học tập, hào hứng và phấn khởi trong giờ tự học trên giảng đường và khu nội trú, luôn đưa ra các câu hỏi, thắc mắc trong học tập, nêu lên được nhiều vấn đề cần giải quyết cho thầy, bạn bè và cả bản thân). 
Đối với HS các lớp chuyên khối khoa học xã hội có các mức độ về thái độ học tập và tự học như:
- Thụ động: HS tham gia vào các hoạt động học tập, tự học; thực hiện quy chế, nội quy, quy định đề ra với việc tự học một cách thụ động, không thích thú; chưa thiết lập được mối quan hệ tốt với các HS khác.
- Chủ động: HS chủ động tham gia vào các hoạt động học tập, tự học; thực hiện đầy đủ nội quy, quy định đề ra với việc tự học; đã thiết lập được các mối quan hệ bình thường với các HS khác. Tuy nhiên, chưa hăng say trong tự học.
- Say mê: HS thích học và tự học, thực hiện thực hiện nghiêm túc nội quy, quy định đề ra với việc tự học; yêu quý bạn bè, thầy cô giáo và thiết lập được các mối quan hệ tốt trong môi trường học tập; Chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ và sẵn sàng giúp đỡ bạn bè trong quá trình tự học.
1.4. Những vấn đề cơ bản về phiếu học tập
1.4.1. Quan niệm về phiếu học tập
Phiếu học tập còn gọi là phiếu hoạt động (activity sheet) hay phiếu làm việc (work sheet). Để tổ chức các hoạt động của HS, GV phải dựng các phiếu hoạt động học tập gọi tắt là phiếu học tập. Phiếu học tập là những tờ giấy rời, in sẵn những công tác độc lập hay làm theo nhóm nhỏ, được phát cho HS để HS hoàn thành trong một thời gian phù hợp. Phiếu học tập là một phương tiện để tổ chức hoạt động học tập độc lập của HS nhằm lĩnh hội, củng cố kiến thức, hình thành KN. [3].
Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn đã chỉ ra rằng: “Để hướng dẫn tự học phải viết tài liệu, in ra và hướng dẫn người học tự học. Tài liệu hướng dẫn phải vạch được kế hoạch học tập, phương pháp học tập, nội dung tài liệu tự học có hướng dẫn phải chỉ ra mối quan hệ logic giữa các chương, vẽ ra một sơ đồ về mối liên hệ đó. Việc hướng dẫn nên thể hiện ra bằng những câu hỏi hoặc bài tập nhỏ” [15, tr.79]. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tài liệu là văn bản giúp cho việc tìm hiểu một vấn đề gì đó” [11, tr.998]. Phiếu học tập được hiểu là văn bản được GV xây dựng, thiết kế trong đó nội dung phải vạch được kế hoạch học tập, phương pháp học, nội dung phải có mối quan hệ logic, vẽ ra một sơ đồ về mối liên hệ đó. Việc hướng dẫn tìm hiểu kiến thức được thể hiện ra bằng những câu hỏi hoặc bài tập nhỏ. Trong mỗi phiếu học tập ghi

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_thiet_ke_phieu_hoc_tap_ho_tro_hoc_sinh_cac_lop_chuyen_k.doc
  • doc02. Phu luc_SKKN 2018_LVManh_Vat ly_THPT Lam Son.doc
  • doc03. Bang viet tat_SKKN 2018_LVManh_Vat ly_THPT Lam Son.doc