SKKN Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học Bài 12. Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10
Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng những quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công nghệ 10 là những kiến thức cơ bản về nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh nghiệp. Do đó nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng cho học sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây nhàm chán cho học sinh.
Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm. Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho HS để các em tự lĩnh hội tri thức.
Ở nước ta, việc đổi mới PPDH đã và đang diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép, người giáo viên ít chú trọng đến vấn đề phát huy tính tự học của HS, ít khi đặt ra vấn đề mang tính chất tìm tòi cho HS phát triển năng lực tư duy, tự học và tự nghiên cứu. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn trong tình trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH Công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của HS là cấp bách và cần thiết.
1. Mở đầu - Lý do chọn đề tài Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng những quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công nghệ 10 là những kiến thức cơ bản về nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh nghiệp. Do đó nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng cho học sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây nhàm chán cho học sinh. Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm. Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho HS để các em tự lĩnh hội tri thức. Ở nước ta, việc đổi mới PPDH đã và đang diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép, người giáo viên ít chú trọng đến vấn đề phát huy tính tự học của HS, ít khi đặt ra vấn đề mang tính chất tìm tòi cho HS phát triển năng lực tư duy, tự học và tự nghiên cứu. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn trong tình trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH Công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của HS là cấp bách và cần thiết. Xác định được nhiệm vụ trên, đội ngũ giáo viên ở các cấp học đã không ngừng đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, trong đó phương pháp đóng vai được nhiều giáo viên lựu chọn. Xuất phát từ những lý do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học Bài 12. Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10” góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung và PPDH theo hướng phát huy tính tích cực học tập của HS ở phổ thông - Mục đích nghiên cứu Thiết kế, xây dựng và sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học phần nông, lâm, ngư nghiệp - Công nghệ 10, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học Công nghệ 10. - Đối tượng nghiên cứu Học sinh khối 10 bậc trung học phổ thông. - Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu về đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa việc học của học sinh. Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 10 (phần Nông, Lâm, Ngư nghiệp). Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp, biện pháp thiết kế và sử dụng phương pháp đóng vai trong nội dung bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10” theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. + Phương pháp chuyên gia Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài. + Phương pháp thực tập sư phạm Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT Lê Lai, tiến hành theo quy trình của đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu. + Phương pháp thống kê toán học Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Phương pháp dạy học tích cực PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào việc phát huy tính tích cực của người học. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. 2.1.1.2. Phương pháp đóng vai Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. 2.1.2. Ưu điểm của phương pháp đóng vai - HS được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. - Gây hứng thú và chú ý cho học sinh. - Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh. - Khích lệ sự thay đổi hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị xã hội. - Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. - Phát huy được những kinh nghiệm thực tế và tư duy sáng tạo của từng cá nhân cũng như sự phối hợp chặt chẽ của cá nhân với tập thể, nhóm. - Lớp học sinh động, người học tiếp thu kiến thức thông qua những hoạt động tích cực trong "vai diễn" của họ. 2.1.3. Hạn chế của phương pháp đóng vai - Mất nhiều thời gian. - Phải suy nghĩ "kịch bản", "diễn viên"... - Đối tượng học sinh có tỷ lệ khá giỏi phải nhiều. - Nếu số lượng học sinh nhiều thì hiệu quả sẽ không cao. 2.1.4. Cách thức tổ chức phương pháp đóng vai Cách thức tiến hành phương pháp đóng vai thường theo các bước sau: - Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm một cách tương đối đơn giản và quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai. - Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công sắm vai. - Thứ tự các nhóm đóng vai. - Các HS khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, đánh giá, bổ sung (nếu cần). - Cuối cùng GV kết luận chốt lại về cách ứng xử cần thiết trong tình huống, nêu sự cố gắng của HS và rút kinh nghiệm. Cách thức tiến hành có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau: Các nhóm đóng vai Các nhóm thảo luận, xây dựng kịch bản GV chia nhóm, giao nhiệm vụ Các nhóm khác theo dõi, nhận xét Giáo viên nhận xét, kết luận Sơ đồ 1. Các bước tiến hành phương pháp đóng vai 2.1.5. Một số lưu ý khi thực hiện phương pháp đóng vai - Chọn vấn đề đóng vai có mục tiêu dạy học rõ ràng. - Chọn người đóng vai có kiến thức hay kinh nghiệm tương tự vai diễn hay chọn tình huống cho các nhóm đóng vai phải sát thực tế và đáp ứng mục tiêu dạy học. - Giáo viên giới thiệu vai diễn rõ mục đích, thống nhất tình huống. - Tình huống nên để mở, giáo viên không cho trước “kịch bản”, lời thoại. - Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai. - Người đóng vai phải hiểu rõ nhiệm vụ của mình ttrong bài tập đóng vai để không lạc đề. - Nên có các biện pháp khích lệ những học sinh nhút nhát tham gia. - Nên hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai. - Rút ra được kết luận sư phạm: ý đồ đưa ra tình huống để đóng vai, mục đích của kịch bản, kết quả sư phạm thu được v.v... 2.2. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trường THPT hiện nay 2.2.1. Thực trạng dạy học công nghệ 10 ở trường THPT hiện nay 2.2.1.1. Về phía giáo viên Thực tế giảng dạy môn Công nghệ 10 ở trường THPT đã có giáo viên riêng nhưng phần lớn vẫn do giáo viên ở các bộ môn khác đảm nhận nên sự “đầu tư” giảng dạy chưa cao. Việc sử dụng các PPDH truyền thống càng làm cho HS có cách nhìn tiêu cực về môn học này, và nhiều HS ngày càng “ngán” môn Công nghệ. Để tránh hiện tượng nhàm chán cho HS việc mạnh dạn sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy học Công nghệ 10 là rất cần thiết, đặc biệt trong những năm gần đây với chương trình thay sách, đóng vai là phương pháp được áp dụng khá phổ biến. 2.2.1.2. Về phía học sinh Qua thực tế giảng dạy cho thấy, chất lượng giờ dạy môn Công nghệ 10 chiếm tỷ lệ trung bình rất cao. Hoạt động của các em chủ yếu là nghe giảng, ghi chép chứ chưa có ý thức phát biểu xây dựng bài. Một số em còn làm việc riêng trong giờ học, có khi lớp 48-52 học sinh nhưng trong suốt giờ học chỉ tập trung 4-5 em phát biểu xây dựng bài. Các em hầu như không có hứng thú vào việc học tập bộ môn Công nghệ 10. Từ thực tế trên dẫn đến kết quả học tập bộ môn chưa cao. Số học sinh giỏi ít, khá và trung bình nhiều, yếu vẫn còn. 2.2.2. Những nguyên nhân của thực trạng dạy và học Công nghệ 10 ở trường THPT hiện nay Một là giáo viên ngại áp dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học. Bởi để dạy học theo các phương pháp mới phát huy được tính tích cực của HS đòi hỏi phải đầu tư thời gian, trí tuệ vào việc soạn giáo án. Đồng thời giáo viên phải có năng lực tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Đây là khó khăn đối với giáo viên hiện nay vì một số trường chưa có giáo viên chuyên ngành kỹ thuật nông nghiệp. Hai là ở một số trường THPT chưa có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập của bộ môn như: chưa có phòng thực hành bộ môn, chưa có các đồ dùng dạy học cần thiết Ba là môn học này không được học sinh coi là môn học chính, vì không thi tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ buông lỏng, thả trôi trong ý thức học tập của học sinh. 2.3. Sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy học bài 12. “Đặc điểm, tính chất , kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường” – Công nghệ 10. 2.3.1. Các cách đóng vai khi dạy bài “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường” Đối với bài này có thể sử dụng phương pháp đóng vai theo một số cách sau đây: Cách 1: Học sinh đóng vai mình chính là các loại phân bón. Cách 2: Học sinh đóng vai là bà con nông dân sử dụng các loại phân bón. Cách 3: Học sinh đóng vai là cán bộ khuyến nông về xã để giới thiệu các loại phân bón. Cách 4: Học sinh đóng vai là người đi mua phân bón ở các cửa hàng. 2.3.2. Tổ chức dạy bài 12 - “Đặc điểm, tính chất , kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường” theo phương pháp đóng vai tại trường THPT Lê Lai Đối với bài này tôi sử dụng đóng vai theo các cách: Học sinh đóng vai người nông dân đi mua phân bón, người nông dân sử dụng phân bón và một cán bộ khuyến nông giới thiệu về một loại phân bón mới. Cách này được tổ chức theo trình tự như sau: Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm (14-15 người) + Nhóm 1: Người nông dân đi mua phân bón hóa học tại 1 cửa hàng phân bón. + Nhóm 2: Bác nông dân A đến vườn nhà bác nông dân B học hỏi bí quyết sản xuất để có thể cho năng suất cao mà chất lượng nông sản lại tốt (bí quyết chính là bác nông dân B sử dụng phân bón hữu cơ). + Nhóm 3: Một cán bộ khuyến nông về xã nọ để giới thiệu về loại phân bón mới đó là Phân vi sinh vật. GV sẽ phân công nhiệm vụ cho các nhóm sau khi học xong bài 11 để các nhóm có thời gian xây dựng kịch bản, phân công diễn viên, tập lời thoại và chuẩn bị các mẫu vật cần thiết như các loại phân bón. Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai. Bước 3: Thứ tự các nhóm lên đóng vai. Bước 4: Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu cần). Bước 5: Giáo viên nhận xét, đánh giá, kết luận. Lưu ý: phải cho HS chuẩn bị trước vì nếu chỉ với thời gian 45 phút ở lớp không thể kịp để các nhóm có thể xây dựng kịch bản, phân công diễn viên, học thuộc lời thoại và trình bày. Sau đây tôi xin giới thiệu “kịch bản” của 2 nhóm học sinh lớp 10A1 trường THPT Lê Lai lên đóng vai: + Nhóm 1: Tình huống như sau: “Một anh công nhân viên chức sinh ra trong gia đình làm nông, nhưng từ nhỏ đến lớn chỉ lo học hành nên chưa bao giờ phải tham gia vào việc đồng áng. Hôm nay là ngày nghỉ, bố anh lại đi vắng nên mẹ anh đã nhờ anh đi mua phân bón, trước khi đi mẹ anh chỉ nhớ dặn con là đi mua phân hóa học”. tình huống diễn ra như thế nào mời cô và các bạn cùng xem. Người mua(NM): Chào các bác, hôm nay là ngày nghỉ em tranh thủ giúp mẹ đi mua phân bón. Sao mà nhiều cửa hàng bán phân thế nhỉ, mình biết chọn cửa hàng nào đây, thôi mình cứ vào thử cửa hàng này xem sao. Người bán(NB): Chào chú em, chú em mua phân à? NM: Cái bà này vô duyên thật, vào cửa hàng bán phân mà không mua phân thì mua gì? NB: xin lỗi, thế chú em mua phân gì? NM: Thế bác có những loại phân gì? NB: chú thông cảm nhé, ở đây chị chỉ bán phân hóa học thôi. NM: Đúng thứ mình đang cần, nhưng mà chị ơi phân hóa học là phân như thế nào? NB: “ phân hóa học là loại phân bón được sản xuất theo quy trình công nghiệp, có sử dụng nguyên liệu tự nhiên hoặc tổng hợp”. NM: À. NB: Thế chú em mua phân đơn hay phân đa? NM: Phân đơn và phân đa là phân như thế nào? NB: à, phân đơn là phân có chứa 1 nguyên tố dinh dưỡng ví dụ như: đạm, lân, kali, chú em nhìn này, đây chính là phân đơn đấy (đưa mẫu phân bón). NM: Ồ, chúng có màu sắc đẹp thế nhỉ? NB chỉ vào phân bón và giới thiệu: dạng tinh thể màu trắng là phân đạm, màu xanh xám là phân lân và màu đỏ là phân kali. NM: Trông này, phân lân giống xi măng quá, còn phân kali thì giống muối ớt, thế còn phân đa thì sao? NB: phân đa là phân có chứa 2 nguyên tố dinh dưỡng trở lên ví dụ như NPK..., NM: là phân có nhiều màu sắc kia đúng không? (NM chỉ vào phân NPK) NB: đúng rồi NM: Ồ, thế loại phân hóa học này có những đặc điểm gì? NB: Loại phân này có những đặc điểm sau: thứ nhất, chứa ít nguyên tố dinh dưỡng nhưng tỷ lệ chất dinh dưỡng cao VD: phân đạm chứa 46% là Nitơ, phân lân chứa 60% là P2O5. Thứ hai, phần lớn dễ tan (trừ lân) nên cây dễ hấp thụ và cho hiệu quả nhanh. NM: Thế nó có nhược điểm gì không? NB: À, loại phân này có nhược điểm là bón nhiều và liên tục nhiều năm sẽ làm đất chua. NM: Tôi hiểu rồi, thế còn cách sử dụng có dễ không hả chị? NB: Rất dễ, đối với Đạm và kali do dễ tan nên dùng để bón thúc là chính (tức là bón lúc nào cây cần). Phân Lân khó tan nên chủ yếu dùng để bón lót (bón trước khi gieo hạt), còn NPK thì có thể bón lót hoặc bón thúc cũng được. NM: Có cách nào để hạn chế nhược điểm của loại phân này không? NB: Có chứ, đất dễ bị chua hóa nên cần kết hợp bón vôi cải tạo. NM: À. NB: Chú em còn thắc mắc gì nữa không nào? NM: dạ đủ rồi ạ. NB: Thế giở chú em mua loại nào, mua bao nhiêu để chị lấy. NM: Mua loại nào bây giờ nhỉ, mẹ mình có dặn đâu. Chị ơi, chị bán quen hay là chị tự lấy cho em đi. NB (ngạc nhiên): chú em dở hơi à, mua phân thì phải tùy thuộc vào loại cây trồng, loại đất và diện tích nữa chứ. NM (suy nghĩ): hay là thế này nhá chị, em sẽ về hỏi lại mẹ rồi trở lại mua, chào chị. NB: ơ này, từ từ đã, thế là không mua à? Trời ơi! Xỉu Ghi chú: Từ in nghiêng là nội dung chính được HS trình bày trên giấy A0. + Nhóm 2: Tình huống như sau: 1 chị nông dân nghe tin người bà con của mình ở xóm trên vụ mùa vừa qua thắng lợi lớn, năng suất cao mà chất lượng nông sản lại rất tốt. Chị quyết định lên thăm người bà con của mình. Bác hai đang ở ngoài vườn rau, vừa dọn vườn bác vừa hát nghêu ngao: trên đất vồng mình trồng khoai lang, trên đất vồng mình trồng ngô khoai. Thì nghe tiếng gọi: Cô ba: anh hai ơi anh hai, có ở nhà không anh hai. Bác hai: tui ở ngoài vườn, ai đó? Cô ba: không nhận ra em sao anh hai? Bác hai: ủa, sao hôm nay rồng lại đến nhà tôm chơi thế này. Cô ba: Lâu ngày đến thăm anh hai không được hay sao, mà không biết ai là rồng, ai là tôm đâu đó nha. Bác hai: Đùa với cô ba tí thôi, vào nhà đi cô ba. Cô ba: Thôi ở ngoài này nói chuyện cho mát. Bác hai: Dạo này vườn cô ba thế nào, thu hoạch khá không? Cô ba: Chán lắm, năng suất nhà em dạo này thấp quá, đất đai lại cứ xấu dần đi, em đang nẫu cả ruột đây này. Chà nhìn vườn nhà anh hai thấy đã ghê ta, rau thì xanh mướt, đất trồng thì tơi xốp, màu mỡ, chẳng bù cho đất nhà em (thở dài). Bác hai: Tại cô ba lạm dụng phân hóa học nhiều quá đó thôi, tôi đã nói rồi mà cô ba không nghe. Cô ba: Thì còn cách nào khác đâu, đất thiếu dinh dưỡng thì mình phải bón chứ sao. À mà này, anh hai làm thế nào mà đất anh ngon thế, chỉ em bí quyết với. Bác hai: Có bí quyết gì đâu cô ba, tui sử dụng phân hữu cơ đấy. Cô ba: Phân hữu cơ là gì vậy anh hai? Bác hai: Phân hữu cơ là loại phân bón có nguồn gốc từ chất hữu cơ. Cô ba: Là sao hả anh hai? Bác hai: Thật ra phân hữu cơ rất quen thuộc với cô mà cô không biết đấy thôi. Cô ba: Có nghĩa là nó biết em mà em không biết nó sao? Bác hai: Cô nhìn xem đây là gì? (bác hai đưa cô ba ra chỗ có mớ lá cây bác vừa dọn lại lúc nãy) Cô ba: Thân, lá cây đậu, cây mía, cây cỏ hôi, cây điền thanh. Bác hai: Chưa hết đâu còn đây nữa này (bác hai lại chỉ đến đống phân bò, phân dê) Cô ba: Những thứ này để làm gì vậy anh hai? Bác hai: Đây chính là phân hữu cơ đó cô ba. Cô ba: Vậy hả, thế mà từ trước tới giờ những thứ này em toàn đem bỏ đi không à, đúng là lãng phí quá. Mà anh hai này, loại phân này có những đặc điểm gì anh biết không? Bác hai: À có chứ, cô ba biết không loại phân này có đặc điểm thứ nhất là Chứa nhiều nguyên tố dinh dưỡng nhưng thành phần và tỷ lệ không ổn định, thứ hai là cần phải có thời gian phân hủy nên hiệu quả chậm (lâu dài). Nhưng đáng nói nhất là phân này bón nhiều không hại đất mà còn có khả năng cải tạo đất tốt. Chính vì vậy mà đất nhà tôi mới ngày càng tơi xốp và màu mỡ đó chứ. Cô ba: Thế sử dụng như thế nào, có hôi không anh hai, với lại em chỉ sợ trên cây còn mầm bệnh, trong phân động vật có các loại giun, sán gây bệnh thì sao? Bác hai: Phân này sử dụng rất đơn giản cô sử dụng để bón lót, vùi vào đất trước khi gieo hạt thế là xong, còn mầm bệnh và các loại ký sinh gây bệnh thì cô xử lý chúng bằng cách ủ cho hoai mục với một ít vôi sống trước khi bón vào đất. Cô ba: Thế thôi hả anh hai, dễ quá. Thế thôi em chào anh nhé, em phải về làm liền đây. Bác hai: Ơ, này vào nhà uống nước đã cô ba.. Chú ý: nhóm đã chuẩn bị một số mẫu phân hữu cơ như đã nêu trong tiểu phẩm. + Nhóm 3: tiểu phẩm của nhóm 3 là một cán bộ kiểm lâm về xã để giới thiệu về loại phân bón mới đó là Phân vi sinh vật, và nội dung tiểu phẩm là những câu hỏi và câu trả lời làm rõ khái niệm, đặc điểm và kỹ thuật sử dụng phân vi sinh giống như các tình huống trên. GIÁO ÁN Tiết PPCT 11. Bài 12: ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT, KỸ THUẬT SỬ DỤNG MỘT SỐ LOẠI PHÂN BÓN THÔNG THƯỜNG I. MỤC TIÊU Sau bài học này, học sinh phải: 1. Về kiến thức: - Kể tên được một số loại phân bón thường dùng trong nông, lâm nghiệp. Cho ví dụ từng loại. - Nêu được đặc điểm và tính chất của một số loại phân bón thường dùng trong nông, lâm nghiệp. - Mô tả được cách sử dụng các loại phân bón và giải thích được cơ sở khoa học của việc sử dụng. Nêu được ví dụ minh họa. - Phân biệt được cách sử dụng phân hữu cơ và phân vi sinh. 2. Về kỹ năng: - Rèn luyện kỹ năng hoạt động nhóm, trình bày trước lớp. 3. Về thái độ: - Có ý thức vận dụng được những hiểu biết về phân bón để tham gia và vận động mọi người sử dụng phân bón hợp lý, tăng năng suất cây trồng, tăng độ phì nhiêu cho đất, đồng thời bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người. II. CHUẨN BỊ BÀI DẠY Mẫu một số loại phân bón thường dùng (đạm, lân, kali, NPK). Tranh ảnh liên quan đến bài dạy. 3 tờ giấy A0 , 3 tờ nguồn, 3 bút xạ, 3 cốc (hoặc bình tam giác). III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Thảo luận nhóm – phương pháp đóng vai. Làm việc với sách giáo khoa. IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định tổ chức (2 phút) 2. Vào bài mới (4 phút) GV hỏi: Trong việc cải tạo các loại đất trồng đã học, muốn cung cấp chất dinh dưỡng cho đất người ta thường sử dụng biện pháp nào? (HS: Bón phân). GV giảng thêm: Tại Hội nghị phân bón thế giới (1937) từng nói: “Cơ sở sản xuất nông nghiệp là độ phì nhiêu. Cơ sở độ phì nhiêu là phân bón, nhờ phân bón mà đất xấu cũng trở thành đất tốt” ? Vậy phân bón gồm những loại nào? HS trả lời → GV sắp xếp ở bảng Phân đạm, lân, kali Phân hoá học Phân hỗn hợp NPK Phân vi lượng Phân xanh: bèo Phân bón Phân hữu cơ Phân chuồng Phân rác, phân bùn Phân vi sinh vật GV kết luận và vào bài mới: Như vậy, có rất nhiều loại phân bón khác nhau. Muốn sử dụng có hiệu quả thì chúng ta phải hiểu đặc điểm, tính chất và cách sử dụng của các loại phân bón đó. Để hiểu rõ các loại phân này chúng ta nghiên cứu bài hôm nay (ghi bảng). Thời gian Hoạt động của giáo viên – học sinh Nội dung 10 phút 8 phút 8 phút 8 phút GV chia lớp làm 3 nhóm, cử nhóm trưởng, thư ký và phát cho mỗi nhóm 1 bút dạ + 1 tờ giấy A0 Nhóm 1: Tìm hiểu khái niệm, phân loại, đặc điểm và cách sử dụng phân hoá học. Nhóm 2: Tìm hiểu khái niệm, phân loại, đặc điểm và cách sử dụng phân hữu cơ. Nhóm 3: Tìm hiểu khái niệm, phân loại, đặc điểm và cách sử dụng phân vi sinh vật. HS: làm vi
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_phuong_phap_dong_vai_trong_day_hoc_bai_12_dac_d.doc