SKKN Rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2
Bậc tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn Toán cũng như những môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát tiển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp của con người.
Môn Toán ở trường tiểu học là một môn độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của trẻ.
Môn Toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiêm cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người
Môn Toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận lô gíc, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới.
Để góp phần tạo ra những con người thông minh, sáng tạo, giàu ý chí và nghị lực, vững tin vào bàn tay, khối óc của mình, người thầy giáo phải coi trọng việc rèn luyện kĩ năng tư duy độc lập cho học sinh qua các môn học nói chung, qua môn toán nói riêng và đặc biệt là qua học giải toán có lời văn.
2. Xuất phát từ ý nghĩ của việc dạy giải toán có lời văn.
Giải toán là mạch kiến thức hết sức quan trọng, chính vì thế, nó được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức cơ bản khác của môn toán ở bậc tiểu học. Giải toán ở bậc tiểu học giúp học sinh vừa thực hiện nhiệm vụ củng cố kiến thức toán học đã lĩnh hội, đồng thời vận dụng kiến thức ấy vào giải các bài toán gắn với tình huống thực tiễn.
Qua giải toán tạo điều kiện giúp các em phát triển trí thông minh tư duy độc lập, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết), cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng cho các em, góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt sáng tạo.
Đối với học sinh lớp Hai, các em mới làm quen với giải toán có lời văn (các em đã được học ở lớp Một nhưng rất ít) nên người thầy phải hết sức chú trọng để trang bị cho các em một số kiến thức và kĩ năng cơ bản trong giải toán để các em có thể học tốt hơn môn toán.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã nghiên cứu tài liệu, học hỏi, tham khảo bạn bè đồng nghiệp và qua thực tế giảng dạy tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc “Rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2” và đã viết nên đề tài này.
PHẦN 1. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của môn Toán trong trường tiểu học. Bậc tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn Toán cũng như những môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát tiển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp của con người. Môn Toán ở trường tiểu học là một môn độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của trẻ. Môn Toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiêm cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người Môn Toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận lô gíc, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. Để góp phần tạo ra những con người thông minh, sáng tạo, giàu ý chí và nghị lực, vững tin vào bàn tay, khối óc của mình, người thầy giáo phải coi trọng việc rèn luyện kĩ năng tư duy độc lập cho học sinh qua các môn học nói chung, qua môn toán nói riêng và đặc biệt là qua học giải toán có lời văn. 2. Xuất phát từ ý nghĩ của việc dạy giải toán có lời văn. Giải toán là mạch kiến thức hết sức quan trọng, chính vì thế, nó được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức cơ bản khác của môn toán ở bậc tiểu học. Giải toán ở bậc tiểu học giúp học sinh vừa thực hiện nhiệm vụ củng cố kiến thức toán học đã lĩnh hội, đồng thời vận dụng kiến thức ấy vào giải các bài toán gắn với tình huống thực tiễn. Qua giải toán tạo điều kiện giúp các em phát triển trí thông minh tư duy độc lập, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết), cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng cho các em, góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt sáng tạo. Đối với học sinh lớp Hai, các em mới làm quen với giải toán có lời văn (các em đã được học ở lớp Một nhưng rất ít) nên người thầy phải hết sức chú trọng để trang bị cho các em một số kiến thức và kĩ năng cơ bản trong giải toán để các em có thể học tốt hơn môn toán. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã nghiên cứu tài liệu, học hỏi, tham khảo bạn bè đồng nghiệp và qua thực tế giảng dạy tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc “Rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2” và đã viết nên đề tài này. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. - Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp dùng để giảng dạy toán có lời văn. - Tìm hiểu những kĩ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. - Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành các kiến thức đã học; rèn luyện kỹ năng tính toán là bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn. - Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, khơi gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. - Rèn luyện cho học sinh những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như: tư duy, cẩn thận, nhanh nhẹn, cụ thể..... - Khảo sát và hướng dẫn cụ thể một số bài toán giải, một số dạng toán có lời văn ở lớp 2, để từ đó đúc rút kinh nghiệm cho bản thân, và đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. - Đối tượng: Học sinh lớp 2B, Trường Tiểu học....... - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2016 đến tháng 2/2017 VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. a. Phương pháp quan sát: Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn Toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 2, việc sử dụng đồ dùng trực quan nhiều hơn. Ví dụ: Khi dạy giải toán ở lớp 2, giáo viên có thể cho học sinh quan sát mô hình hoặc hình vẽ, sau đó hướng dẫn các em lập tóm tắt đề bài rồi mới đến bước chọn phép tính. b. Phương pháp điều tra, khảo sát: Điều tra, khảo sát khả năng giải toán có lời văn của học sinh khối lớp 2 Trường Tiểu học....... c. Phương pháp phân tích, đàm thoại: Đây là phương pháp cần thiết và thích hợp với học sinh ở tiểu học, rèn luyện cho học cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học sinh. Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên cần lựa chọn hệ thống câu hỏi chính xác và rõ ràng, nhờ thế mà học sinh có thể nắm được ngay nội dung kiến thức từ đầu và giúp các em dễ dàng trả lời các câu hỏi. d. Phương pháp thực hành và luyện tập: Sử dụng phương pháp này thực hành luyện tập kiến thức, kĩ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp. Trong quá trình học sinh luyện tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: Gợi mở, vấn đáp và giảng giải minh hoạ. PHẦN 2. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Dạy học toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn, đa dạng, phong phú, những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Mạch kiến thức giải toán có lời văn được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức cơ bản khác trong môn Toán lớp 2. giải toán có lời văn giúp học sinh vừa thực hiện nhiệm vụ củng cố kiến thức toán học đã lĩnh hội đồng thời vận dụng kiến thức ấy vào giải các bài toán gắn liền với tình huống thực tiễn. Học sinh tự giải được các bài toán có lời văn là một yêu cầu cơ bản của dạy toán học. Vì vậy, việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh tiểu học có vai trò hết sức quan trọng trong việc dạy học toán. Nhờ giải toán, học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. Vì vậy giải toán là một hoạt động bao gồm những thao tác: Xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa các đã cho với cái cần tìm, trên cơ sở đó chọn được phép tính thích hợp và trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Dạy học giải toán giúp học sinh tự phát hiện, giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra các quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Giải toán có lời văn là loại toán cần đến sự tư duy bởi vì đề bài được nêu ra dưới hình thức có lời văn hoàn chỉnh. Vì vậy để giải được các loại toán này, học sinh cần tìm được sự liên quan giữa các đại lượng, các yếu tố đã biết và các yếu tố cần tìm của bài toán một cách lô gíc. Nói chung các dữ liệu được đưa ra trong đề toán rất đa dạng nó gắn liền với thực tế hoạt động của các sự vật, các yếu tố cuộc sống để học sinh dễ liên hệ. Như vậy đây là một loại toán khó đối với học sinh tiểu học bởi ở lứa tuổi này các em chưa tiếp xúc nhiều với cuộc sống, bản chất của các em còn rất hồn nhiên và ngây thơ, sự chú ý của các em còn hướng ra bên ngoài chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy, vào trí nhớ lô gíc, trí nhớ máy móc cũng dễ dàng đối với các hiện tượng hình ảnh cụ thể hơn là các câu chữ trừu tượng, khô khan. Để giúp học sinh giải toán có lời văn theo hướng tích cực giáo viên cần giúp học sinh tự mình tìm hiểu được các mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả mối quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải của bài toàn. Để đạt được mục tiêu trên, giáo viên phải thực hiện được các yêu cầu sau: Tổ chức cho học sinh hoạt động nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ...(chuẩn bị cho học sinh giải toán). Tổ chức cho học sinh thực hiện giải toán. Tổ chức rèn kĩ năng giải toán. Rèn luyện năng lực khái quát hóa giải toán. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Qua thực tế dạy học từ Trường Tiểu học, bằng việc dự giờ, thăm lớp, trao đổi giờ dạy và rút ra kinh nghiệm giờ dạy của các đồng nghiệp cho thấy. 1. Về phía giáo viên Đa số giáo viên đã biết hướng dẫn cho học sinh nắm bắt được cách giải bài toán có lời văn theo các bước giải nhưng thống nhất theo một trình tự chặt chẽ, đôi lúc làm tắt, bỏ qua một số bước ( Ví dụ: không cho hoc sinh tóm tắt bài toán, không cho học sinh xác định dạng bài, kiểu bài...) Một bộ phận giáo viên chưa linh hoạt trong cách hướng dẫn học sinh giải bài toán, chưa biết cách hướng dẫn học sinh khai thác đề bài để định hướng cách làm bài 2. Về phía học sinh Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, đa số các em là thích học toán nhưng lại rất ngại những bài toán có lời văn vì đối với dạng bài này bắt buộc các em phải tư duy, trình bày nhiều hơn. Mặt khác, vì mới học lớp 2 nên vốn ngôn ngữ của các em còn hạn chế, đầu năm học có em còn đọc chưa thạo, có em đọc được nhưng còn chưa hiểu vì vậy khi giải các bài toán có lời văn, lời giải chưa gọn, có khi còn thiếu chính xác, chưa liên hệ được những điều đã biết, điều cần tìm trong bài để có phép tính đúng. Khảo sát chất lượng: Đầu năm, sau khi nhận lớp, tôi bắt tay ngay về tìm hiểu đối tượng học sinh, tôi nhận thấy lớp 2B các em có lực học khá đồng đều, nhưng đối với giải toán có lời văn các em vẫn còn hơi yếu: Kết quả khảo sát đầu năm: Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 21 SL TL SL TL SL TL 10 47,6% 8 38% 3 14,4% Trong đó đối với bài toán giải: Số học sinh sai về lời giải là 5 em = 23,8% Số học sinh sai về phép tính là 8 em = 38% Số học sinh sai về đơn vị là 3 em = 14,4% Nguyên nhân: Sau khi khảo sát, tìm hiểu thực tiễn tôi thấy có những nguyên nhân như sau: 1. Do học sinh không đọc kĩ đề bài nên không nắm vững được những điều đã biết, những điều cần tìm trong bài toán dẫn đến chưa định hướng được cách làm bài. 2. Học sinh chưa biết cách tóm tắt bài toán. 3. Học sinh không nắm vững câu hỏi của bài nên không xác định được dạng bài. 4. Có học sinh không biết dựa vào câu hỏi để tìm lời giải. 5. Có học sinh chưa nắm vững cách trình bày bài giải. 6. Học sinh không có thói quen kiểm tra lại bài sau khi làm bài xong. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2 A. Các bước thực hiện giải bài toán có lời văn: Khi hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn, GV phải giúp học sinh tự mình tìm hiểu mối quan hệ giữa cái đã biết và cái cần tìm, mô tả quan hệ đó bằng tóm tắt bài toán, bằng câu lời giải, bằng phép tính cụ thể. Xuất phát từ định hướng trên, khi dạy các bài toán có lời văn tôi tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán cụ thể như sau: 1. Đọc và tìm hiểu bài toán: Trong các bước giải toán theo tôi bước này là bước quan trọng nhất để giúp các em xác định được cách giải bài toán đó cụ thể như thế nào? Bước này tập trung cao độ tư duy của học sinh để lập được mối tương quan giữa các đại lượng. Giáo viên là người giúp đỡ học sinh hiểu rõ một số từ quan trọng như “thêm, hơn, kém, bớt, gấp, chia,...”; “còn lại, có tất cả,...” Ở đây giáo viên giúp học sinh biết suy luận: Muốn tìm cái chưa biết thì phải dựa vào thông tin đã biết. Để làm được điều đó cần thực hiện qua các bước: Bước 1: Đọc bài toán (đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm, đọc bằng mắt). Bước 2: Tìm hiểu một số từ, thuật ngữ quan trọng để hiểu nội dung, nắm được mối quan hệ giữa những điều đã biết và những điều cần tìm trong bài toán. Xác định được kiểu bài, dạng bài. Thông thường đề bài của bài toán có lời văn bao gồm có 2 phần đó là: Điều đã biết; điều cần tìm. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nhận biết: Điều đã biết thường bắt đầu bằng từ “ có” Điều cần tìm thường bắt đầu bằng từ “ Hỏi” hay từ “ Tính” Ngoài ra trong đề toán còn nêu ra mối quan hệ giữa điều đã biết và điều cần tìm. Vì vậy muốn tìm hiểu được đề của bài toán yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề bài (3 lần trở lên). Tìm hiểu xem bài toán cho biết những gì, bài toán hỏi gì? Liên hệ với những điều đã học để xác định dạng bài. Ví dụ: Bài tập 4 (Trang 57 - SGK) Cửa hàng có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp. Hỏi cửa hàng còn lại mấy xe đạp? Tìm hiểu, phân tích bài toán ta có thể có các cách như sau: Cách 1: GV hỏi HS: + Bài toán đã cho biết gì? (Cửa hàng có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp.) + Bài toán hỏi gì? (Hỏi cửa hàng còn lại mấy xe đạp?) Cách 2: Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm đề bài, dùng bút chì gạch một gạch dưới điều đã cho biết và hai gạch dưới điều cần tìm. Bước 2: + Học sinh cả lớp cùng hoạt động sau đó nêu ý kiến của mình hoặc lên bảng thực hiện những điều mà giáo viên yêu cầu. + Giáo viên cho một vài học sinh nêu lại điều đã biết và điều cần tìm. GV nhấn mạnh các từ có, đã bán, còn lại để học sinh nhận dạng được bài toán). Qua 2 cách làm trên cho ta thấy: Cách 1: Phân tích rất cụ thể, phù hợp với các đối tượng học sinh lớp 2. Tuy vậy cách phân tích đó nếu lập lại nhiều lần sẽ dập khuôn, máy móc, nhàm chán. Học sinh không phát huy được tính tích cực, chủ động, có em còn ỷ lại cho bạn hoặc chỉ thụ động làm theo ý bạn hay cô giáo nêu ra. Cách 2: Giúp học sinh có kỹ năng biết phân tích bài toán tốt hơn, đọc kỹ đề bài hơn và chủ động, tích cực hơn. Phân tích bài toán theo cách 2 đối với HS lúc đầu có vẻ khó, các em làm hơi chậm nhưng điều quan trọng là rèn luyện cho học sinh có thói quen đọc kỹ đề bài trước khi làm bài. Mỗi cách đều có những mặt tích cực và hạn chế, giáo viên cần linh hoạt vận dụng để hướng dẫn học sinh sao cho đạt hiệu quả cao nhất. 2. Tìm cách giải bài toán: * Tóm tắt bài toán: Dựa vào những điều đã biết, những điều cần tìm để viết tóm tắt bài toán bằng ngôn ngữ toán học (Tóm tắt bằng lời, tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, sơ đồ ven). Ví dụ: * Tóm tắt bằng lời: Bài tập 4 (Trang 57 - SGK) Cửa hàng có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp. Hỏi cửa hàng còn lại mấy xe đạp? Hướng dẫn HS đọc đề bài, nêu những điều đã biết (Có 13 xe đạp, đã bán 6 xe đạp ), những điều cần tìm (cửa hàng còn lại mấy xe đạp), chọn lọc những từ ngữ quan trọng (Có, đã bán, còn lại) để tóm tắt bài toán: Tóm tắt: Có : 13 xe đạp Bán : 6 xe đạp Còn lại :.. xe đạp? * Tóm tắt bằng hồ sơ đoạn thẳng Bài 2: (Trang 24 - SGK) Nam có 10 viên bi, Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi. Hỏi Bảo có bao nhiêu viên bi? Hướng dẫn HS cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau: Yêu cầu học sinh đọc thầm đề bài, dùng bút chì gạch một gạch dưới điều đã cho biết và 2 gạch dưới điều cần tìm. Sau đó tôi hỏi HS: Nam có bao nhiêu viên bi? (Nam có 10 viên bi), vậy ta biểu thị số bi của Nam bằng 1 đoạn thẳng. 10 viên bi Số bi của Bảo như thế nào so với số bi của Nam? (Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi). Muốn biểu diễn số bi của Bảo ta phải vẽ đoạn thẳng như thế nào? (Đoạn thẳng dài hơn đoạn thẳng biểu diễn số bi của Nam). - Phần dài hơn đó tương ứng với bao nhiêu viên bi? (5 viên bi). - GV vẽ tiếp đoạn thẳng biểu diễn số bi của Bảo. - Vậy bài toán hỏi gì? (Hỏi Bảo có bao nhiêu viên bi?). 10 viên bi 5 viên bi Sau khi phân tích rõ ràng như trên tôi hướng dẫn học sinh vẽ tóm tắt: Nam Bảo ? viên bi * Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt: Cho HS dựa vào tóm tắt nêu lại vắn tắt nội dung của bài toán. * Lập kế hoạch giải bài toán: Xác định trình tự giải bài toán: thông thường xuất phát từ câu hỏi của bài toán đi đến các yếu tố đã cho với yêu cầu bài toán phải tìm và tìm được đúng phép tính số học thích hợp. 3. Tìm lời giải. Học sinh dựa vào câu hỏi của bài để tìm lời giải cho bài toán. (Giáo viên giải thích cho học sinh hiểu câu trả lời giải chính là câu trả lời cho câu hỏi trong bài - Vì lớp 2 giải toán đều là các bài toán đơn). Vậy để giúp học sinh tìm ra câu trả lời nhanh và đúng nhất, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải như sau: Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán. Ví dụ: Hỏi Bảo có bao nhiêu viên bi? Bỏ bớt chữ “Hỏi”, cụm từ “bao nhiêu” thay bằng từ “số”, thêm từ “là” vào cuối câu được câu lời giải: “Bảo có số viên bi là”. Đây là cách đơn giản, học sinh dễ nắm bắt nhất. Cách 2: Cũng ví dụ trên, đưa từ “viên bi” ở cuối câu hỏi lên đầu câu hỏi thay cho chữ “Hỏi” và thêm chữ “số” ở đầu câu, cuối câu thêm chữ “là” để được câu trả lời: “Số viên bi Bảo có là:”. Cách 3: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “Bảo có bao nhiêu viên bi? để học sinh trả lời miệng: “ Bảo có 15 viên bi” rồi chèn phép tính vào để có các bước giải (gồm cả lời giải và cả phép tính). Bảo có số viên bi là: 10 + 5 = 15 (viên bi) Cách 4: Sau khi học sinh nêu phép tính: 10 + 5 = 15 (viên bi), giáo viên chỉ vào 15 và hỏi: “15 viên bi” ở đây là số bi của ai? (là số bi của Bảo). Từ câu trả lời của các em ta giúp học sinh chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số bi của Bảo là”: Trên đây là một số cách hướng dẫn học sinh trình bày câu lời giải của bài toán. Xong với mỗi bài toán sau khi giáo viên hướng dẫn xong phải cho học sinh tự nêu được nhiều câu lời giải khác nhau, sau đó chọn câu lời giải thích hợp nhất, ngắn gọn nhất và dễ hiểu, sát với yêu cầu đề bài. 4. Xác định đơn vị bài giải: Cách xác định đơn vị của bài toán: Muốn xác định được đơn vị của bài toán phải giúp học sinh trả lời được câu hỏi xem bài toán yêu cầu tìm gì? Giáo viên gạch dưới đơn vị của bài. Giáo viên hướng dẫn tìm cụ thể một vài bài để học sinh định hướng và dần dần xác định được đơn vị của bài toán. Vì bài toán có lời văn của lớp 2 chỉ là những bài toán đơn nên tôi có một mẹo nhỏ giúp HS xác định đúng đơn vị bài toán đó là khi đọc câu hỏi sau từ: bao nhiêu hay từ mấy là từ gì thì đó chính là đơn vị của bài giải. 5. Thực hiện cách giải và trình bày bài giải. Đây là bước cụ thể, cụ thể hóa của quá trình tư duy trên, nó thể hiện rõ nét kỹ năng, kỹ xảo giải bài tập của học sinh, Học sinh dựa vào sơ đồ phân tích trên để viết bài giải, nó được chuyển dịch tư duy ngược lại khi phân tích. - Thực hiện các phép tính đã xác định (có thể viết phép tính sau khi viết câu lời giải và thực hiện phép tính). - Viết câu lời giải. - Viết phép tính tương ứng. - Viết đáp số. - Tôi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải vào vở ô li như sau: + Lùi vào 5 ô so với lề để viết Bài giải. + Viết câu lời giải cân đối với từ Bài giải (thường là lùi vào 2 ô so với lề). + Viết phép tính lùi vào 2 ô so với lời giải. + Viết đáp số lùi vào thẳng với từ bài giải. Ví dụ: Bài giải Số học sinh trong lớp học đó là: 14 + 16 = 30 (học sinh) Đáp số: 30 học sinh Cách trình bày bài giải đối với học sinh lớp 2 cũng rất quan trọng. Giáo viên cần rèn cho học sinh có con mắt thẩm mĩ trong cách trình bày bài, rèn cho các em có thói quen trình bày bài khoa học và đẹp để sau này khi lên các lớp trên các em không còn lúng túng khi trình bày bài giải. 6. Kiểm tra bài giải: Kiểm tra số liệu, kiểm tra tóm tắt, kiểm tra phép tính, kiểm tra câu lời giải, kiểm tra kết quả cuối cùng có đúng với yêu cầu. Tóm lại: Trong quá trình dạy dạng toán có lời văn, giáo viên cần lưu ý: - Luôn luôn củng cố các bước giải toán. Vì nếu trong quá trình giải toán, học sinh không nắm được các bước giải một bài toán thì học sinh sẽ không có cách giải hay, nhanh nhất và đúng nhất. - Giúp học sinh nắm vững, ghi nhớ được các bảng cộng, trừ, nhân, chia. để áp dụng vào phép tính trong bài toán có lời văn. Vì nếu không thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia. không biết cách tính nhẩm thì không tránh khỏi sai sót kết quả của bài toán. B. Các ví dụ: Trong chương trình Toán 2 có các dạng toán giải sau: 1. Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ. 2. Bài toán về nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị. 3. Giải các bài toán đơn về phép nhân và phép chia. Tôi có hướng dẫn học sinh ở mỗi dạng bài như sau: 1. Dạng bài toán có phép tính cộng Học sinh cần đọc kỹ đề bài, tìm hiểu các từ ngữ trong bài để xác định hướng giải của bài toán. Dạng này giáo viên hướng dẫn HS dựa vào một số từ ngữ để xác định dạng bài như: Ở phần “cho biết” thường có các từ “và”, “thêm”, phần cần tìm thường có các cụm từ “Hỏi có tất cả”, “hỏi cả hai 2 buổi”, “hỏi cả hai bạn”. Ví dụ 1: Bài tập 4 (Trang 14). Một lớp học có 14 học sinh nữ và 16 học sinh nam. Hỏi lớp học đó có tất cả bao nhiêu học sinh? - Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo các bước: Giáo viên cho học sinh đọc thành tiếng, đọc thầm. Em hãy gạch 1 gạch dưới tất cả những điều
Tài liệu đính kèm:
- skkn_ren_luyen_ki_nang_giai_toan_co_loi_van_cho_hoc_sinh_lop.doc