SKKN Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Chương 1: Trồng trọt, Lâm nghiệp đại cương, Công Nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh Trường THPT Nguyễn Hoàng – Huyện Hà Trun

SKKN Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Chương 1: Trồng trọt, Lâm nghiệp đại cương, Công Nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh Trường THPT Nguyễn Hoàng – Huyện Hà Trun

Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà trường phổ thông.

Phần I, Nông – Lâm – Ngư nghiệp, Công nghệ 10 có vị trí và ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ ngày nay, do có liên quan trực tiếp đến cuộc sống và rất gần gũi với con người, phục vụ nhu cầu cơ bản hàng ngày cho con người. Không như các bộ môn khác, tài liệu tham khảo của bộ môn công nghệ phải nói rất phong phú và đa dạng, ngoài sách báo, internet học sinh có thể học hỏi trực tiếp từ ông bà, bố mẹ, anh chị trong gia đình thông qua các công việc hàng ngày như chuẩn bị bữa ăn, chăm sóc cây trồng, vật nuôi, Từ những hiểu biết về trồng trọt và chăn nuôi sẽ giúp các em nắm bắt công việc trong tương lai từ đó các em có thể định hướng nghề nghiệp cho mình một cách đúng đắn nhất.

Đối với môn Công nghệ đồ dùng trực quan được sử dụng trong mọi hoạt động của quá trình dạy học: Từ khâu giới thiệu tình huống, xử lý tình huống cho đến khâu thực hành. Từ xưa cha ông ta đã nói “Trăm nghe không bằng một thấy”, đó là kết luận rút ra từ thực tế nhận thức sự vật. Hay nhận thức luận Mac-xít cũng nêu rõ tầm quan trọng của việc dạy học có dùng trực quan, nhận thức của con người diễn ra theo con đường biện chứng: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Sinh thời, Bác Hồ đã từng dạy: “Các thầy cô phải tìm cách dạy dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh. Trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học ”.

Như chúng ta thấy, con đường nhận thức ngắn nhất sẽ là con đường “Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” và phương tiện hết sức cần thiết để đi được trên “Con đường” nhận thức này chính là các “Dụng cụ trực quan”.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Chương 1: Trồng trọt, Lâm nghiệp đại cương, Công Nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh Trường THPT Nguyễn Hoàng – Huyện Hà Trung”

 

doc 19 trang thuychi01 8090
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Chương 1: Trồng trọt, Lâm nghiệp đại cương, Công Nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh Trường THPT Nguyễn Hoàng – Huyện Hà Trun", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
MỤC LỤC
Phần 1. Mở đầu
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
1.5. Những điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
2
Phần 2. Nội dung
3
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2. Thực trạng của vấn đề
4
2.2.1. Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông
4
2.2.2. Thực trạng dạy và học Công nghệ 10 ở trường THPT Nguyễn Hoàng
4
2.2.3. Số liệu điều tra cụ thể
5
2.3. Giải quyết vấn đề
6
2.3.1. Những nguyên tắc khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy
6
2.3.2. Vai trò của dụng cụ trực quan
7
2.3.3. Cách khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan
7
2.4. Hiệu quả thu được
17
Phần 3. Kết luận và kiến nghị
18
3.1. Kết luận
18
3.2. Kiến nghị
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài: 
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà trường phổ thông.
Phần I, Nông – Lâm – Ngư nghiệp, Công nghệ 10 có vị trí và ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ ngày nay, do có liên quan trực tiếp đến cuộc sống và rất gần gũi với con người, phục vụ nhu cầu cơ bản hàng ngày cho con người. Không như các bộ môn khác, tài liệu tham khảo của bộ môn công nghệ phải nói rất phong phú và đa dạng, ngoài sách báo, internet học sinh có thể học hỏi trực tiếp từ ông bà, bố mẹ, anh chị trong gia đình thông qua các công việc hàng ngày như chuẩn bị bữa ăn, chăm sóc cây trồng, vật nuôi,Từ những hiểu biết về trồng trọt và chăn nuôi sẽ giúp các em nắm bắt công việc trong tương lai từ đó các em có thể định hướng nghề nghiệp cho mình một cách đúng đắn nhất. 
Đối với môn Công nghệ đồ dùng trực quan được sử dụng trong mọi hoạt động của quá trình dạy học: Từ khâu giới thiệu tình huống, xử lý tình huống cho đến khâu thực hành. Từ xưa cha ông ta đã nói “Trăm nghe không bằng một thấy”, đó là kết luận rút ra từ thực tế nhận thức sự vật. Hay nhận thức luận Mac-xít cũng nêu rõ tầm quan trọng của việc dạy học có dùng trực quan, nhận thức của con người diễn ra theo con đường biện chứng: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Sinh thời, Bác Hồ đã từng dạy: “Các thầy cô phải tìm cách dạy dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh. Trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học”.
Như chúng ta thấy, con đường nhận thức ngắn nhất sẽ là con đường “Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” và phương tiện hết sức cần thiết để đi được trên “Con đường” nhận thức này chính là các “Dụng cụ trực quan”.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Chương 1: Trồng trọt, Lâm nghiệp đại cương, Công Nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh Trường THPT Nguyễn Hoàng – Huyện Hà Trung” 
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học nên trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã có ý thức tìm tòi, sưu tập và tự làm những đồ dùng dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng các giờ lên lớp.
Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ mong được đóng góp một vài ý kiến của mình giúp giáo viên có thể tham khảo thêm về việc sử dụng đồ dung trực quan trong các giờ dạy nhằm giúp học sinh tích cực và hứng thú hơn trong giờ học, từ đó giúp các em yêu thích hơn môn Công nghệ và đạt kết quả cao hơn trong học tập.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nội dung chương trình SGK.
- Sách hướng dẫn giáo viên, phân phối chương trình Công nghệ 10, và các tài liệu có liên quan
- Đối tượng học sinh khối 10 gồm các lớp: 10A1, 10A2, 10A3, 10A4, 10A5, 10A6 và 10A7 Trường THPT Nguyễn Hoàng trong năm học 2016 - 2017
- Giáo viên dạy bộ môn và thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan ở trường hiện tại.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa việc học của học sinh.
- Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 10 phần nông, lâm, ngư nghiệp.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy
1.4.2. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
1.4.3. Phương pháp thực tập sư phạm
Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT, tiến hành theo quy trình của đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu.
1.4.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được qua các tiết dạy trên lớp.
1.5. Những điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
- Đề tài áp dụng kinh nghiệm giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy và học ở trường THPT.
- Kết hợp với các phương tiện dạy học truyền thống, phương tiện hiện đại cho hiệu quả rõ rệt. Đây là một chủ đề rất mới trong những năm học gần đây. 
	- HS hứng thú học tập, công tác giảng dạy, giáo dục của GV trở nên nhẹ nhàng hơn vì phần chủ yếu hướng dẫn cho HS tìm ra kiến thức.
Từ những điểm nêu trên bản thân tôi khẳng định đề tài có tính khoa học và thực tiễn cao:
Ý nghĩa khoa học:
	Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học, cũng như phát huy tính sáng tạo trong việc dạy và học. Kết quả của đề tài sẽ góp phần phát triển tư duy của GV và HS .
Ý nghĩa thực tiễn: 
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Công nghệ 10 nói riêng và các môn học khác nói chung. Đề tài cũng góp phần phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập của người học.
PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận 
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học công nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến thay đổi to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học- kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành GD- ĐT nói chung và người thầy chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con người có giới hạn, bởi vì sự nhận thức của con người nói chung là tuyệt đối và không có giới hạn song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều hữu hạn và tương đối.
Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học nâng cao chất lượng giáo dục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới 
 Luật giáo dục điều 24.2 đã ghi rõ: “phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.[3]
Từ trước tới nay đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tích tính cực của học sinh trong học tập Công nghệ 10. Tuy nhiên những vấn đề mà các nhà nghiên cứu đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể mà ít đi sâu vào một khối lớp cụ thể vi vậy trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ xin lưu ý đến một khía cạnh gắn liền với việc giảng dạy nhiều năm môn Công nghệ, đó là một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Công nghệ 10 với mục đích là góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Công nghệ 10 ở trường nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là để trao đổi, học tập kinh nghiệm của các thầy giáo, các đồng nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương pháp dạy học. 
Đồ dùng trực quan là một trong những phương pháp cơ bản của lý luận dạy học, tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật. Trong dạy học công nghệ, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan nếu được khơi dậy đúng mức tích cực, sự chủ động trong học tập cũng như các hoạt động khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất cho bản thân mà còn là cơ sở vững chắc để các em chọn nghề sau này
Việc giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mỹ thông qua dạy học có sử dụng đồ dùng trực quan cũng có ý nghĩa rất lớn. Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu về bản chất của sự việc, là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm trong trồng trọt – lâm nghiệp - chăn nuôi – thủy sản, giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của thực vật và động vật. Đồ dùng trực quan có vai trò rất quan trọng trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức. Những hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Mỗi khi quan sát vào loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung xem cây trồng, vật nuôi, thủy sản được phản ánh, minh họa như thế nào? Từ đó các em mới suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh đã qua.
Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học môn công nghệ nói riêng và các môn học khác nói chung, gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những sự kiện, những kiến thức. Nó là chiếc “cầu nối” cho rất nhiều các phương pháp dạy học khác.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông
Phương pháp dạy học được hiểu là phương pháp triển khai một quá trình dạy học cụ thể. Tức là cách thức hình thành mục đích dạy học, cách thức soạn thảo và triển khai nội dung dạy học, cách thức tổ chức hoạt động dạy và hoạt động học nhằm hiện thực hóa mục đích, nội dung, dạy học , cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả của quá trình dạy học.
Khi bàn về hiện trạng phương pháp dạy học những năm gần đây, chúng ta phải tránh một nhận xét chung chung là: Chúng ta đã sử dụng phương pháp dạy học lạc hậu trì trệ. Tuy nhiên, cũng không thể nói trong thực tế ngày nay phương pháp truyền thống vẫn được coi là ưu việt, bởi thực chất của phương pháp dạy học những năm vừa qua chủ yếu vẫn xoay quanh việc: “thầy truyền đạt, trò tiếp nhận, ghi nhớ” thậm chí ở một số bộ môn do thúc bách của quỹ thời gian với dung lượng kiến thức trong một giờ (đặc biệt ở các lớp có liên quan đến thi cử) dẫn đến việc “thầy đọc - trò chép” hay thầy đọc chép và trò đọc, chép”. Nói như vậy, cũng không phủ nhận ở một số không ít các thầy cô giáo có ý thức và tri thức nghề nghiệp vững vàng vẫn có nhiều giờ dạy tốt, phản ánh được tinh thần của một xu thế mới.
2.2.2. Thực trạng dạy và học Công nghệ 10 ở trường THPT Nguyễn Hoàng
Trường THPT Nguyễn Hoàng được thành lập năm 2001 với tên gọi ban đầu là Trường THPT Bán Công số 1 Hà Trung. Trải qua 16 năm thành lập cho đến nay về cơ sở vật chất của nhà trường, số giáo viên đứng lớp có kinh nghiệm trong giảng dạy và chủ nhiệm dần đi vào ổn định. Tuy nhiên, phòng máy và phòng chức năng riêng dành cho thực hành thì lại thiếu trầm trọng, cụ thể toàn trường chỉ có 1 phòng máy khi sử dụng lúc hỏng lúc được, không có phòng thí nghiệm riêng cho môn sinh, môn hóa, môn công nghệ,... Vì vậy, học sinh ít có cơ hội được xem tranh ảnh trên máy chiếu.
Thiết bị giảng dạy như mẫu vật, dụng cụ thí nghiệm, tranh ảnh, hình mô phỏng đối với môn công nghệ 10 đang còn thiếu, mặt khác có một số ít giáo viên chỉ cho học sinh khai thác sơ sài hoặc quan sát qua loa tranh ảnh, tài liệu trong sách giáo khoa. Cũng có khi giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị đồ dùng làm thí nghiệm mà không hướng dẫn kĩ càng, học sinh không biết cách làm nên tiết dạy không có kết quả thu hoạch, đặc biệt do thiếu giáo viên bộ môn nên việc giảng dạy môn công nghệ ở trường THPT Nguyễn Hoàng chủ yếu là do giáo viên môn Sinh học giảng dạy khiến cho việc sử dụng phương pháp đồ dùng trực quan càng khó khăn, dẫn đến tiết học nhàm chán, học sinh nắm bắt kiến thức mơ hồ, mau quên nên kết quả học tập của học sinh chưa cao.
Bên cạnh đó một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng dạy và học Công nghệ 10 hiện nay do môn này không được học sinh coi là môn học chính, vì không thi tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ buông lõng, thả trôi trong ý thức học tập của học sinh.
* Thực trạng dạy học của giáo viên
Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như: vẫn còn sử dụng phương pháp “thầy nói – trò nghe”, “thầy đọc – trò chép”. Do đó nhiều học sinh không nắm vững kiến thức, khi trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa đọc nguyên bản nên học thuộc một cách máy móc nhanh quên.
Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động học sinh khá, giỏi trả lời; chưa có câu hỏi giành cho học sinh yếu kém nên các đối tượng học sinh yếu kém ít được tham gia hoạt động, dễ chán nản môn học của mình. Một số ít giáo viên lại đặt ra những câu hỏi hơi khó mà không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên học sinh không trả lời được, nhiều khi giáo viên trả lời thay cho học sinh. Vấn đề này được thể hiện rõ trong hoạt động quan sát tranh ảnh, thảo luận nhóm, giáo viên chỉ biết nêu ra câu hỏi mà không gợi ý, không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi như thế nào. Vì không có câu hỏi gợi mở để giải quyết vấn đề nên học sinh không trả lời được,...
* Thực trạng việc học của học sinh
Học sinh thường trả lời câu hỏi do giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc nguyên xi sách giáo khoa để trả lời câu hỏi, học sinh cá biệt còn lười học thậm chí không ghi bài, không chuẩn bị bài mới ở nhà, trên lớp không tập trung suy nghĩ cho nên việc ghi nhận các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu. Bởi vậy học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, so sánh, giải thích, thì học sinh trả lời còn lúng túng hoặc mang tính chất chung chung, không rõ ràng.
2.2.3. Số liệu điều tra cụ thể
Trong năm học 2016 – 2017 tôi được Ban lãnh đạo nhà trường phân công giảng dạy môn Công Ngệ 10. Trong quá trình giảng dạy và tiếp cận học sinh lớp 10, với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh đồng thời tôi tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra hiện thực thông qua sử dụng đồ dùng trực quan, thảo luận, hỏi đáp để phát triển tư duy học sinh ở trên lớp.Việc đánh giá học sinh qua kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết ... Từ kết quả kiểm tra tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi mang tính chất trình bày; còn những câu hỏi so sánh, giải thích, phân tích, đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng túng. Do vậy kết quả điều tra môn Công nghệ 10 cũng không cao, cụ thể được thể hiện qua bảng số liệu sau:
LỚP
SĨ SỐ
GIỎI
KHÁ
T. BÌNH
YẾU
KÉM
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10A1
37
01
2,7%
12
32,4%
22
59,5%
02
5,4%
0
0%
10A2
40
01
2,5%
15
37,5%
22
55%
02
5%
0
0%
10A3
38
0
0%
12
31,6%
23
60,5%
03
7,9%
0
0%
10A4
40
0
0%
10
25%
26
65%
04
10%
0
0%
10A5
37
0
0%
11
29,7%
22
59,5%
04
10,8%
0
0%
10A6
35
0
0%
6
17%
22
63%
07
20%
0
0%
10A7
38
01
2,65%
15
39,75%
20
52,3%
02
5,3%
0
0%
2.3. Giải quyết vấn đề
2.3.1. Những nguyên tắc khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dÔ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu. Đồ dùng trực quan có nhiều loại. Mỗi loại lại có cách sử dụng riêng, nhưng phải chú ý các nguyên tắc cơ bản sau:
- Đồ dùng trực quan phải phù hợp với lứa tuổi, trình độ nhận thức của học sinh: Đồ dùng phải đơn giản, hấp dẫn và giúp học sinh lớp dưới hiểu ra ngay vấn đề, đối với học sinh lớp trên đồ dùng trực quan mang tính chất tổng hợp, gợi mở, tạo tình huống và giúp học sinh suy nghĩ sáng tạo.
- Đồ dùng trực quan phải mang tính khoa học, sư phạm. Chúng ta biết rằng đồ dùng dạy học có nhiều loại từ những loại đơn giản, thô sơ đến những cái phức tạp, hiện đại. Tất cả đồ dùng dạy học ấy, khi làm cũng như khi sử dụng phải đảm bảo tính khoa học, sư phạm và thích hợp với từng kỷ năng và giai đoạn học tiếng. Các đồ dùng trực quan tránh làm một cách hình thức mà phải cẩn thận, chu đáo có sự suy nghĩ kỹ cả về hình thức và nội dung. Cách bố trí, tạo hình dáng của đồ dùng trực quan phải đẹp, rõ ràng và nêu được vấn đề cụ thể, chữ viết trên các biểu đồ, sơ đồ phải to, rõ ràng. Tránh hết sức dùng nhiều màu sắc lòe loẹt, khó nhìn, các “poster” này phải được treo một cách ngay ngắn và bố trí khoa học ở trên bảng.
- Không nên dùng những đồ dùng dạy học thay thế cho sự suy nghĩ sáng tạo của học sinh, chỉ dùng những dụng cụ trực quan cho những vấn đề “chịu trực quan” thôi.
- Nếu sử dụng tốt những đồ dùng trực quan ở một giờ tiếng Anh trên lớp, học sinh sẽ nắm bắt ngữ liệu, cấu trúc nhanh hơn dễ hiểu bài hơn, yêu thích môn học hơn và đặc biệt những tranh ảnh đẹp, các bảng sơ đồ, tổng kết, kẻ viết rõ và đẹp, các đồ dùng trực quan được chọn lọc hấp dẫn sẽ nâng cao trình độ thẩm mỹ cho học sinh.
- Một nguyên tắc nữa là đồ dùng trực quan phải mang tính chất thông dụng có nghĩa là phải dễ làm, dễ sử dụng, rẻ tiền, dễ kiếm, và sử dụng được lâu. Trên cơ sở đó chúng ta tránh được tư tưởng ngại khó, ỷ lại, sợ tốn kém, thiếu sáng tạo khi áp dụng nguyên tắc đảm bảo tính trực quan trong giảng dạy ngoại ngữ ở trường phổ thông.
2.3.2. Vai trò của dụng cụ trực quan
Như đã được đề cập ở trên, dụng cụ trực quan đóng một vai trò hỗ trợ tích cực trong việc dạy môn công nghệ 10, cụ thể tôi đã sử dụng đồ dùng dạy học với những vai trò sau đây:
- Sử dụng tranh ảnh trong việc giảng dạy các khái niệm mới và giới thiệu các đặc tính, tính chất của cây giống, đất trồng, con giống. vật liệu chăn nuôi – trồng trọt,VD: Bài 1 – Công nghệ 10: “Khảo nghiệm giống cây trồng”, Bài 7 – Công nghệ 10: “Một số tính chất của đất trồng”
- Sử dụng phương tiện giới hạn và khống chế sử dụng phạm vi nghiên cứu của học sinh trong các bài có những kiến thức rộng, cao hơn cấp bậc học THPT. VD: Trong Bài 6 – Công nghệ 10: “Ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô tế bào trong nhân giống cây trồng nông, lâm nghiệp”
- Tạo tiền đề, làm cơ sở cho các bài tập thực hành. VD: Thảo luận qua tranh, phim ảnh để từ đó nhận biết được các dấu hiệu trên cây trồng, vật nuôi, thủy sản, ứng dụng trong đời sống thực tế của các em. VD; Bài 16 – Công nghệ 10: Thực hành nhận biết một số loại sâu hại lúa”
- Phản ánh, cung cấp các thông tin nội dung văn hóa giúp học sinh mở mang kiến thức và hiểu biết thế giới quanh mình từ đó gây hứng thú, làm cho bài học trở nên thú vị và gần với cuộc sống thật hơn. 
2.3.3. Cách khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan
Học sinh rất thích xem tranh ảnh, vì vậy giáo viên phải làm nổi nội dung tranh ảnh để gây hứng thú cho học sinh, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_su_dung_do_dung_truc_quan_trong_giang_day_c.doc