SKKN Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, học sinh lớp chủ nhiệm hướng đến bốn trụ cột giáo dục của unesco, bằng cách phát triển năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo của học sinh
Tài sản lớn nhất của giáo viên là học sinh, đặc biệt là học sinh lớp chủ nhiệm. Sau mỗi khóa chủ nhiệm bản thân tôi nói riêng và các giáo viên chủ nhiệm nói chung lại viết tiếp kinh nghiệm chủ nhiệm của mình. Nhờ sự thành công trong các sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Nâng cao hiệu quả phong trào thi đua của lớp chủ nhiệm bằng cách phát huy tính tích cực của học sinh” của tôi đã được hội đồng khoa học nghành xếp loại B trong 2 năm học 2012-2013 và năm 2013-2014, tôi như được tiếp thêm sức mạnh để viết tiếp kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm mà tôi luôn tâm huyết, thành công. Sáng kiến của tôi được nhân rộng ở trường, được thực hiện hiệu quả ở nhiều khối lớp, nhiều lớp học sinh khác nhau, tôi thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với các giáo viên chủ nhiệm khác về cách vận dụng linh hoạt kinh nghiệm của tôi với đặc điểm từng lớp cụ thể. Kết quả, năm học 2015-2016 giáo viên chủ nhiệm lớp 11C3 cô Đỗ Thị Sáng đã rất thành công trong công tác chủ nhiệm và sáng kiến về công tác chủ nhiệm của cô được xếp loại B cấp nghành, còn năm học 2016-2017 giáo viên chủ nhiệm lớp 11A4 cô Vũ Thị Hương cũng rất thành công trong công tác chủ nhiệm và sáng kiến về công tác chủ nhiệm của cô được xếp loại C cấp nghành. Trong 2 năm trở lại đây, ngoài phát động phong trào thi đua bằng cách phát huy tính tích cực của học sinh, tôi còn tập trung, giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng khẳng định mình cho học sinh.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, học sinh lớp chủ nhiệm hướng đến bốn trụ cột giáo dục của UNESCO, bằng cách phát triển năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo của học sinh. Người thực hiện: Hoàng Ánh Vân Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh mực: Công tác chủ nhiệm THANH HOÁ NĂM 2018 MỤC LỤC Trang 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài..2->3 1.2. Mục đích nghiên cứu 3->4 1.3. Đối tượng nghiên cứu 5 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 5 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 5->6 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 6->7 2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 7 2.3.1.Nắm vững tình hình của lớp 7 2.3.2. Công tác giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm, hướng đến 4 trụ cột giáo dục của UNESCO, bằng cách phát triển năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo của học sinh. 7->14 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 2.4.1.Phân tích định tính 15 2.4.2.Phân tích định lượng 16 2.4.3. Ảnh hưởng của sáng kiến kinh nghiệm trong phong trào giáo dục của nhà trường . 17 2.4.4. Một vài kinh nghiệm của giáo viên chủ nhiệm. 17->18 3. Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận 18 3.2.Kiến nghị 18 Tài liệu tham khảo 19 1. Mở đầu Tài sản lớn nhất của giáo viên là học sinh, đặc biệt là học sinh lớp chủ nhiệm. Sau mỗi khóa chủ nhiệm bản thân tôi nói riêng và các giáo viên chủ nhiệm nói chung lại viết tiếp kinh nghiệm chủ nhiệm của mình. Nhờ sự thành công trong các sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Nâng cao hiệu quả phong trào thi đua của lớp chủ nhiệm bằng cách phát huy tính tích cực của học sinh” của tôi đã được hội đồng khoa học nghành xếp loại B trong 2 năm học 2012-2013 và năm 2013-2014, tôi như được tiếp thêm sức mạnh để viết tiếp kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm mà tôi luôn tâm huyết, thành công. Sáng kiến của tôi được nhân rộng ở trường, được thực hiện hiệu quả ở nhiều khối lớp, nhiều lớp học sinh khác nhau, tôi thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với các giáo viên chủ nhiệm khác về cách vận dụng linh hoạt kinh nghiệm của tôi với đặc điểm từng lớp cụ thể. Kết quả, năm học 2015-2016 giáo viên chủ nhiệm lớp 11C3 cô Đỗ Thị Sáng đã rất thành công trong công tác chủ nhiệm và sáng kiến về công tác chủ nhiệm của cô được xếp loại B cấp nghành, còn năm học 2016-2017 giáo viên chủ nhiệm lớp 11A4 cô Vũ Thị Hương cũng rất thành công trong công tác chủ nhiệm và sáng kiến về công tác chủ nhiệm của cô được xếp loại C cấp nghành. Trong 2 năm trở lại đây, ngoài phát động phong trào thi đua bằng cách phát huy tính tích cực của học sinh, tôi còn tập trung, giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng khẳng định mình cho học sinh. Năm học 2016-2017, tôi đã đưa 1 chuyến đò nữa sang sông thành công, thành công là vì các em đã trưởng thành, thành công là vì các em đã không phụ lòng mong mỏi của tôi, thành công là vì các em đã được trang bị cơ bản 4 trụ cột của UNESCO “ Học để biết. Học để làm. Học để tự khẳng định mình. Học để cùng chung sống”. Trong đó, tôi tâm đắc nhất với trụ cột “Học để chung sống”, vì tôi cảm thấy thành công nhất, bởi các em được hợp tác cùng nhau, được sáng tạo nhiều nhất, nhưng quan trọng nhất là các em dám ước mơ và khát vọng , có những em tưởng chừng như không thể đậu vào các trường trong khối quân đội, nhưng các em đã đậu với số điểm đáng mơ ước. Năm ngoái, sau khi tổng kết năm học tôi đã hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã chia sẻ và trao đổi trong sinh hoạt tại tổ, nhóm chuyên môn, và được hội đồng khoa học cấp trường đánh giá xếp loại A, và đề nghị gửi lên cấp nghành. Nhưng tôi chỉ xin để lại cấp trường vì tôi cảm thấy còn thiếu cái gì đó, thiếu kết quả thi THPT quốc gia, thiếu kết quả "Chung sống" của các em sau 1 năm ra trường, và tôi muốn áp dụng tiếp với một khóa học nữa, khóa học cuối cùng của ngôi trường mà tôi đã gắn bó gần 18 năm (vì hết năm học này trường tôi sẽ giải thể, sát nhập). Năm nay, sau khi nhận được nhiều ý kiến tích cực, từ phía các giáo viên chủ nhiệm khác, tôi nhận thấy vấn đề nghiên cứu của tôi thực sự đảm bảo tính ứng dụng, hiệu quả, khoa học và thực tiễn. Được hội đồng khoa học cấp trường xếp loại A, nên tôi hoàn thiện sáng kiến để gửi lên cấp nghành. Sau đây tôi xin chia sẻ một vài kinh nghiệm của mình trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, học sinh lớp chủ nhiệm hướng đến 4 trụ cột giáo dục của UNESCO, bằng cách phát triển năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo của học sinh. 1.1. Lí do chọn đề tài. Năm học 2016-2017 tôi chủ nhiệm lớp 12C1 và năm học 2017-2018 tôi chủ nhiệm lớp 10C1 . Nhờ tính hiệu quả của các phong trào thi đua, bằng cách phát huy tính tích cực của học sinh, mà tôi đã tổ chức ở các năm học trước nên các chỉ tiêu về học lực và hạnh kiểm, học sinh giỏi cấp tỉnh, học sinh đậu đại học tốp đầu, học sinh đạt 27,5 điểm đã tăng mạnh ở năm học 2016-2017. Nhưng các em lại đang rất lơ mơ, nhất là trong việc chọn trường, chọn nghề, mục tiêu phấn đấu bị bỏ ngỏ, không dám ước mơ, khát vọng. Nhất là năm học này, do trường tôi nằm trong diện giải thể, phụ huynh và học sinh không muốn lựa chọn trường tôi để thi vì không ổn định, nên hầu hết khóa học sinh lớp 10 năm nay, đều có lực học chậm, thiếu phương pháp học tập, không dám ước mở, còn nhiều em ý thức rèn luyện đạo đức lối sống chưa tốt, các em thường nói bậy trong lớp và coi đó là chuyện bình thường. Có quá nhiều việc tôi và lớp phải làm trong năm học này, với mục đích đưa lớp vào nền nếp, vươn lên trong học tập. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Khi nhận lớp chủ nhiệm, thì ai cũng muốn học sinh của mình biết cách học, biết cách chung sống, biết làm, biết khẳng định mình. Để đạt được các yếu tố trên thì vai trò của giáo viên chủ nhiệm hết sức quan trọng. Mỗi giáo viên chủ nhiệm có thể chọn mỗi cách làm khác nhau, nhưng đều chung mục đích, hoàn thành nhiệm vụ được giao và góp phần trong việc khẳng định thành tích năm học, của cá nhân, của lớp, của trường. Năm học này, hầu như cả giáo viên và học sinh trong trường đều có rât nhiều tâm trạng buồn, vui lẫn lộn khi chuẩn bị nhận quyết định giải thể trường, nên việc đầu tư viết sáng kiến kinh nghiệm không được sôi nổi như mọi năm. Chính vì thế những giáo viên chủ nhiệm lớp 10 như tôi, thay vì giáo dục các em từng bước qua ba năm cấp 3, tôi lại có mong muốn trang bị cơ bản ngay từ lớp 10 cho các em cả 4 trụ cột. Tôi muốn giáo dục các học sinh chủ nhiệm của tôi “Học để biết. Học để làm. Học để tự khẳng định mình. Học để cùng chung sống” ,tôi muốn khơi dạy ở các em năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo để các em có thể "Biết, làm, khẳng định mình và chung sống" vững trong xã hội này, để các em có thể hòa nhập, sánh vai cùng các bạn khi chuyển sang những ngôi trường có bề dày hơn trường tôi. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, với 2 năm áp dụng cho 2 khóa học sinh khác nhau, đó là lớp 12C1 năm học 2016-2017, lớp 10C1 năm học 2017-2018, tôi muốn chia sẻ một số kinh nghiệm về giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm hướng đến 4 trụ cột giáo dục của UNESCO bằng cách phát triển năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo của học sinh”. Bởi lẽ, "con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội". Bản chất, giá trị, nhân cách của các em được hình thành, nuôi dưỡng, khẳng định, thử thách trong các mối quan hệ đó. "Chung sống" là khả năng hòa nhập xã hội, kĩ năng giao tiếp, ứng xử... để tự thích nghi với mọi môi trường sống, các quan hệ phức tạp của con người trong quá trình sống để không bị tụt hậu, lạc lõng. Đây là hệ quả tất yếu của việc "biết", "làm". 1.4. Phương pháp nghiên cứu -Phương pháp phân tích so sánh, khảo sát thực tế: Sau hai năm làm công tác chủ nhiệm, năm học 2016-2017 lớp 12C1 và năm học 2017-2018 lớp 10C1, thăm dò, thu thập thông tin từ phía học sinh kết hợp với một số biện pháp sư phạm khác như thường xuyên thông qua giáo viên bộ môn để hiểu thêm học sinh lớp chủ nhiệm và mong muốn giáo viên bộ môn cũng hưởng ứng với phong trào của lớp, để thấy hiệu quả của phương pháp. -Phương pháp thống kế sử lý số liệu kết quả xếp loại học lực, hạnh kiểm, và kết quả thi học sinh giỏi cấp Tỉnh, đậu đại học tốp đầu 2016-2017 và 2017-2018. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Xuất phát từ lời dạy của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy người không biết mỏi”. Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng, phát triển, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, nhằm chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu dạy chữ, sang kết hợp hài hòa dạy người, từ chủ yếu năng nề về đối phó với thi cử sang học để biết, để sống và làm việc có hiệu quả. Trước chủ trương đón đầu sách giáo khoa mới, và qua nhiều lần tập huấn chuyên môn tại sở, bản thân tôi luôn được trang bị lý thuyết về 4 trụ cột giáo dục của UNESCO "Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Cả bốn trụ cột trên là một thể thống nhất, đầy đủ, toàn diện đáp ứng được và phù hợp với yêu cầu giáo dục, đào tạo con người trong thời đại ngày nay. “Học để biết” là mục đích đầu tiên của việc học. "Biết" là tiếp thu, mở mang, có thêm kiến thức về đời sống, tự nhiên, xã hội và con người. Nhờ học, con người có những hiểu biết phong phú, tự làm giàu kho tri thức khoa học của mình, tạo được vốn sống sâu sắc..."biết người", "biết mình", biết giao tiếp, ứng xử với nhau. "Học để làm" là mục đích tiếp theo của việc học. "Làm" là vận dụng kiến thức có được vào thực tế cuộc sống. Đây là mục đích thiết thực nhất của việc học "Học đi đôi với hành". Làm để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần phục vụ nhu cầu cuộc sống của bản thân và góp phần tạo nên của cải cho xã hội. Học mà không làm thì kiến thức có được không có ích, không bền vững, không được sàng lọc. “Học để chung sống”, "Chung sống" là khả năng hòa nhập xã hội, kĩ năng giao tiếp, ứng xử... để tự thích nghi với mọi môi trường sống, các quan hệ phức tạp của con người trong quá trình sống để không bị tụt hậu, lạc lõng “Học để tự khẳng định mình” Là mục đích sau cùng của việc học. "Tự khẳng định mình" là tạo được vị trí, chỗ đứng vững vàng trong xã hội, thể hiện sự tồn tại có ý nghĩa của cá nhân mình trong cuộc đời. Mỗi con người chỉ có thể khẳng định mình khi có hiểu biết, có năng lực hành động, có khả năng chung sống. Năng lực hợp tác là một trong những năng lực quan trọng góp phần hình thành kĩ năng học tập và kĩ năng xã hội cho HS Để phát triển năng lực sáng tạo, giáo viên phải sử dụng các phương pháp và công cụ sáng tạo trong suốt quá trình giáo dục. Thường xuyên đánh giá năng lực sáng tạo của học sinh qua ý tưởng và sản phẩm mà các em sáng tạo ra theo một số tiêu chí về tính mới, tính độc đáo và tính hữu ích Tiềm năng sáng tạo của học sinh là khác nhau, là riêng biệt, đòi hỏi giáo viên phải nắm bắt, khuyến khích động viên trong quá trình giáo dục . Ví dụ, giao cho học sinh luyện tập các bài tập thực hành để phát triển các kĩ năng sáng tạo liên quan đến các kĩ năng quan sát, khám phá, tò mò, tưởng tượng và tư duy sáng tạo. Bên cạnh đó, hình thành ở các em ý thức, thái độ tích cực và hứng thú sáng tạo. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Lớp 12C1, năm học 2016-2017 mặc dù là lớp 12 nhưng các em không dám ước mơ, dám khát vọng, ít dám thể hiện tài năng của mình. Lớp 10C1, năm học 2017-2018 của tôi, là lớp mũi nhọn khoa học tự nhiên của trường nhưng đầu vào có tới 22 học sinh học lực trung bình, 10 học sinh hạnh kiểm khá và trung bình, trên tổng số 42 học sinh. Hiện tượng đầu năm tồn tại ở lớp tôi là, nhiều em nữ hay nói xấu nhau trên facebook, và hay hẹn nhau ra nhà vệ sinh để đánh nhau bất lỳ lúc nào. Thường xuyên sử dụng mạng xã hội kể cả trong giờ học, một số em nữ đi học còn đánh son và đánh phấn. Những biểu hiện đó dẫn đến khoảng 1/2 học sinh trong lớp không xác định được mục tiêu học tập, do đó những học sinh này dễ cảm thấy mệt mỏi, chán ngán với việc học, với các em học chỉ mang tính chất đối phó. Là một giáo viên chủ nhiệm lâu năm, nhưng đôi lúc tôi cũng rất trăn trở, tôi cũng đã thử nhiều cách như kết hợp với phụ huynh, ban giám hiệu, ban nề nếp, nhưng nói chung các em chỉ thay đổi tại thời điểm đó, sau đó tiến bộ rất chậm. Chính vì đặc điểm của lớp như vậy nên tôi ý thức rõ ràng sự cần thiết phải hướng dẫn các em cách học, cách làm, cách tự khẳng định mình, cách cùng chung sống, đó là cách các em điều hòa các mối quan hệ trong cuộc sống hằng ngày và điều đó chỉ thực hiện được khi bản thân các em biết lắng nghe và thấu hiểu cùng các bạn, cũng là để phát triển năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo của học sinh, để các em giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đưa những học sinh chưa chăm học , ý thức chưa tốt, vươn lên hòa nhập với tập thể, từng bước nâng cao chất lượng hai mặt, chất lượng mũi nhọn, xứng đáng với sự mong mỏi của phụ huynh, niềm tin của nhà trường. 2.3. Các sáng kiến và giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1.Nắm vững tình hình của lớp1 -Tôi vẫn cho rằng nắm vững tình hình lớp là tiền đề cho mọi thành công của giáo viên chủ nhiệm, người giáo viên chủ nhiệm cần phải xác định được ngay từ đầu năm nhiệm vụ cơ bản của lớp trong năm học này là gì, và phải xếp theo thứ tự ưu tiên nữa. -Phải biết cách tổ chức sắp xếp lớp chặt chẽ, ban cán sự lớp phải hoạt động và hoạt động hiệu quả, xếp chỗ ngồi của từng học sinh hợp lý (các tốp học sinh ngồi đan xen nhau). Sau 1 tháng phải cho các tổ đổi chỗ nhưng vẫn đảm bảo giữ nguyên nhóm, dãy ngoài di chuyển vào trong. Phải nắm vững từng học sinh và theo dõi từng tuần, nếu có biểu hiện tiêu cực phải tìm hiểu và đưa ra giải pháp kịp thời. Tạo không khí trong lớp học để học sinh cảm thấy an toàn, yêu thương, hiểu, cảm thông. 2.3.2. Công tác giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm, hướng đến 4 trụ cột giáo dục của UNESCO, bằng cách phát triển năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo của học sinh. Để công tác giáo dục đạt hiệu quả tốt bằng cách phát triển năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo của học sinh,giáo viên tiến hành qua 3 bước sau: Bước 1: Thông qua môn học của mình, tập trung dạy cách học cho học sinh là chủ yếu, sau đó mới đến dạy kiến thức để hướng đến trụ cột “Học để biết”. Ngay từ đầu năm học lớp 10, để thu phục học sinh lớp chủ nhiệm một cách nhanh nhất là thông qua môn dạy của mình làm cho học sinh mong muốn được học giờ của cô chủ nhiệm. Việc đầu tiên tôi sẽ làm đề ra nội qui ra vào tiết dạy của mình, học sinh không được phép vào sau giáo viên, trừ trường hợp phụ huynh gọi điện báo cáo trước, hoặc các tình huống bất khả kháng. Nếu em nào vi phạm, sẽ bị phạt một hình phạt mà sau khi ra trường, mỗi lần họp lớp các em luôn cho rằng đó là kỷ niệm đáng nhớ nhất. Đó là, đứng trước lớp dõng dạc nói “ Ai cũng như tôi, lớp không còn nền nếp” 5 lần, nếu vi phạm lần tiếp theo sẽ được cộng thêm 5 lần nữa. Việc thứ 2 là qui định về vở viết và làm bài tập về nhà, tổ trưởng sẽ kiểm tra đầu buổi học có môn học của tôi. Việc thứ 3 là, giáo viên vào bài với một tâm lý thoải mái nhất, cho học sinh ghi ít nhất có thể, tập trung cho học sinh hoạt động ngay trên lớp, dạy học sinh cách học. Một tiết dạy của tôi thường chỉ có 2 hoạt động, một hoạt động nghiên cứu lý thuyết cơ bản, một hoạt động làm bài tập ở mức độ biết, hiểu. Còn mức vận dụng và vận dụng cao tôi áp dụng ở tiết học thêm buổi chiều. Để thực hiện được yêu cầu giáo viên phải thiết kế phiếu học tập khoa học, ngắn gọn, trọng tâm. Thực tế, ở lớp tôi năm học này tôi chia lớp làm 4 tổ tương ứng với 10 nhóm: Mỗi nhóm có 4 học sinh được chia đều theo các lực học khác nhau: 2 em học khá, giỏi và 2 em học trung bình. Một em làm nhóm trưởng, một em làm thư ký. Sau khi các nhóm nộp bài, tôi chấm bài xong, thì mời các nhóm vấn đáp với nhau. Ví dụ khi tôi mời nhóm số 1, thì nhóm số 1 đứng lên và hội ý với nhau là hỏi nhóm số 4 về một vấn đề nào đó nhóm 1 rất tâm đắc hoặc đang băn khoăn. Bài làm nhóm bao giờ tôi cũng chỉ cho tối đa 8 điểm khi nhóm đó có đầy đủ các thành viên tham gia tích cực, trao đổi, thảo luận về bài làm của mình, còn 2 điểm là điểm tôi cho sau khi các nhóm trao đổi, vấn đáp với nhau, tôi cho điểm cách hỏi và cách trả lời là chủ yếu chứ không phải kết quả của câu trả lời. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn phải theo dõi, phát hiện kịp thời các khó khăn của học sinh, như nhóm nào không biết hỏi như thế nào, tôi phải gợi ý cách hỏi hoặc hỏi các em có muốn trả lời câu hỏi phụ để lấy điểm không. Kết thúc buổi học nhóm nào cao điểm nhất, tôi sẽ chuyển thành điểm miệng của mỗi em. Ảnh 1: Chụp tại 1 tiết học môn Hóa học- lớp 10C1-Năm học 2017-2018(phụ lục) Riêng với tiết ôn thi trung học phổ thông quốc gia, tôi chỉ chia lớp thành 6 nhóm, 1 nhóm có 8 em học trội nhất lớp, nhóm này tôi kỳ vọng các em đạt từ 8 điểm trở lên môn Hóa, nên khi học lý thuyết các em di chuyển sang 5 nhóm còn lại để hỗ trợ, giảng bài cho các bạn, khi làm đề, các em quay về nhóm và làm đề ở mức độ khó hơn. Kết quả có 1 em Hoàng Vân Anh đạt 27,5 điểm (đậu khoa công nghệ thông tin trường đại học Bách Khoa Hà Nội), riêng môn Hóa em đạt 9,5 điểm, mặc dù em là học sinh đội tuyển Lý. Có 6 em đạt 9 điểm trở lên. Đây là năm đầu tiên trường tôi có học sinh đạt 27,5 điểm khối A, và em được vinh danh ở Huyện, Trường. Ảnh 2:Chụp giờ ôn thi THPTQG Hóa học-lớp12C1-2016-2017 (Phụ lục) Việc làm thứ 4 là phần kiểm tra đánh giá, phải công bằng, khách quan, rèn các em kỹ năng thi cử, tự lập, tự trang bị kiến thức, không quay bài, không gian lận. Nên khi kiểm tra định kỳ tại lớp, tôi luôn qui định, số thứ tự trong sổ điểm là số báo danh của mỗi em, trước mỗi tiết kiểm tra, bao giờ tôi cũng lên sớm 5 phút, để đánh số báo danh, học sinh để cặp sách lên bục giảng, và ngồi đúng vị trí số báo danh, cách làm này tránh tình trạng học sinh ỷ là mình ngồi cạnh bạn học tốt nên không cần ôn bài. Một năm, có 4 bài kiểm tra, là 4 lần các em ngồi ở các vị trí khác nhau. Tuy nhiên, giáo viên phải ra đề phù hợp với năng lực của các em, không đánh đố, thường xuyên đưa các câu hỏi vận dụng tình huống thực tế vào bài, để các em không phải học nặng về kiến thức, nhưng phải có câu hỏi phân hóa, điểm 9 và điểm 10. Sau khi trả bài kiểm tra tôi cảm nhận được niềm vui ở nhiều em vì cố gắng của em được đền đáp bằng điểm số xứng đáng, những em phải nuối tiếc vì những sai sót, tôi thường chọn cách phê tích cực để động viên các em. Ảnh 3,4:Chụp giờ kiểm tra môn Hóa học-10C1(17-18) và 12C1 (16-17)(Phụ lục) Bước 2: Giáo dục học sinh “Học để làm”, “Học để tự khẳng định mình”, bằng cách tổ chức thi đua ở tất cả các tình huống có thể tạo thành nền nếp trong các hoạt động tập thể cũng như các kỳ thi - Với tư duy, thế hệ học sinh mà tôi đang chủ nhiệm sẽ là những công dân đầu tiên phải hòa nhập với “Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”, mà báo chí đang nói trong suốt 1 năm qua. Nên tôi luôn yêu cầu học sinh phải tự học, tự tiến bộ, tự tư duy. Tôi luôn nhắc nhở các em rằng, phần thưởng cuối cùng dành cho các em không phải là bằng cấp, là điểm số, mà chính là giá trị các em tạo ra cho xã hội. Trong số các em, sẽ không ai bị mất việc, nhưng vấn đề nằm ở chỗ cách em có tự tạo ra giá trị của bản thân hay không. Chính vì thế, để phá bỏ giới hạn của bản thân, tôi luôn khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động tập thể, cũng như khả năng trình bày quan điểm của mình trước tập thể. Khuyến khích tất cả học sinh tham gia và lần lượt được là các hạt nhân chính, không nên chỉ tập trung vào một vài học sinh tích cực. - Tôi tổ chức thi đua ở tất cả các tình huống có thể tạo thành nền nếp trong các hoạt động tập thể ví dụ như các ngày lễ như: 20/11,8/3 & 26/3. Ví dụ 1: Tháng 11 năm 2017 Đoàn trường có phát động phong trào, viết báo tường và tham gia thi văn nghệ với chủ đề về thầy cô và mái trường, chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11 và hướng đến chào mừng 20 năm ngày thành lập trường Thứ nhất với phong trào viết báo tường, tôi đã tổ chức cho các em tìm hiểu truyền thống nhà trường, thi đua tự sáng tác các bài thơ, bài hát, truyện cười, ca ngợi thầy cô và mái trường, tình bạn bè, đồng thời tích cực học tập dành nhiều điểm cao, để chào
Tài liệu đính kèm:
- skkn_nang_cao_hieu_qua_cong_tac_giao_duc_hoc_sinh_lop_chu_nh.docx