SKKN Phân loại một số dạng bài về phản ứng của các chất với nước trong ôn thi đại học và học sinh giỏi
Hóa học không phải là quá trình được dạy, là sự tiếp nhận một cách thụ động những tri thức hoá học mà chủ yếu là quá trình học sinh tự học, tự nhận thức, tự khám phá, tìm tòi các tri thức hoá học một cách chủ động, tích cực, là quá trình tự phát hiện vấn đề và giải quyết các vấn đề. Khi học sinh hiểu được bản chất sâu xa của các quá trình hóa học và biết cách giải thích các quá trình này thì tự bản thân các em sẽ hình thành niềm đam mê khám phá, có tình yêu với bộ môn hóa học. Chính từ nhu cầu này đòi hỏi các thầy cô giáo trong quá trình dạy học cần xây dựng cho học sinh cách khám phá, giải thích đơn giản, nhanh gọn các bản chất hóa học, hình thành cho các em cách tiếp nhận kiến thức một cách chủ động. Trong xu hướng thi cử hiện tại của Bộ giáo dục là thi theo hình thức trắc nghiệm rất nhiều học sinh đã lựa chọn cho mình hình thức nhớ máy móc các kiến thức hóa học, chỉ hướng vào rèn luyện tốc độ làm bài mà không quan tâm nhiều đến bản chất hóa học. Xu hướng trên cũng tương đối phù hợp với xu thế thi cử hiện tại nhưng mô hình chung lại biến học sinh thành những cái máy nhớ mà không hiểu nhiều về bản chất, nhiều trường hợp sẽ gặp khó khăn khi có các câu hỏi khai thác về bản chất hóa học. Vì vậy, việc cân bằng giữa rèn luyện kĩ năng, tốc độ với tìm hiểu, phân tích bản chất vấn đề là nhu cầu rất cấp thiết khi giảng dạy bộ môn hóa học phổ thông.
Trong nội dung chương trình hoá học phổ thông có nhiều phần kiến thức khó mà học sinh không tự lĩnh hội hết kiến thức. Vì vậy giáo viên cần có những phương pháp giúp học sinh nắm vững và đặc biệt là vận dụng kiến thức tốt hơn.
Trong quá trình giảng dạy và ôn thi tôi nhận thấy phần kiến thức về phản ứng của các chất với nước xuất hiện ở nhiều mảng kiến thức và đều chứa đựng rất nhiều bản chất hóa học. Phản ứng với nước có thể là quá trình trực tiếp tạo sản phẩm hoặc là phản ứng mở đầu cho một chu trình gồm một số phản ứng hóa học. Học sinh khi nghiên cứu về phần kiến thức này thường chỉ nhớ một vài trường hợp cụ thể mà không có cái nhìn tổng hợp về những chất có phản ứng với nước. Nhiều giáo viên khi giảng dạy cũng chỉ cung cấp cho học sinh phương trình hóa học cụ thể mà không giải thích rõ để các em hiểu vì sao có phản ứng như vậy. Chính vì không hiểu rõ bản chất vấn đề nên nhiều tình huống bài tập tương đối dễ dàng bị học sinh giải quyết sai, ảnh hưởng khá nhiều đến thành tích của các em. Xuất phát từ nhu cầu trên tôi thấy cần phải tổng hợp kiến thức về phản ứng của các chất với nước thành dạng bài cụ thể để học sinh dễ dàng nắm bắt dạng bài, có thể hình thành được tư duy giải thích bản chất vấn đề.
A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: Hóa học không phải là quá trình được dạy, là sự tiếp nhận một cách thụ động những tri thức hoá học mà chủ yếu là quá trình học sinh tự học, tự nhận thức, tự khám phá, tìm tòi các tri thức hoá học một cách chủ động, tích cực, là quá trình tự phát hiện vấn đề và giải quyết các vấn đề. Khi học sinh hiểu được bản chất sâu xa của các quá trình hóa học và biết cách giải thích các quá trình này thì tự bản thân các em sẽ hình thành niềm đam mê khám phá, có tình yêu với bộ môn hóa học. Chính từ nhu cầu này đòi hỏi các thầy cô giáo trong quá trình dạy học cần xây dựng cho học sinh cách khám phá, giải thích đơn giản, nhanh gọn các bản chất hóa học, hình thành cho các em cách tiếp nhận kiến thức một cách chủ động. Trong xu hướng thi cử hiện tại của Bộ giáo dục là thi theo hình thức trắc nghiệm rất nhiều học sinh đã lựa chọn cho mình hình thức nhớ máy móc các kiến thức hóa học, chỉ hướng vào rèn luyện tốc độ làm bài mà không quan tâm nhiều đến bản chất hóa học. Xu hướng trên cũng tương đối phù hợp với xu thế thi cử hiện tại nhưng mô hình chung lại biến học sinh thành những cái ²máy nhớ² mà không hiểu nhiều về bản chất, nhiều trường hợp sẽ gặp khó khăn khi có các câu hỏi khai thác về bản chất hóa học. Vì vậy, việc cân bằng giữa rèn luyện kĩ năng, tốc độ với tìm hiểu, phân tích bản chất vấn đề là nhu cầu rất cấp thiết khi giảng dạy bộ môn hóa học phổ thông. Trong nội dung chương trình hoá học phổ thông có nhiều phần kiến thức khó mà học sinh không tự lĩnh hội hết kiến thức. Vì vậy giáo viên cần có những phương pháp giúp học sinh nắm vững và đặc biệt là vận dụng kiến thức tốt hơn. Trong quá trình giảng dạy và ôn thi tôi nhận thấy phần kiến thức về phản ứng của các chất với nước xuất hiện ở nhiều mảng kiến thức và đều chứa đựng rất nhiều bản chất hóa học. Phản ứng với nước có thể là quá trình trực tiếp tạo sản phẩm hoặc là phản ứng mở đầu cho một chu trình gồm một số phản ứng hóa học. Học sinh khi nghiên cứu về phần kiến thức này thường chỉ nhớ một vài trường hợp cụ thể mà không có cái nhìn tổng hợp về những chất có phản ứng với nước. Nhiều giáo viên khi giảng dạy cũng chỉ cung cấp cho học sinh phương trình hóa học cụ thể mà không giải thích rõ để các em hiểu vì sao có phản ứng như vậy. Chính vì không hiểu rõ bản chất vấn đề nên nhiều tình huống bài tập tương đối dễ dàng bị học sinh giải quyết sai, ảnh hưởng khá nhiều đến thành tích của các em. Xuất phát từ nhu cầu trên tôi thấy cần phải tổng hợp kiến thức về phản ứng của các chất với nước thành dạng bài cụ thể để học sinh dễ dàng nắm bắt dạng bài, có thể hình thành được tư duy giải thích bản chất vấn đề. Qua thực tế giảng dạy bồi dưỡng học sinh tôi nhận thấy kết quả học tập của học sinh đã được nâng cao hơn, nhiều học sinh đã yêu thích môn hoá học hơn. Đa phần các em học sinh sau khi được phân loại dạng bài đã nắm bắt được kiến thức và vận dụng giải quyết các câu trắc nghiệm có liên quan. Chính vì vậy tôi mạnh dạn đề xuất một kinh nghiệm nhỏ: “Phân loại một số dạng bài về phản ứng của các chất với nước trong ôn thi đại học và học sinh giỏi” II. Mục đích nghiên cứu: Thực hiện sáng kiến này nhằm mục đích: - Khẳng định tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy. - Giúp học sinh biết cách tư duy, giải thích bản chất của các quá trình hóa học mà không phải là quá trình tiếp thu thụ động, nhớ máy móc. - Nâng cao kết quả thi của học sinh trong các kì thi. III. Phương pháp: - Nghiên cứu tài liệu, sưu tầm các tài liệu phục vụ viêc soạn thảo. - Thực nghiệm trong giảng dạy. B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ THUYẾT: Để có thể thuận lợi trong việc nghiên cứu dạng bài này học sinh cần nắm vững một số kiến thức hóa học sau: - Các kim loại có thể tác dụng với nước ở điều kiện thường bao gồm: kim loại nhóm IA, một số kim loại nhóm IIA (Ca, Sr, Ba). Khi cho các kim loại này tác dụng với dung dịch muối thì các kim loại này sẽ có phản ứng với nước trước, còn khi cho tác dụng với dung dịch axit thì các kim loại này sẽ phản ứng với axit trước. - Các oxit bazơ của một số kim loại mạnh, có khả năng tác dụng với nước ở điều kiện thường thì khi cho vào nước có thể tác dụng với nước tạo thành dung dịch kiềm tương ứng. - Các chất chứa một số liên kết không bền như: chức este, cầu peptit hoặc liên kết -CO-NH- thường dễ bị thủy phân trong môi trường axit hoặc môi trường kiềm, các chất chứa liên kết p thường dễ tham gia phản ứng cộng. - Một số hiđroxit lưỡng tính có thể dễ dàng tan trong dung dịch kiềm như: Al(OH)3 + NaOH → NaAlO2 + 2H2O Hoặc Al(OH)3 + NaOH → Na[Al(OH)4] Zn(OH)2 + 2NaOH → Na2ZnO2 + 2H2O II. PHÂN LOẠI CÁC DẠNG BÀI TẬP VÀ ÁP DỤNG: Dạng bài tập về phản ứng với nước là dạng bài tập đòi hỏi có sự tổng hòa rất nhiều vùng kiến thức khác nhau nên trong quá trình dạy học giáo viên cần xây dựng cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản đầy đủ, kĩ càng. Dưới đây là một số dạng bài, cách áp dụng cụ thể và các bài tập tương tự dựa trên các yêu cầu của đề ra trong các đề thi trắc nghiệm hoặc đề thi học sinh giỏi để học sinh nghiên cứu và vận dụng. Dạng 1: Vận dụng phản ứng với nước để giải thích bản chất hóa học của một số quá trình. Trong quá trình giảng dạy có một số trường hợp khiến học sinh phân vân không biết vì sao sản phẩm lại khác nhau hoặc không biết tại sao quá trình lại tạo ra sản phẩm như vậy, cụ thể như sau: *Trường hợp 1: Tại sao phản ứng thủy phân este trong môi trường axit là phản ứng thuận nghịch thường tạo sản phẩm là axit và ancol còn phản ứng thủy phân este trong môi trường kiềm lại là phản ứng một chiều thường tạo sản phẩm là muối và ancol? Giải quyết vấn đề: - Trong môi trường axit xảy ra phản ứng như sau: RCOOR1 + H2O RCOOH + R1OH Do axit có thể tác dụng với ancol để tạo este nên phản ứng xảy ra theo cả 2 chiều thuận nghịch. - Trong môi trường kiềm thì phản ứng xảy ra như sau: RCOOR1 + H2O RCOOH + R1OH + RCOOH + NaOH → RCOONa + H2O RCOOR1 + NaOH → RCOONa + R1OH Do phản ứng không còn axit để tham gia phản ứng với ancol nên phản ứng chỉ xảy ra theo một chiều duy nhất. *Trường hợp 2: Tại sao phản ứng của nhôm với dung dịch kiềm lại có sự tham gia của H2O trong khi phản ứng của Zn với dung dịch kiềm lại không có H2O? Giải quyết vấn đề: - Khi Al tác dụng với dung dịch kiềm thì: Al + 3H2O → Al(OH)3 + 3/2H2 + Al(OH)3 + NaOH → NaAlO2 + 2H2O Al + NaOH + H2O → NaAlO2 + 3/2H2 - Khi cho Zn tác dụng với dung dịch kiềm thì: Zn + 2H2O → Zn(OH)2 + H2 + Zn(OH)2 + 2NaOH → Na2ZnO2 + 2H2O Zn + 2NaOH → Na2ZnO2 + H2 *Trường hợp 3: Phản ứng sau: SO2 + Na2CO3 → Na2SO3 + CO2 có xảy ra không? Giải quyết vấn đề: SO2 + H2O H2SO3 + H2SO3 + Na2CO3 → Na2SO3 + CO2 + H2O SO2 + Na2CO3 → Na2SO3 + CO2 *Trường hợp 4: Nêu hiện tượng xảy ra trong một số thí nghiệm - Sục khí Cl2 vào dung dịch Na2CO3 2Cl2 + 2H2O 2HCl + 2HClO + 2HCl + Na2CO3 → 2NaCl + CO2 + H2O 2Cl2 + H2O + Na2CO3 → 2NaCl + 2HClO + CO2↑ Hiện tượng: Mất màu vàng lục của khí Cl2 và có bọt khí CO2 sủi lên. - Cho SO3 tác dụng với dung dịch BaCl2 SO3 + H2O → H2SO4 + H2SO4 + BaCl2 → BaSO4↓ + 2HCl SO3 + H2O + BaCl2 → BaSO4↓ + HCl Hiện tượng: Có kết tủa trắng của BaSO4. - Sục khí CO2 tới dư vào dung dịch NaAlO2 NaAlO2 → Na+ + AlO2- CO2 + H2O H2CO3 + H2CO3 HCO3- + H+ H+ + AlO2- + H2O → Al(OH)3 NaAlO2 + CO2 + 2H2O → Al(OH)3↓ + NaHCO3 Hiện tượng: Có kết tủa keo trắng. - Cho dung dịch AlCl3 tới dư vào dung dịch NaAlO2 3NaAlO2 → 3Na+ + 3AlO2- AlCl3 → Al3+ + 3Cl- + Al3+ + 6H2O → Al(OH)3 + 3H3O+ 3H3O+ + 3AlO2- → 3Al(OH)3↓ 3NaAlO2 + AlCl3 + 6H2O → 4Al(OH)3↓ + 3NaCl Hiện tượng: Có kết tủa keo trắng. - Cho dung dịch NH4Cl vào dung dịch NaAlO2 NaAlO2 → Na+ + AlO2- NH4Cl → NH4+ + Cl- + NH4+ + H2O NH3 + H3O+ H3O+ + AlO2- → Al(OH)3↓ NaAlO2 + NH4Cl + H2O → NH3↑ + NaCl + Al(OH)3↓ Hiện tượng: Có kết tủa keo trắng và khí mùi khai. - Cho kim loại có thể tác dụng với nước ở điều kiện thường (kim loại nhóm IA, Ca, Sr, Ba) vào dung dịch muối 2Na + 2H2O → 2NaOH + H2 + CuSO4 + 2NaOH → Cu(OH)2 + Na2SO4 2Na + 2H2O + CuSO4 → Cu(OH)2↓ + Na2SO4 + H2↑ Hiện tượng: Có kết tủa màu xanh lam và sủi bọt khí H2. *Trường hợp 5: Đếm số lượng các phản ứng xảy ra Ví dụ 1: Cho BaO vào dung dịch H2SO4 loãng thu được kết tủa X và dd Y, lọc kết tủa cho dd NaHCO3 vào dd Y lại thấy có kết tủa. Nếu thêm Al dư vào dd Y thấy có khí bay ra và thu được dd Z. Cho Na2CO3 vào Z thấy có kết tủa. Số phản ứng đã xảy ra trong các thí nghiệm trên là: A. 6 B. 3 C. 5 D. 4. Giải quyết vấn đề: Vì dung dịch Y có thể tác dụng với NaHCO3 tạo kết tủa nên ban đầu phản ứng xảy ra là: BaO + H2SO4 → BaSO4 + H2O BaO + H2O → Ba(OH)2 2NaHCO3 + Ba(OH)2 → Na2CO3 + BaCO3↓ + 2H2O Khi cho Al vào dung dịch sau phản ứng: Al + 3H2O → Al(OH)3 + 3/2H2 2Al(OH)3 + Ba(OH)2 → Ba(AlO2)2 + 4H2O Na2CO3 + Ba(AlO2)2 → BaCO3↓ + 2NaAlO2 Vậy số phản ứng đã xảy ra là 6 Þ Chọn đáp án A. Ví dụ 2: Cho hỗn hợp gồm Al, Fe, Cu tác dụng hoàn toàn với dung dịch NaOH dư, sau phản ứng thu được dung dịch A, khí B và phần rắn C. Cho C tác dụng hết với dung dịch HNO3 đặc, vừa đủ, đun nóng thu được dung dịch X và khí NO2 (sản phẩm khử duy nhất). Thêm dung dịch NaOH tới dư vào dung dịch X thì thu được kết tủa Y. Số phản ứng đã xảy ra trong các thí nghiệm trên là: A. 5 B. 8 C. 6 D. 7. Giải quyết vấn đề: Các phản ứng đã xảy ra Al + 3H2O → Al(OH)3 + 3/2H2 Al(OH)3 + NaOH → NaAlO2 + 2H2O Fe + 6HNO3 → Fe(NO3)3 + 3NO2 + 3H2O Cu + 4HNO3 → Cu(NO3)2 + 2NO2 + 2H2O Fe(NO3)3 + 3NaOH → Fe(OH)3 + 3NaNO3 Cu(NO3)2 + 2NaOH → Cu(OH)2 + 2NaNO3 Vậy số phản ứng là 6 Þ Chọn đáp án C. *Trường hợp 6: Dùng trong bài nhận biết hoặc xác định sản phẩm Ví dụ 1: Có 5 mẫu kim loại: Ba, Mg, Fe, Ag, Al. Nếu chỉ dùng dung dịch H2SO4 loãng (không dùng thêm bất cứ chất nào khác kể cả quỳ tím và nước nguyên chất) thì số kim loại có thể nhận biết được tối đa là: A. Cả 5 kim loại B. Ba và Ag C. Ba, Ag, Fe D. Ba, Ag và Al. Giải quyết vấn đề: Lần lượt cho các mẫu kim loại vào các ống nghiệm chứa dung dịch H2SO4 thì nhận thấy: mẫu Ba tan tạo kết tủa trắng và sủi bọt khí, mẫu Ag không tan, 3 mẫu còn lại đều tan và tạo khí. Ba + H2SO4 → BaSO4↓ + H2↑ Mg + H2SO4 → MgSO4 + H2↑ Fe + H2SO4 → FeSO4 + H2↑ 2Al + 3H2SO4 → Al2(SO4)3 + 3H2↑ Cho Ba dư vào ống chứa dung dịch H2SO4 loãng, sau phản ứng lọc bỏ kết tủa ta thu được dung dịch Ba(OH)2 Ba + H2SO4 → BaSO4↓ + H2 Ba(dư) + 2H2O → Ba(OH)2 + H2 Cho dung dịch Ba(OH)2 dư vừa điều chế được vào 3 dung dịch muối trên thì: - Muối tác dụng tạo kết tủa trắng là MgSO4 MgSO4 + Ba(OH)2 → Mg(OH)2↓ + BaSO4↓ - Muối tác dụng tạo kết tủa trắng xanh, sau đó hóa nâu khi để trong không khí là FeSO4 FeSO4 + Ba(OH)2 → Fe(OH)2↓ + BaSO4↓ 4Fe(OH)2 + O2 + 2H2O → 4Fe(OH)3↓ - Muối tác dụng tạo kết tủa trắng sau đó kết tủa tan lại một phần là Al2(SO4)3 Al2(SO4)3 + 3Ba(OH)2 → 2Al(OH)3↓ + 3BaSO4↓ 2Al(OH)3 + Ba(OH)2 → Ba(AlO2)2 + 4H2O Vậy ta nhận biết được cả 5 mẫu kim loại Þ Chọn đáp án A. Ví dụ 2: Hỗn hợp X chứa Na2O, NH4Cl, NaHCO3 và BaCl2 có số mol mỗi chất đều bằng nhau. Cho hỗn hợp X vào H2O (dư), đun nóng thì dung dịch thu được chứa sản phẩm là: A. NaCl, NaOH, BaCl2 B. NaCl, NaOH C. NaCl, NaHCO3, NH4Cl, BaCl2 D. NaCl. Giải quyết vấn đề: Giả sử trong hỗn hợp X thì số mol mỗi chất đều là 1 mol. Khi cho hỗn hợp X vào nước dư thì xảy ra phản ứng: Na2O + H2O → 2NaOH 1(mol) 2(mol) NH4Cl + NaOH → NaCl + NH3↑ + H2O 1(mol) 1(mol) NaHCO3 + NaOH → Na2CO3 + H2O 1(mol) 1(mol) 1(mol) BaCl2 + Na2CO3 → BaCO3↓ + 2NaCl 1(mol) 1(mol) Như vậy dung dịch sau phản ứng chỉ còn NaCl Þ Chọn đáp án D. *Trường hợp 7: Nhận xét về vai trò của các chất Ví dụ: Khi cho một mẩu nhôm vào dung dịch NaOH dư thì nhận xét đúng là: A. Nhôm không có phản ứng với NaOH do hiđroxit của nhôm kết tủa B. Nhôm tan trong dung dịch NaOH, sau phản ứng chỉ thu được dung dịch C. Có phản ứng xảy ra và NaOH là chất oxi hóa D. Có phản ứng xảy ra và H2O là chất oxi hóa. Giải quyết vấn đề: Khi cho Al vào dung dịch NaOH thì phản ứng xảy ra là: Al + 3H2O → Al(OH)3 + 3/2H2 + Al(OH)3 + NaOH → NaAlO2 + 2H2O Al + NaOH + H2O → NaAlO2 + 3/2H2 Như vậy ta thấy H2O là chất oxi hóa, còn NaOH chỉ tham gia phản ứng trao đổi hòa tan Al(OH)3 Þ Chọn đáp án D. *Trường hợp 8: Phản ứng của peptit hoặc các hợp chất chứa cầu -CO-NH- với dung dịch axit hoặc dung dịch kiềm - Cho peptit tác dụng với dung dịch HCl: H2N-CH(R1)-CO-NH-CH(R2)-COOH + H2O → H2N-CH(R1)-COOH + H2N-CH(R2)-COOH + H2N-CH(R1)-COOH + HCl → ClNH3-CH(R1)-COOH H2N-CH(R2)-COOH + HCl → ClNH3-CH(R2)-COOH H2N-CH(R1)-CO-NH-CH(R2)-COOH + H2O + 2HCl → ClNH3-CH(R1)-COOH + ClNH3-CH(R2)-COOH - Cho peptit tác dụng với dung dịch NaOH: H2N-CH(R1)-CO-NH-CH(R2)-COOH + H2O → H2N-CH(R1)-COOH + H2N-CH(R2)-COOH + H2N-CH(R1)-COOH + NaOH → H2N-CH(R1)-COONa + H2O H2N-CH(R2)-COOH + NaOH → H2N-CH(R2)-COONa + H2O H2N-CH(R1)-CO-NH-CH(R2)-COOH + 2NaOH → H2N-CH(R1)-COONa + H2N-CH(R2)-COONa + H2O - Hợp chất caprolactam tác dụng với dung dịch NaOH: C=O (CH2)5 + H2O → H2N-(CH2)5-COOH NH + H2N-(CH2)5-COOH + NaOH → H2N-(CH2)5-COONa + H2O C=O (CH2)5 + NaOH → H2N-(CH2)5-COONa NH Dạng 2: Bài toán đốt cháy kim loại kiềm. *Lý thuyết: Kim loại kiềm là các kim loại có tính khử rất mạnh nên khi thực hiện phản ứng đốt cháy kim loại kiềm thì có 2 trường hợp có thể xảy ra: - Trường hợp 1: Đốt cháy kim loại kiềm trong khí oxi 4R + O2 → 2R2O 2R + O2 → R2O2 Chất rắn sau phản ứng có thể gồm: R2O, R2O2, R(dư) Nếu cho chất rắn này tác dụng với H2O dư thì: R2O + H2O → 2ROH 2R2O2 + 2H2O → 4ROH + O2↑ 2R + 2H2O → 2ROH + H2↑ - Trường hợp 2: Đốt cháy kim loại kiềm trong không khí 4R + O2 → 2R2O 2R + O2 → R2O2 6R + N2 → 2R3N Chất rắn sau phản ứng có thể gồm: R2O, R2O2, R(dư), R3N Nếu cho chất rắn này tác dụng với H2O dư thì: R2O + H2O → 2ROH 2R2O2 + 2H2O → 4ROH + O2↑ 2R + 2H2O → 2ROH + H2↑ R3N + 3H2O → 3ROH + NH3↑ *Ví dụ minh họa: Ví dụ 1: Đốt cháy hoàn toàn 1 mẩu Na trong không khí, sau phản ứng thu được chất rắn A. Hòa tan A trong H2O dư thu được dung dịch B và 4,48 lít hỗn hợp khí C (đktc) có tỉ khối so với H2 là 12,25. Để trung hòa dung dịch B cần 500 ml dung dịch HCl 2M. Tính khối lượng mỗi chất trong A. Giải quyết vấn đề: Do đốt cháy hoàn toàn nên Na đã phản ứng hết. Sau phản ứng thu được hỗn hợp khí C nên trong A chắc chắn có Na2O2, Na3N, có thể có Na2O 4Na + O2 → 2Na2O 2Na + O2 → Na2O2 6Na + N2 → 2Na3N Cho chất rắn A tác dụng với H2O thì: Na2O + H2O → 2NaOH 0,15(mol) 0,3(mol) 2Na2O2 + 2H2O → 4NaOH + O2↑ 0,2(mol) 0,4(mol) 0,1(mol) Na3N + 3H2O → 3NaOH + NH3↑ 0,1(mol) 0,3(mol) 0,1(mol) Cho dung dịch sau tác dụng với dung dịch HCl thì: NaOH + HCl → NaCl + H2O 1(mol) 1(mol) Giả sử hỗn hợp C có: x mol O2, y mol NH3 Từ giả thiết ta có: x= 0,1(mol); y= 0,1(mol) Vậy trong hỗn hợp A có: 9,3 gam Na2O; 15,6 gam Na2O2 và 8,3 gam Na3N. Ví dụ 2: Đốt cháy 15,6 gam một kim loại kiềm trong không khí một thời gian ta thu được 17,76 gam hỗn hợp chất rắn A. Cho A tác dụng hoàn toàn với H2O dư, đun nóng ta thu được dung dịch X và 1,792 lít khí Z (đktc) gồm 2 khí có khả năng làm xanh quỳ tím ẩm và có tỉ khối so với H2 là 4,75. Công thức của kim loại kiềm là: A. Na B. Rb C. K D. Li. Giải quyết vấn đề: Ta có: MZ = 9,5 → Z có H2 → trong A có kim loại kiềm dư Z có khả năng làm xanh quỳ tím ẩm nên có NH3 → trong A có muối nitrua Z có 2 khí nên trong A không có peoxit 4R + O2 → 2R2O 2a(mol) a(mol) 6R + N2 → 2R3N 0,12(mol) 0,04(mol) Cho A tác dụng với nước dư: R2O + H2O → 2ROH a(mol) 2R + 2H2O → 2ROH + H2↑ 0,08(mol) 0,04(mol) R3N + 3H2O → 3ROH + NH3↑ 0,04(mol) 0,04(mol) Giả sử trong Z có: x(mol) H2, y(mol) NH3 Từ giả thiết ta có: x= 0,04(mol) ; y= 0,04(mol) Vậy ta có: mR = 2a.R + 0,12R + 0,08R = 15,6 và mA = a.(2R + 16) + 0,08R + 0,04.(3R + 14) = 17,76 Giải hệ phương trình ta có: R = 39 → kim loại là K Þ Chọn đáp án C. Bài tập vận dụng: 1. Cho 0,2 mol Na cháy trong oxi dư thu được m gam chất rắn X. Hòa tan hết X trong nước thu được 0,025 mol O2. Giá trị của m là: A. 3,9 B. 5,4 C. 7 D. 7,8. 2. Đốt cháy hoàn toàn 1 mẩu Na trong không khí ta thu được hỗn chất rắn X. Cho X tác dụng hoàn toàn với H2O dư thu được dung dịch Y và 0,896 lít hỗn hợp khí Z (đktc) có tỉ khối so với H2 là 11,3125. Để trung hòa dung dịch Y cần 40 ml dung dịch H2SO4 2M. Tổng khối lượng các chất trong X là: A. 6,12 gam B. 5,19 C. 3,78 D. 4,45. 3. Đốt cháy m gam Na trong 7,28 lít O2 (đktc) đến hoàn toàn ta thu được chất rắn M. Cho M tác dụng hoàn toàn với H2O dư thu được dung dịch A và hỗn hợp khí B có tỉ khối so với H2 là 401/26. Để trung hòa hoàn toàn dung dịch A cần dùng vừa đủ 405 ml dung dịch HCl 2M. Giá trị của m và khối lượng của Na2O trong M là: A. 18,63 và 12,4 B. 18,63 và 6,2 C. 18,63 và 9,3 D. 18,4 và 12,4. Dạng 3: Phản ứng hiđrat hóa anken, ankin. *Lý thuyết: Anken và ankin có liên kết p nên có thể tham gia phản ứng cộng với nước (phản ứng hiđrat hóa) - Với anken: phản ứng hiđrat hóa xảy ra khi cho anken tác dụng với nước trong điều kiện có xúc tác là môi trường axit, đun nóng CH2=CH2 + HOH → CH3-CH2OH CH3-CH=CH2 + HOH CH3-CH(OH)CH3 (SPC) CH3-CH2-CH2OH (SPP) - Tổng quát: CnH2n + HOH → CnH2n+1OH + Nhận xét: - Anken đối xứng khi hiđrat hóa chỉ thu được 1 anken duy nhất, anken không đối xứng khi hiđrat hóa có thể thu được 2 sản phẩm chính phụ theo quy tắc Maccopnhicop ↔ nếu sau phản ứng hiđrat hóa một anken mà chỉ thu được 1 sản phẩm duy nhất thì anken đó là anken đối xứng. - Sau phản ứng hiđrat hóa anken thu được ancol no, đơn chức, mạch hở ↔ nếu một hiđrocacbon thực hiện phản ứng hiđrat hóa thu được ancol no, đơn chức, mạch hở thì hiđrocacbon đó là anken. - Với ankin: Phản ứng hiđrat hóa xảy ra khi cho ankin tác dụng với H2O trong điều kiện có xúc tác là HgSO4, 800C CHºCH + H2O → CH3CHO CH3-CºCH + H2O → CH3CO-CH3 CH3-CºC-CH3 + H2O → CH3-CH2CO-CH3 + Nhận xét: - Chỉ có axetilen khi hiđrat hóa tạo thành anđêhit, các ankin còn lại khi hiđrat hóa đều chỉ thu được xeton. - Sau phản ứng hiđrat hóa ankin thì cả ankin có liên kết ba đầu mạch dư lại và CH3CHO tạo ra đều có khả năng tác dụng với dung dịch AgNO3/NH3 nhưng với ankin có liên kết ba đầu mạch là phản ứng thế còn anđêhit là phản ứng tráng gương. *Ví dụ minh họa: Ví dụ 1: Đốt cháy hoàn toàn 7,84 lít hỗn hợp (đktc) gồm 2 hiđrocacbon X, Y và dẫn toàn bộ sản phẩm cháy hấp thụ hết vào dung dịch Ca(OH)2 thấy có 30 gam kết tủa và khối lượng dung dịch tăng 22,08 gam. Nếu tiến hành phản ứng hiđrat hóa của 2 hiđrocacbon trong điều kiện thích hợp ta thu được hỗn hợp 2 ancol no, đơn chức, mạch hở là đồng đẳng kế tiếp. Xác định công thức phân tử của X,Y. Giải quyết vấn đề: Do khi hiđrat hóa hỗn hợp 2 hiđrocacbon thu được hỗn hợp 2 ancol no, đơn chức, mạch hở là đồng đẳng kế tiếp → hỗn hợp hiđrocacbon gồm 2 anken là đồng đẳng kế tiếp nhau. Gọi công thức trung bình của hỗn hợp là: CnH2n 0,35(mol) Khi đốt cháy hoàn toàn hỗn hợp và cho sản phẩm hấp thụ hết vào dung dịch Ca(OH)2 thì khối lượng dung dịch tăng 22,08 gam nên ta có phương trình (44.0,35n + 18.0,35n) - 30 = 22,08 → n = 2,4 → hai anken là C2H4 và C3H6. Ví dụ 2: Hiđrat hóa hoàn toàn 0,5 mol hỗn hợp khí A gồm 2 hiđrocacbon mạch hở là đồng đẳng kế tiếp thu được hỗn hợp sản phẩm B. Cho B vào nước thấy tạo 350 gam dung dịch. Lấy 10 gam dung dịch này cho tác dụng với 70 ml dung dịch AgNO3 1M trong NH3 thu được kết tủa. Lọc kết tủa, đem phần nước lọc còn lại tác dụng với dung dịch NaBr dư thì thấy khối lượng kết tủa tăng thêm 9,4 gam. Tính số mol các chất trong hỗn hợp A. Giải quyết vấn đề: Do hiđrat hóa hỗn hợp hiđrocacbon mạch hở hoàn toàn tạo thành sản phẩm có phản ứng với dung dịch AgNO3/NH3 nên hiđrocacbon là ankin và có C2H2 Vì 2 hiđrocacbon là đồng đẳng kế tiếp nên chất còn lại là C3H4 CHºCH + H2O → CH3CHO 0,35(mol) 0,35(mol) CH3-CºCH + H2O → CH3CO-CH3 Cho 10 gam dung dịch tác dụng với dd AgNO3/NH3 CH3CHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O → CH3COOH + 2NH4NO3 + 2Ag 0,01(mol) 0,02(mol) AgNO3(dư) + NaBr → Ag
Tài liệu đính kèm:
- skkn_phan_loai_mot_so_dang_bai_ve_phan_ung_cua_cac_chat_voi.doc