SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chương I, Phần bảy Sinh học 12
Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Mặt khác sinh thái học là một phân môn khó và mang tính chất trừu tượng cao trong bộ môn sinh học đối với học sinh thành phố thiếu kiến thức thực tế vì nó nghiên cứu về các mối quan hệ giữa sinh vật với môi trường, các sinh vật với nhau và đặc biệt nó gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy nắm bắt tốt các kiến thức sinh thái học sẽ góp phần nâng cao đời sống loài người. Do đó việc tìm ra phương pháp nâng cao chất lượng dạy học là một vấn đề cực kì quan trọng.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. HS chỉ học phần nào biết phần đấy, cô lập nội dung của các phần khác nhau của cùng một bài, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.
Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng đó là ứng dụng SĐTD trong các nội dung bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như hiệu quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chương I, Phần bảy sinh học 12 ” nhằm nâng cao kết quả dạy-học.
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Mặt khác sinh thái học là một phân môn khó và mang tính chất trừu tượng cao trong bộ môn sinh học đối với học sinh thành phố thiếu kiến thức thực tế vì nó nghiên cứu về các mối quan hệ giữa sinh vật với môi trường, các sinh vật với nhau và đặc biệt nó gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy nắm bắt tốt các kiến thức sinh thái học sẽ góp phần nâng cao đời sống loài người. Do đó việc tìm ra phương pháp nâng cao chất lượng dạy học là một vấn đề cực kì quan trọng. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. HS chỉ học phần nào biết phần đấy, cô lập nội dung của các phần khác nhau của cùng một bài, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập. Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng đó là ứng dụng SĐTD trong các nội dung bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như hiệu quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chương I, Phần bảy sinh học 12 ” nhằm nâng cao kết quả dạy-học. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm lí của HS THPT,nguyên lí của trí nhớ là dễ khắc sâu hình ảnh, sơ đồ hơn là những con chữ, khả năng tư duy logic, khả năng ghi nhớ, mà đề ra các biện pháp tổ chức dạy và học nhằm phát triển sự ghi nhớ, vận dụng kiến thức cho HS. - Giúp cho các em hiểu một cách sâu sắc hơn về khả năng ghi nhớ của bản thân, đồng thời tìm ra phương pháp dạy và học thích hợp với chương trình học hiện nay, phù hợp với xu hướng học tập ngày càng đổi mới và nâng cao chất lượng của HS trong tương lai. 3. Đối tượng nghiên cứu - Đề tài này được viết trong quá trình tôi dạy học, rút ra một số kinh nghiệm từ công tác giảng dạy tại trường Trung học phổ thông (THPT). Đối tượng được áp dụng trong đề tài này rất rộng rãi, từ HS trung bình khá đến đối tượng HS giỏi các lớp, vì đây là phương pháp dạy - học. Tuỳ theo đối tượng của HS mà việc tổ chức, hướng dẫn, giao việc tìm ra kiến thức mới cho phù hợp, giúp các em hứng thú học tập hơn khi học thực nghiệm với đề tài này. 4. Các phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu xây dựng sơ đồ dựa trên cơ sở lý thuyết. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. - Phương pháp thống kê. Phần 2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận 2.1.1 Sơ đồ tư duy SĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. SĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Cơ chế hoạt động của SĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). SĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,... và giúp cán bộ quản lí giáo dục lập kế hoạch công tác. SĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. SĐTD giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. SĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của SĐTD nên người thiết kế SĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng SĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả. 2.1.2 Các bước lập SĐTD - Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang) + Chúng ta sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng. + Sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh, đặc biệt là các màu sắc bản thân yêu thích. + Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng sâu sắc về chủ đề. + Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần được làm nổi bật dễ nhớ + Chủ đề phải đủ to, rõ, nổi bật trọng tâm cần ghi nhớ. - Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm + Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật. + Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm. + Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng. - Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ + Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh. + Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng. Bạn hãy phát huy và sáng tạo thêm nhiều cách viết tắt riêng. + Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên mỗi khúc chỉ nên có tối đa một cụm từ khóa. + Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2bằng đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn. + Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn. + Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn. - Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Kiểm tra lại SĐTD đã hoàn thành và diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo lập. * Phân loại SĐTD - SĐTD theo đề cương từng bài. - SĐTD theo chương. * Ưu điểm của SĐTD - Dễ nắm được trọng tâm của vấn đề . - Đỡ tốn thời gian ghi chép hơn so với kiểu ghi chép cũ. - Cải thiện sức sáng tạo và trí nhớ, nắm bắt cơ hội khám phá tìm hiểu. - Hoàn thiện bộ não, tiếp thu linh hoạt và hiệu quả. - Giúp người học tự tin hơn vào khả năng của mình. - Trong giảng dạy và học tập: tạo hứng thú cho HS, GV tiết kiệm thời gian soạn giáo án, HS hiểu và nhớ lâu vấn đề hơn.... 2.2. Thực trạng của vấn đề 2.2.1. Thuận lợi - Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị . - Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã hội, phụ huynh, HS - Chương trình môn Sinh học THPT chương I - sinh thái học: Cá thể và quần thể sinh vật có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp giảng dạy dùng BĐTD phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho HS lĩnh hội kiến thức - Về cơ sở vật chất của trường mỗi phòng học đã có máy chiếu và bảng phụ. - GV được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng BĐTD trong giảng dạy. - Học sinh hiện nay đã sử dụng được máy tính tương đối thành thạo. - Phương pháp sử dụng SĐTD trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi HS, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích HS tư duy tích cực. 2.2.2. Khó khăn - Đây là phương pháp dạy học mới nên GV và HS không tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng 2. 3. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề SĐTD là một công cụ phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu quả, không phải là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy, tôi đã đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả nhưng trọng tâm là sử dụng SĐTD; với kinh nghiệm dưới đây để thực hiện cho các mục tiêu của từng phần có sự phối kết hợp của nhiều phương pháp trên cơ sở phân tích những tồn tại và đưa ra những lí luận, giải pháp, cách làm cùng thực hiện theo tôi là có hiệu quả nhất cho các phần của bài học, các kiểu bài khác nhau. 2.3.1. Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ * Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng - Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác định thật chính xác cần kiểm tra những gì. GV cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kĩ năng mà HS đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho HS phải chính xác, rõ để HS không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề. - GV phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra các bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong các sách học tốt, sách bài tập nhằm đối phó với GV 2.3.2. Sử dụng SĐTD trong việc dạy kiến thức mới - Trong quá trình học, đa số các em thụ động, ít phát biểu ý kiến, chỉ mải nghe, ghi những gì mà GV ghi lên bảng. Khi về nhà thì học thuộc bài một cách máy móc không cần hiểu rõ bài để hôm sau trả bài. - Phần lớn các em đợi gần đến thi hoặc kiểm tra mới học. - Các em chưa biết tổ chức cách học theo nhóm, theo tổ. * Sử dụng SĐTD và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của HS. Để nâng cao sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của HS tôi đã tác động đến nhiều mặt. Ở đây tôi tập trung tác động đến hai đối tượng quyết định của quá trình dạy - học để chuẩn bị và bổ sung phương pháp mới sử dụng SĐTD hiệu quả mà tôi đã sử dụng. Sử dụng SĐTD Từ đầu năm học, tôi đã giới thiệu đến HS các kiểu ghi chép theo kiểu đề mục, kiểu trích dẫn, kiểu luận đề, kiểu tự do. Thực tế, các kiểu ghi chép này các em cũng đã thực hiện rồi nhưng ít được biết đến tên và tác dụng cũng như hiệu quả của từng kiểu ghi. Nhưng điều đáng quan tâm là các kiểu ghi chép trên nếu được kết hợp với việc hệ thống kiến thức bài học theo kiểu SĐTD sẽ giúp HS nhớ lâu hơn, gây hứng thú và niềm đam mê học tập hơn cho HS, giúp cho các kiến thức ấy "đi thẳng vào đầu" HS một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn. Để cải thiện việc ghi chép của mình, tôi đã yêu cầu HS cần lưu ýù: + Làm bài tập về nhà trước khi đến lớp, xem trước bài học mới. + Đi học đầy đủ, nếu bạn bỏ một buổi học thì bạn phải mượn vở của bạn cùng lớp để ghi lại. + Ngoài các loại bút thông thường, HS cần trang bị thêm các loại bút dạ quang, bút màu để làm nổi những thông tin quan trọng. + Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn. + Chú ý lắng nghe những lời giảng của GV. Không cần ghi lại mọi lời giảng của GV mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn động não chứ đừng chỉ ghi chép như một cái máy. + Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung sau, bằng cách hỏi lại GV hay các bạn khác. + Dành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép. + Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo khoa sẽ giúp bạn nhớ được các thông tin đó. 2.3.3. Sử dụng SĐTD trong việc củng cố kiến thức Củng cố bài giảng là một khâu quan trọng của bài giảng, là một yếu tố dẫn đến sự thành công của bài giảng. Củng cố bài giảng giúp HS nhớ lại và khắc sâu kiến thức hơn. Ngoài việc xác định kiến thức trọng tâm, HS còn có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình. Từ đó các em có thể điều chỉnh lại phương pháp học sao cho phù hợp. Sử dụng SĐTD gần như là một biện pháp có thể kết hợp các phương pháp trên với nhau một cách linh hoạt, hiệu quả (Đó là trò chơi, là sơ đồ tổng kết, có những câu hỏi củng cố). Tôi nhận thấy rằng SĐTD là công cụ tư duy mang tính tự nhiên, nếu vận dụng vào dạy học sẽ gây cảm hứng và niềm say mê học tập cho HS. Đặc biệt, SĐTD rất phù hợp cho việc đọc, ôn tập, ghi chú... Có thể nói, đây là công cụ vô giá không những giúp cho HS mà cả GV trong việc thu thập, phân loại thông tin. Từ đó, tôi đã mạnh dạn vạch ra kế hoạch để hướng dẫn HS học tập theo SĐTD này. Khi mới áp dụng SĐTD vào việc củng cố bài học ở lớp nói riêng và áp dụng cho các kiểu bài nói chung, tôi thông qua trò chơi cho HS là sắp xếp các thẻ ôn bài, tóm tắt đề mục chính của bài học để tập dần cho HS nhớ các từ khóa (nội dung chính cần nắm) của bài học. Mặc dù khi sắp xếp, các em chưa sắp xếp theo hệ thống kiến thức yêu cầu, cần có sự góp ý của bạn, nhưng tôi nhận thấy các em rất hứng thú khi được học, tự tin khi thuyết trình trước mọi người về SĐTD của nhóm mình hoặc của bản thân hoặc của nhóm khác, bạn khác. Sau đó, tôi khuyến khích, gợi mở, hướng dẫn các em đúng sơ đồ chuẩn. Tuy nhiên, sau khi HS đã nắm được cách thức, nguyên tắc xây dựng SĐTD thì không phải tiết nào cũng củng cố qua các thẻ ôn bài vì như vậy sẽ gây nhàm chán, mất thời gian. Vì vậy một biện pháp khác tôi đưa ra là sau khi HS đã làm bài tập, trả lời các câu hỏi phần củng cố thì dùng máy chiếu cho hiển thị từ khóa trung tâm sau đó phát vấn HS về những nội dung đã học trong bài, dùng hiệu ứng của phần mềm PowerPoint lần lượt đưa ra theo mục đích giảng dạy. Qua nhiều bài củng cố như cách thực hiện ở trên, tôi nhận thấy các em nhớ bài nhanh hơn, từng bước xây dựng được kĩ năng diễn giải. Song song với việc củng cố bài học, khi HS đã hoàn thành sơ đồ tóm tắt, tôi thường dành vài phút đề phân tích nhằm khắc sâu kiến thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng như hướng dẫn các em kết nối các từ khóa đó. Bởi mục đích cuối cùng của tôi là giúp các em có thể liên kết các bài có kiến thức liên quan được hệ thống thành một SĐTD hoàn hảo. SĐTD đầy đủ cùng với các hình ảnh, GV nên để cho HS trình bày lại đầy đủ các nội dung và để thời gian cho các em quan sát, ghi nhớ. Cuối cùng GV là người chốt lại, khắc sâu kiến thức cho HS. 2.3.4. Sử dụng SĐTD trong việc dạy tiết ôn tập, tổng kết kiến thức Bài ôn tập tổng kết không phải chỉ là sự tái hiện, giảng lại kiến thức cho học sinh mà phải thể hiện được sự hệ thống hóa, khái quát hóa và vận dụng, nâng cao toàn diện kiến thức của phần cần ôn tập cho học sinh. Vì vậy cần có sự xác định mục tiêu rõ ràng cho bài ôn tập về kiến thức, kỹ năng cần hệ thống, khái quát và mức độ phát triển kiến thức cho phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh. Khi chuẩn bị bài ôn tập cần sắp xếp các kiến thức cần khái quát, hệ thống cho một chương hay một phần theo hệ thống có logic chặt chẽ, theo tiến trình phát triển của kiến thức, cùng các kỹ năng cần rèn luyện. Phương pháp dạy học được sử dụng chủ yếu trong giờ ôn tập là đàm thoại tìm tòi, sử dụng bài tập Sinh học. Việc khái quát hóa kiến thức, phát triển tư tưởng, năng lực nhận thức của học sinh đựơc điều khiển bằng các câu hỏi dẫn dắt giúp học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức và khái quát chúng ở dạng tổng quát nhất. Vì vậy giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi cho từng phần kiến thức, mối liên hệ giữa các kiến thức, vận dụng kiến thức, đào sâu phát triển kiến thức. Các câu hỏi nêu ra phải rõ ràng, có tác dụng nêu vấn đề để học sinh trình bày suy luận, thể hiện được khả năng tư duy khái quát của mình. * Sử dụng SĐTD SĐTD là một công cụ khá mạnh trong những tiết bài tập, ôn tập. Thông thường tôi tiến trình theo sơ đồ: 1. Sơ đồ hóa kiến thức à 2. Nội dung cần ôn tập à 3. Ôn tập tổng kết. 2.3.5 Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chương I: "Cá thể và quần thể sinh vật"- Sinh thái học- sinh học 12. theo mẫu Chương I: Cá thể và quần thể sinh vật 2.3.5.1 Bài 35: Môi trường và các nhân tố sinh thái * Phương pháp: sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với kĩ thuật khăn phủ bàn: Giáo viên cho câu hỏi, mẫu sơ đồ để HS nghiên cứu cá nhân ở nhà, giờ học trên lớp tiến hành thảo luận vòng 1, vòng 2 theo nhóm và giữa các nhóm theo từng nội dung tương ứng với từng mục trong sách giáo khoa. - Môi trường là gì? phân biệt, lấy ví dụ các loại môi trường? - Trình bày các nhân tố sinh thái? - Thế nào là giới hạn sinh thái và ổ sinh thái, lấy ví dụ? - Nêu các hình thức thích nghi của sinh vật với môi trường sống, lấy ví dụ? Kết quả thảo luận đạt được: I. Môi trường sống và các nhân tố sinh thái II. Giới hạn sinh thái và ổ sinh thái III. Sự thích nghi của sinh vật với môi trường sống 2.3.5.2 Bài 36: QUẦN THỂ SINH VẬT VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CÁ THỂ TRONG QUẦN THỂ I. Kiểm tra bài cũ: Trước khi học bài “Quần thể sinh vật và mối quan hệ giữa các cá thể trong quần thể” Sinh học 12. Hoàn thành SĐTD sau II. Dạy học bài mới 1.Phương pháp : sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với kĩ thuật khăn phủ bàn 2. Câu hỏi chung cho 4 nhóm học sinh: Hãy nghiên cứu sách giáo khoa bài 36 hoàn thành sơ đồ trên? 3. Kết quả giáo viên hướng dẫn và điều hành từng cá nhân ở mỗi nhóm làm việc sau đó thảo luận nhóm vòng 1, vòng 2 để hoàn thành sơ đồ trên, kết quả đạt được: 2.3.5.3 Bài 37+38: CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA QUẦN THỂ SINH VẬT 1. Phương pháp : sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với kĩ thuật mảnh ghép. 2.Chia lớp thành 6 nhóm học sinh, mỗi nhóm một nhiệm vụ: - Nhóm 1: Trình bày định nghĩa tỉ lệ giới tính, vai trò và ứng dụng? - Nhóm 2: Trình bày các loại nhóm tuổi, vai trò và ứng dụng? - Nhóm 3: Nêu các kiểu phân bố cá thể trong quần thể, ý nghĩa sinh thái? - Nhóm 4: Thế nào là mật độ? mật độ cá thể có thể ảnh hưởng đến các đặc điểm sinh thái khác của quần thể như thế nào? - Nhóm 5: Trình bày khái niệm kích thước quần thể, phân biệt kích thước tối đa và kích thước tối thiểu, kích thước phụ thuộc vào những nhân tố nào? - Nhóm 6: Phân biệt sự tăng trưởng của quần thể theo hình chữ J và chữ S? Sau khi thảo luận vòng 1, vòng 2 dưới sự điều khiển của giáo viên kết quả đạt được: 2.3.5.4 Bài 39: BIẾN ĐỘNG SỐ LƯỢNG CÁ THỂ CỦA QUẦN THỂ 1.Phương pháp : sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với kĩ thuật khăn phủ bàn 2. Câu hỏi chung cho 4 nhóm học sinh: Hãy nghiên cứu sách giáo khoa bài 39 hoàn thành sơ đồ trên? 3. Kết quả giáo viên hướng dẫn và điều hành từng cá nhân ở mỗi nhóm làm việc sau đó thảo luận nhóm vòng 1, vòng 2 để hoàn thành sơ đồ trên, kết quả đạt được: 4.Hiệu quả của SKKN HS tiếp cận kiến thức một cách nhẹ nhàng hơn, nắm vững kiến thức sâu hơn và có khả năng nhớ lâu hơn nhờ tác dụng của sơ đồ tạo hình sinh động và khoa học. Theo chủ quan tôi phân ra 5 cấp độ cho HS khi học theo SĐTD Cấp độ 1: HS quan sát SĐTD theo mẫu đã vẽ sẵn Cấp độ 2: HS tái hiện lại SĐTD sau khi đã quan sát, đã học về kiến thức cần trình bày trong SĐTD Cấp độ 3: HS tự vẽ được SĐTD sau khi đã học xong nội dung kiến thức Cấp độ 4: HS tự đọc kiến thức mới và tự tổng kết được bằng SĐTD Cấp độ 5: HS trình bày được các nội dung kiến thức đã học, đã tìm hiểu mà không cần bất kì tài liệu nào. Kết quả cụ thể Kết quả bài khảo sát của hai lớp 12B11 (Sử dụng SĐTD) và 12B12 (Không sử dụng SĐTD) (hai lớp có số HS và lực học tương đương) cụ thể qua bảng so sánh sau: ¬ Sĩ số Giỏi Khá T. Bình Yếu Kém 12B11 50 8 28 10 4 0 12B12 50 3 20 18 7 2 Nhận xét Áp dụng SĐTD HS từ TB trở lên tăng, đặc biệt điểm giỏi HS yếu, kém giảm Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Với việc sử dụng sơ đồ tư duy là chủ yếu kết hợp với một số phương pháp dạy học khác tôi đã
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_chuong_i_phan_bay_si.doc
- bia.doc