SKKN Phương pháp sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan trong dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập Địa lý THPT

SKKN Phương pháp sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan trong dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập Địa lý THPT

Môn Địa lý là một trong số những môn học mang lại nhiều hứng thú học tập cho học sinh. Thông qua các bài học, các chuyên đề môn Địa lý đã cung cấp cho học sinh kiến thức về sự vật, hiện tượng địa lí, các mối quan hệ giữa chúng với nhau và hơn hết bồi dưỡng nhân cách, giáo dục lòng yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.

 Trong những năm qua, mặc dù nền giáo dục nước ta liên tục đổi mới nhưng theo các thăm dò thống kê cho thấy môn Địa lý vẫn là môn được học sinh yêu thích và lựa chọn nhiều nhất. Bởi vì, so với nhiều môn xã hội ( như môn Lịch sử) môn Địa lý không đòi hỏi học sinh phải ghi nhớ máy móc, kiến thức lại liên quan nhiều đến thực tiễn đời sống, những hình ảnh vô cùng trực quan và có nhiều bài tập vận dụng kiến thức của các môn học khác. Vì vậy không gây cảm giác nhàm chán, luôn kích thích khả năng tư duy, khắc sâu kiến thức cho học sinh và việc rèn luyện để hình thành những kĩ năng địa lý cho học sinh cũng vô cùng thuận lợi.

 Trước năm 2015, thi tốt nghiệp THPT và thi Đại học - Cao đẳng tách biệt thành hai kì thi riêng. Học sinh đậu Tốt nghiệp mới đủ điều kiện tham gia kì thi Đại học - Cao đẳng. Ở kì thì thi tốt nghiệp, tùy theo phương án lựa chọ của Bộ giáo dục về số lượng môn thi và các môn thi. Nên có năm môn Địa lý là môn thi tốt nghiệp, có năm thì môn Sử; còn kì thi Đại học - Cao đẳng thì vẫn thi theo khối. Trong tổ hợp môn khối C (Văn - Sử - Địa) thì môn Địa vẫn thường là môn thí sinh được điểm cao hơn,dễ học và hứng thú học hơn.

 

doc 33 trang thuychi01 10382
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phương pháp sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan trong dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập Địa lý THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
1.
Mở đầu......................................................................................
1
1.1
Lí do chọn đề tài........................................................................
1
1.2
Mục đích nghiên cứu.................................................................
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu................................................................
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu...........................................................
2
2.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...............................................
3
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm...................................
3
2.2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.3
Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp thực hiện
5
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
12
3.
Kết luận, kiến nghị.....................................................................
15
3.1
Kết luận......................................................................................
15
3.2
Kiến nghị...................................................................................
16
Tài liệu tham khảo
18
1. MỞ ĐẦU:
	1.1. Lí do chọn đề tài.
	Môn Địa lý là một trong số những môn học mang lại nhiều hứng thú học tập cho học sinh. Thông qua các bài học, các chuyên đề môn Địa lý đã cung cấp cho học sinh kiến thức về sự vật, hiện tượng địa lí, các mối quan hệ giữa chúng với nhau và hơn hết bồi dưỡng nhân cách, giáo dục lòng yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.
	Trong những năm qua, mặc dù nền giáo dục nước ta liên tục đổi mới nhưng theo các thăm dò thống kê cho thấy môn Địa lý vẫn là môn được học sinh yêu thích và lựa chọn nhiều nhất. Bởi vì, so với nhiều môn xã hội ( như môn Lịch sử) môn Địa lý không đòi hỏi học sinh phải ghi nhớ máy móc, kiến thức lại liên quan nhiều đến thực tiễn đời sống, những hình ảnh vô cùng trực quan và có nhiều bài tập vận dụng kiến thức của các môn học khác. Vì vậy không gây cảm giác nhàm chán, luôn kích thích khả năng tư duy, khắc sâu kiến thức cho học sinh và việc rèn luyện để hình thành những kĩ năng địa lý cho học sinh cũng vô cùng thuận lợi.
	Trước năm 2015, thi tốt nghiệp THPT và thi Đại học - Cao đẳng tách biệt thành hai kì thi riêng. Học sinh đậu Tốt nghiệp mới đủ điều kiện tham gia kì thi Đại học - Cao đẳng. Ở kì thì thi tốt nghiệp, tùy theo phương án lựa chọ của Bộ giáo dục về số lượng môn thi và các môn thi. Nên có năm môn Địa lý là môn thi tốt nghiệp, có năm thì môn Sử; còn kì thi Đại học - Cao đẳng thì vẫn thi theo khối. Trong tổ hợp môn khối C (Văn - Sử - Địa) thì môn Địa vẫn thường là môn thí sinh được điểm cao hơn,dễ học và hứng thú học hơn.
	Năm học 2015 - 2016, gộp hai kì thi tốt nghiệp THPT và thi Đại học - Cao đẳng thành một kì thi lấy tên là thi THPT quốc gia. Trong đó học sinh THPT phải thi 3 môn bắt buộc (Toán - Văn - Ngoại Ngữ) và một môn tự chọn. Vì vậy có nhiều người thường nói “thời kì môn Địa lên ngôi”, với thống kê cho thấy 2/3 thí sinh đăng kí môn Địa là môn thi tự chọn thứ tư để xét tốt nghiệp. Thực tế cho thấy, môn Địa không những là môn “chống liệt” mà nó còn là môn “cứu cánh” cho các môn thi khác để tính điểm bình quân đạt trên 5,0 (Đậu tốt nghiệp).
	Năm 2017, Bộ giáo dục lại có thay đổi lớn trong phương án tuyển sinh, với rất nhiều điểm mới khiến cho các trường, các giáo viên và gần hàng triệu học sinh các khối THPT không tránh khỏi băn khoăn, lo lắng. Tất cả các môn thi (trừ môn Văn) đều thi bằng hình thức thi trắc nghiệm. Việc học tập của học sinh đối với các môn xã hội đã khó, việc ghi nhớ phạm vi kiến thức rộng, yêu cầu chính xác hiện nay lại càng khó hơn. Các em không nhớ kiến thức theo mảng rộng, trình bày theo ý hiểu, “mang máng” nữa mà lại phải cần chính xác, phủ kín kiến thức. Năm 2017, nội dung chương trình thi ở lớp 12; năm 2018, nội dung chương trình thi là cả lớp11 và lớp 12; năm 2019 nội dung chương trình thi ở cả 3 lớp. Một thách thức lớn đặt lên đôi vai của giáo viên. 
	Trong lộ trình đổi mới giáo dục, cần phải có những định hướng tốt, những giải pháp thiết thực để phát huy được năng lực và huy động được sự làm việc tối đa của học sinh, để học sinh vẫn yêu thích môn Địa lý. để học sinh đạt điểm cao nhất trong các bài trắc nghiệm Địa lý... Đây là những điều khiến tôi phải trăn trở, suy nghĩ và không ngừng làm mới mình trong các giờ lên lớp. Một trong những phương pháp và kỹ thuật dạy học theo hướng đổi mới mà tôi đã áp dụng và mang lại hiệu quả tích cực là dạy học phù hợp với tình hình mới, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng việc sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
	Bằng những kết quả đã đạt được trong thời gian qua, tôi xin chia sẻ cùng quý đồng nghiệp kinh nghiệm “Phương pháp sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan trong dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập Địa lý THPT”. Mong rằng đề tài này sẽ giúp cho quý đồng nghiệp và các em học sinh đạt hiệu quả tối ưu hơn trong quá trình dạy và học môn Địa lý đồng thời cũng mong góp một phần nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dạy học địa lí trong nhà trường THPT hiện nay. Rất mong được các thầy cô và đồng nghiệp góp ý để đề tài này hoàn thiện hơn. 
	1.2. Mục đích nghiên cứu
	Môn Địa lý là một trong những môn xã hội, từ trước đến nay, hình thức thi chủ yếu là tự luận. Giáo viên và học sinh đã làm quen và có nhiều kinh nghiệm trong dạy và học, ôn tập và thi bằng hình thức tự luận. Kể từ năm học 2016 - 2017, chuyển hoàn toàn sang hình thức trắc nghiệm. Đề án thi THPT quốc gia này lộ trình sẽ được thực hiện trong thời gian dài chứ không phải chỉ một năm học, vì vậy tâm lý của giáo viên và học sinh đang rất hoang mang. Để môn Địa lý là một môn “Cứu cánh”, đạt hiệu quả cao và mang lại sự hứng thú cho người học thì đòi hỏi giáo viên phải là người “tìm đường”, có nhiều kinh nghiệm trong rèn luyện kĩ năng trong dạy học, ôn tập và thi cho học sinh.
	Đề tài nghiên cứu này nhằm hệ thống lại và đưa ra một số kinh nghiệm, lưu ý của bản thân trong dạy học địa lý phù hợp với tình hình mới để chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu
	Đề tài này nghiên cứu về phương pháp sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan trong dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập Địa lý THPT. Qua đó rút ra phương pháp và vận dụng thực tế trong dạy học Địa lý chương trình lớp 12 - Cơ bản.
	1.4. Phương pháp nghiên cứu
	- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Thông qua việc thu thập thông tin từ sách báo, tài liệu để xây dựng những khái niệm, phương pháp, kĩ năng cơ bản nhất liên quan đến dạy học địa lý bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.
	- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Dựa vào những câu hỏi đặt ra cho học sinh trong quá trình giảng dạy, thu thập thông tin, khảo sát, kiểm chứng làm sáng tỏ và rút ra nhận xét cần thiết về tính cấp thiết của đề tài.
	- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Tiến hành thu thập các số liệu liên quan, sau đó phân tích tổng hợp, xử lý số liệu, chọn lọc số liệu liên quan đưa vào phục vụ nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề đặt ra của đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
	Ở nước ta, trong quá trình cải cách giáo dục – đào tạo, mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục – đào tạo đã thay đổi nhiều lần cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được những tiến bộ đáng khích lệ. Tuy nhiên, những thay đổi về phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá xếp loại học sinh còn quá ít, quá chậm. Phương pháp đang được sử dụng phổ biến trong các trường học chủ yếu là thuyết giảng có tính chất áp đặt của thầy, coi nhẹ hoạt động tích cực, chủ động của trò. 
	Mục tiêu giáo dục mà Đảng ta đã đề ra là đào tạo “người lao động tự chủ năng động, sáng tạo”. Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết TƯ 2, Khóa VIII, BCH Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân nhất là trong thanh niên” (Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia 1997. tr41).
	Một xu hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học đại học là đổi mới theo quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm. Quan điểm này có cơ sở lý luận từ việc nhận thức quá trình dạy học là quá trình có hai chủ thể: Thầy và trò. Cả hai chủ thể này đều chủ động, tích cực, bằng hoạt động của mình hướng tới tri thức, thầy thì hoạt động truyền đạt tri thức, còn trò thì hoạt động chiếm lĩnh tri thức và biến nó thành vốn hiểu biết của mình để tiếp tục hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn Đây là quan điểm dạy học được đa số các nước có nền giáo dục tiên tiến quan tâm. Phương pháp dạy học chúng ta phải chú ý đến cả phương pháp dạy của thầy và phương pháp học của trò, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
	Xuất phát từ sự chỉ đạo của ngành giáo dục đào tạo qua các năm về đổi mới phương pháp dạy học. Coi trọng kiểm tra kĩ năng vận dụng của học sinh, tăng cường áp dụng những kỹ thuật dạy học tích cực nhằm định hướng phát triển năng lực cho học sinh.
	Xuất phát từ đề án xây dụng phương pháp thi THPT quốc gia từ năm 2016 đến năm 2018, đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá, thi cử của học sinh sang trắc nghiệm (trừ môn Ngữ văn)
	2.2. Thực trạng trước khi áp dụng hình thức trắc nghiệm khách quan trong dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh THPT.
	a. Về phía học sinh:
	- Do phương án thi THPT quốc gia từ năm học 2016 - 2017 có nhiều thay đổi, môn học không mang tính chất định hướng nghề nghiệp nên nhiều học sinh không lựa chọn môn Địa lý làm môn xét tuyển Đại học. Nhất là với những em học sinh muốn thi vào những trường công an.
	- Phần lớn học sinh không quan tâm, không hứng thú, không đam mê, và có thái độ thờ ơ đối với môn học Địa lý. Vì vậy học sinh chỉ học và coi môn địa lý là môn dễ lấy điểm, chống điểm liệt và xét tốt nghiệp.
	- Trong quá trình dạy học, giáo viên thường áp dụng hình thức trình bày chủ yếu theo bố cục văn xuôi, khi kiểm tra giáo viên lại yêu cầu học sinh trình bày “bài bản” các tiểu ý, luận cứ, luận điểm cấu thành một bài văn xuôi để hoàn chỉnh một vấn đề đặt ra. Do đó học sinh phải ghi nhớ máy móc, rập khuôn. Nếu thiếu một luận cứ xem như bài làm chưa hoàn chỉnh. Hơn nữa nội dung kiểm tra chỉ liên quan tới một vài mảng kiến thức nhất định trong khi đó quá trình học tập kiến thức phải phủ kín trong toàn bộ chương trình.
	Từ những nhược điểm trên đã gây nên những hậu quả cho người học như: mất khả năng tập trung; mất tự tin vào bản thân, buồn chán, thất vọng, đánh mất sự đam mê học hỏi
	Năm học 2016 - 2017, bộ giáo dục đã công bố chính thức phương án tuyển sinh, một điều đáng buồn là các trường Công an không lấy khối C (Văn - Sử - Địa) như các năm mà thay vào đó là tổ hợp môn mới (Toán - Văn - Sử), điều này có nhiều bất lợi cho môn Địa và những học sinh tố chất thực sự, yêu thích và muốn thi vào các trường Công an. Vì vậy, để theo đuổi nguyện vọng của bản thân, gia đình, học sinh không còn say mê đối với môn Địa lý nhiều như trước.
	b. Về phía phu huynh học sinh:
	Phần lớn phụ huynh chưa có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học; có tư tưởng xem nhẹ, không khuyến khích con em có những định hướng đúng đắn phù hợp trong quá trình học tập bộ môn.
	Một bộ phận phụ huynh ít quan tâm đến việc học của học sinh, làm cho các em không có được sự tập trung, thiếu định hướng từ phía gia đình dẫn đến các em lơ là việc học, kiến thức lỏng lẻo.
	c. Đối với bộ môn Địa lý:
	Môn địa lý là một môn khoa học tổng hợp: vừa chứa đựng các kiến thức tự nhiên với nhiều qui luật tự nhiên khác nhau; vừa chứa đựng những kiến thức xã hội với những số liệu khó nhớ, lại luôn thay đổi. Kiến thức của môn địa lý vừa mang tính cụ thể, vừa có tính trừu tượng của không gian địa lý... vì thế môn địa lý làm cho học sinh khó đạt được điểm cao khi thi và kiểm tra.
	Nhiều nội dung trong chương trình còn mang tính hàn lâm, chưa thực tiễn khiến các em khó khăn trong việc tiếp nhận và lĩnh hội kiến thức.
	Việc thay đổi hình thức thi từ tự luận sang trắc nghiệm khiến cho môn học càng trở nên phức tạp, “khó tiêu hóa” hơn, đòi hỏi người học phải có kiến thức sâu rộng, nắm chắc kiến thức, và đặc biệt phải luôn luôn so sánh, tổng hợp kiến thức liên quan.
	d. Đối với giáo viên và nhà trường.
	Mặc dù có nhiều nỗ lực đển trang bị cơ sở vật chất, phương tiện dạy học nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu thốn, việc dạy địa lý trong nhà trường hiện nay chỉ coi trọng dạy kiến thức, mà chưa coi trọng dạy các kỹ năng địa lý; chưa thực sự phát huy được năng lực của học sinh nên khi học xong các em quên khá nhiều kiến thức.
	So với việc dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng tự luận hình thức trắc nghiệm khách quan cũng không phải là mới nhưng đã một thời gian dài không áp dụng nên hiện nay vẫn còn rất trẻ, giáo viên giảng dạy, tài liệu dạy học còn rất đơn điệu, các nguồn trên mạng Internet chưa phải là chính thống, chưa được thẩm định nên việc dạy học, kiểm tra, đánh giá còn rất lúng túng. Nhất là phương pháp giúp học sinh tiếp cận và làm tốt các bài kiểm tra đánh giá.
	2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp thực hiện:
	- Trắc nghiệm khách quan (TNKQ) là phương pháp kiểm tra đánh giá bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Cách cho điểm hoàn toàn không phụ thuộc vào người chấm.
	- TNKQ được sử dụng khá nhiều trong quá trình giảng dạy và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh như: Kiểm tra miệng, vào bài mới, củng cố bài học, hướng dẫn học tập ở nhà, ôn tập và kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết, học kì - cuối năm và thi THPT quốc gia.
	- TNKQ bao gồm nhiều loại: Trắc nghiệm nhiều lựa chọn, trắc nghiệm đúng - sai, trắc nghiệm điền khuyết và trắc ngiệm theo hình thức ghép đôi. Thông thường và phổ biến nhất là loại trắc nghiệm nhiều lựa chọn.
	- Căn cứ vào mục đích dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh mà giáo viên sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn như thế nào cho phù hợp, hiệu quả, đảm bảo yêu cầu:
 . Tính toàn diện: Nội dung phải được kiểm tra đầy đủ, thích hợp; xuất phát từ mục tiêu: Việc kiểm tra cần đạt được yêu cầu cả về kiến thức và kĩ năng.
 . Tính phân hóa: Tiêu chí kiểm tra cần phân loại được những mức độ cần đạt (biết, hiểu, vận dụng..), thành thạo các kĩ năng cơ bản
	2.3.1. Sử dụng câu hỏi TNKQ trong kiểm tra bài cũ:
	a. Mục đích: 
	- Trong nội dung chương trình giáo dục, sách giáo khoa được biên soạn dưới dạng “hình soắn ốc”. Kiến thức mở rộng hơn theo cấp học và bài học, các bài phía sau minh họa cho những nhận định ở các bài phía trước. Vì thế, kiểm tra bài cũ là một công đoạn không thể thiếu, không thể bỏ qua trong tiến trình dạy học. 
	- Kiểm tra bài cũ nhằm giúp học sinh tri thức lại bài cũ, củng cố lại nội dung kiến thức, kĩ năng từ đó học sinh sẽ dễ dàng tiếp thu kiến thức bài mới, có so sánh, liên hệ với các mảng kiến thức với nhau tạo thành một chuỗi kiến thức chặt chẽ. Tuy nhiên thời gian cho công đoạn này chỉ khoảng từ 3 - 7 phút, kiểm tra từ 2 học sinh trở lên.
	b. Yêu cầu:
	- Tuy là kiểm tra bài cũ nhưng hệ thống câu hỏi TNKQ vẫn phải đảm bảo theo chuẩn kiến thức kĩ năng. và những mức độ cần đạt (Nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao).
	- Đảm bảo đúng nguyên tắc của câu hỏi TNKQ.
	 - Kiểm tra bài cũ có thể tiến hành trong 5 phút đầu giờ sau khi ổn định lớp.
	- Phương tiện hỗ trợ: máy chiếu, hệ thông câu hỏi TNKQ được biên soạn sẵn.
	c. Ví dụ: 
	Trước khi học bài 6: Hệ quả chuyển động xung quanh Mặt trời của Trái đất (Địa lý lớp 10, chương trình cơ bản) với mục đích kiểm tra bài cũ thuộc bài 5: Vũ trụ. Hệ Mặt Trời và Trái đất. Hệ quả chuyển động tự quay quanh trục của Trái đất. Giáo viên đưa ra các câu hỏi sau:
Câu 1: Tập hợp các thiên thể nằm trong Dải ngân hà gọi là (mức độ nhận biết)
A. Thiên hà 
B. Vũ trụ
C. Hệ mặt Trời
D. Trái Đất
Câu 2: Khoảng cách trung bình từ Trái Đất đến Mặt Trời là (mức độ nhận biết)
A. 146.9 triệu km
B. 149.6 triệu km
C. 194.6 triệu km
D. 164.9 triệu km
Câu 3: Hiện tượng luân phiên ngày đêm là do (mức độ thông hiểu)
A. Trái đất quay quanh Mặt Trời
B. Trái đất ở vị trí thứ 3 trong Hệ Mặ Trời
C. Trái đất tự quay quanh trục
D. Trái đất hình cầu.
Câu 4: Khi chuyển động quanh trục, mọi địa điểm trên Trái đất đều thay đổi vị trí trừ (mức độ thông hiểu)
A. hai bên xích đạo
B. hai chí tuyến
C. hai cực
D. hai vùng ôn đới
Câu 5: Ngày Trái đất ở gần Mặt trời nhất là (mức độ vận dụng)
A. 1/1-3/1
B. 5/1-7/1
C. 1/7 - 3/7
D. 5/7 - 7/7
Câu 6: Vào lúc 19 giờ ngày 14/2/2017 tại Hà Nội (Việt Nam) khai mạc SEAGAME 29, lúc đó là mấy giờ, ngày bao nhiêu tại Sơ Un (1200Đ)? (mức độ vận dụng)
A. 18 giờ 14/2/2017
B. 20 giờ 14/2/2017
C. 18 giờ 15/2/2017
D. 20 giờ 15/2/2017
	Trong cấu trúc của câu hỏi trắc nghiệm khách quan gồm hai bộ phận cấu thành: Câu dẫn và các phương án lựa chọn. Khi kiểm tra bài cũ, mỗi học sinh phải trả lời nhiều câu hỏi với nhiều phương án khác nhau, trong đó chỉ được lựa chọn một phương án, ba phương án còn lại là các phương án nhiễu, nếu giáo viên đọc cho học sinh nghe và lựa chọn đáp án sẽ rất khó nhớ. Vì vậy, để quá trình kiểm tra bài cũ đạt hiệu quả cao nhất bắt buộc giáo viên phải ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ cho tiết dạy của mình..
 	Giáo viên sử dụng công nghệ thông tin để đưa hệ thống câu hỏi TNKQ lên. Gọi học sinh lựa chọn đáp án, ghi các đáp án lên bảng (Yêu cầu học sinh lý giải nếu cần). Sau đó gọi học sinh khác nhận xét, giáo viên chốt kiến thức và cho điểm.
	d. Hiệu quả:
	Với phương pháp kiểm tra bài cũ trong khoảng thời gian ngắn, giáo viên không thể đưa ra những câu hỏi mang tính chất so sánh hay giải thích hiện tượng mà chỉ đưa ra những câu hỏi có tính chất tái hiện một phần kiến thức, kiểm tra lần lượt từng học sinh. Điều này không chỉ tạo cho học sinh thói quen học vẹt, học thuộc lòng kiến thức một cách máy móc dẫn đến nảy sinh tư tưởng nhàm chán và tâm lý “sợ kiểm tra bài cũ” ở học sinh, vì thế mà ngay từ đầu, tiết học đã không thể thực hiện nhiệm vụ tạo hứng thú học tập cho học sinh và không thể kiểm tra nhiều học sinh.
	Việc sử dụng hình thức TNKQ trong kiểm tra bài cũ không chỉ khắc phục được những hạn chế đã đề cập ở trên mà còn khiến cho học sinh trở nên yêu thích và học tập tập trung hơn. Chỉ cần từ 5 - 7 phút giáo viên có thể kiểm tra số lượng học sinh tùy ý, học sinh không cần ghi nhớ máy móc mà kĩ năng vận dụng rất cao.
	Cái hay của phương pháp sử dụng TNKQ để kiểm tra bài cũ đan xen trong khi dạy bài mới là không tạo cảm giác nặng nề cho học sinh, học sinh dễ dàng tiếp thu bài mới trên cơ sở sử dụng kiến thức bài cũ để trình bày.
2.3.2. Sử dụng câu hỏi TNKQ trong củng cố kiến thức và hướng dẫn học tập
	a. Mục đích:
	Sau một tiết học, việc củng cố nội dung bài học nhằm mục đích chốt lại kiến thức trọng tâm, khắc sâu nội dung kiến thức bài học. Phương pháp dạy học bài mới hiện nay về cơ bản vẫn không thay đổi so với trước kia. Nghĩa là người giáo viên vẫn phải cho học sinh tìm hiểu, phát hiện kiến thức và trình bày dưới dạng các ý lớn ý nhỏ tương ứng với từng đề mục trong chuẩn kiến thức kĩ năng. 	Tuy nhiên tùy từng phần, từng bài giáo viên có thể sử dụng kết hợp với các sơ đồ tư duy để gợi mở vấn đề và hệ thống lại kiến thức. Công việc này không phải giáo viên nào cũng làm tốt, có một số giáo viên lại chỉ làm qua loa, thậm chí còn bỏ qua nên hiệu quả của dạy học không cao.
	Cũng giống như kiểm tra bài cũ, thời gian trong tiết học dành cho củng cố và hướng dẫn học tập không nhiều. Giáo viên thường chỉ sử dụng một số câu hỏi có tính chất khái quát vấn đề và yêu cầu học sinh trả lời hoặc giao bài tập về nhà. Với cách làm trên khiến cho học sinh không tập trung, việc làm bài tập chỉ mang tính hình thức, đối phó. 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_su_dung_hinh_thuc_trac_nghiem_khach_quan_tr.doc