SKKN Một vài kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ Địa Lý cho học sinh lớp 9 trường THCS Cẩm Quý

SKKN Một vài kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ Địa Lý cho học sinh lớp 9 trường THCS Cẩm Quý

- Trường THCS Cẩm Quý Là đơn vị đóng trên xã miền núi vùng cao, vùng đồng bào dân tộc ít người cư trú, kinh tế lại còn nhiều khó khăn vất vả quanh năm với rừng núi và đồng ruộng. Tôi là một giáo viên dạy môn Địa lý công tác trên địa bàn của xã, tôi nhận thức sâu sắc vị trí trách nhiệm trong việc giáo dục, rèn luyện tạo ra sản phẩm là tri thức, phẩm chất toàn diện của con người trong thời đại mới. Chính vì vậy nhiều năm qua bản thân tôi tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng về phương pháp Rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ Địa lý cho học sinh bậc học THCS để có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Kỹ năng này, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn Địa lý nói riêng và chất lượng giáo dục ở nhà trường THCS Cẩm Quý nói chung.

Trong các bài tập, các bài thực hành thì kỹ năng vẽ biểu đồ là một yêu cầu rất quan trọng của việc học tập môn Địa lí. Hoặc là các đề kiểm tra, đề thi học sinh giỏi môn Địa lí đều có hai phần lí thuyết và phần thực hành. Trong đó phần thực hành thường có những bài tập về vẽ và nhận xét biểu đồ chiếm khoảng 30 - 35% tổng số điểm của bài thi.

- Hiện nay trong chương trình đổi mới của sách giáo khoa Địa lí lớp 9 - gồm có 52 tiết học thì đã có 11 tiết thực hành trong đó có 6 tiết về vẽ biểu đồ và có khoảng 13 bài tập về rèn luyện kỹ năng vẽ và nhận xét biểu đồ sau các bài học của học sinh trong phần câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa. Điều đó chứng tỏ rằng bộ môn Địa lí lớp 9 hiện nay không chỉ chú trọng đến việc cung cấp cho học sinh những kiến thức lí thuyết mà còn giúp các em rèn luyện những kỹ năng địa lí cần thiết, đặc biệt như kỹ năng vẽ biểu đồ. Bởi thông qua biểu đồ các em đã thể hiện được mối liên hệ giữa những đối tượng địa lí đã học, thấy được tình hình, xu hướng phát triển của các đối tượng địa lí. hoặc từ biểu đồ đã vẽ các em cũng có thể phân tích, nhận xét, phát hiện tìm tòi thêm nội dung kiến thức mới trên cơ sở kiến thức của bài học.

- Theo quan sát và thăm dò của bản thân tôi thì nhiều em học sinh hiện nay đã học đến lớp 9 mà kỹ năng vẽ biểu đồ còn rất yếu hoặc kỹ năng này vẫn chưa được các em coi trọng. Chính vì vậy, bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy bộ môn Địa lí, tôi rất quan tâm đến việc củng cố, rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ cho học sinh - để giúp các em thực hiện kỹ năng này ngày càng tốt hơn.

 Chính vì những lí do trên tôi đã mạnh dạn nghiêm cứu đề tài: “Một vài kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ Địa Lý cho học sinh lớp 9 trường THCS Cẩm Quý”

 

doc 20 trang thuychi01 14222
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ Địa Lý cho học sinh lớp 9 trường THCS Cẩm Quý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
 Nội dung
Trang
1
I. MỞ ĐẦU
2
2
1. Lí do chọn đề tài
2
3
2. Mục đích nghiên cứu
2
4
3. Đối tượng nghiên cứu
2
5
4. Phương pháp nghiên cứu
3
6
II. NỘI DUNG
3
7
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
8
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
5
9
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
7
10
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
11
11
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 
12
12
1. Kết luận
12
13
2. Kiến nghị
13
14
Tài liệu tham khảo
14
15
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được xếp loại
15
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
 - Trường THCS Cẩm Quý Là đơn vị đóng trên xã miền núi vùng cao, vùng đồng bào dân tộc ít người cư trú, kinh tế lại còn nhiều khó khăn vất vả quanh năm với rừng núi và đồng ruộng. Tôi là một giáo viên dạy môn Địa lý công tác trên địa bàn của xã, tôi nhận thức sâu sắc vị trí trách nhiệm trong việc giáo dục, rèn luyện tạo ra sản phẩm là tri thức, phẩm chất toàn diện của con người trong thời đại mới. Chính vì vậy nhiều năm qua bản thân tôi tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng về phương pháp Rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ Địa lý cho học sinh bậc học THCS để có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Kỹ năng này, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn Địa lý nói riêng và chất lượng giáo dục ở nhà trường THCS Cẩm Quý nói chung.
Trong các bài tập, các bài thực hành thì kỹ năng vẽ biểu đồ là một yêu cầu rất quan trọng của việc học tập môn Địa lí. Hoặc là các đề kiểm tra, đề thi học sinh giỏi môn Địa lí đều có hai phần lí thuyết và phần thực hành. Trong đó phần thực hành thường có những bài tập về vẽ và nhận xét biểu đồ chiếm khoảng 30 - 35% tổng số điểm của bài thi.
- Hiện nay trong chương trình đổi mới của sách giáo khoa Địa lí lớp 9 - gồm có 52 tiết học thì đã có 11 tiết thực hành trong đó có 6 tiết về vẽ biểu đồ và có khoảng 13 bài tập về rèn luyện kỹ năng vẽ và nhận xét biểu đồ sau các bài học của học sinh trong phần câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa. Điều đó chứng tỏ rằng bộ môn Địa lí lớp 9 hiện nay không chỉ chú trọng đến việc cung cấp cho học sinh những kiến thức lí thuyết mà còn giúp các em rèn luyện những kỹ năng địa lí cần thiết, đặc biệt như kỹ năng vẽ biểu đồ. Bởi thông qua biểu đồ các em đã thể hiện được mối liên hệ giữa những đối tượng địa lí đã học, thấy được tình hình, xu hướng phát triển của các đối tượng địa lí. hoặc từ biểu đồ đã vẽ các em cũng có thể phân tích, nhận xét, phát hiện tìm tòi thêm nội dung kiến thức mới trên cơ sở kiến thức của bài học.
- Theo quan sát và thăm dò của bản thân tôi thì nhiều em học sinh hiện nay đã học đến lớp 9 mà kỹ năng vẽ biểu đồ còn rất yếu hoặc kỹ năng này vẫn chưa được các em coi trọng. Chính vì vậy, bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy bộ môn Địa lí, tôi rất quan tâm đến việc củng cố, rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ cho học sinh - để giúp các em thực hiện kỹ năng này ngày càng tốt hơn.
 Chính vì những lí do trên tôi đã mạnh dạn nghiêm cứu đề tài: “Một vài kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ Địa Lý cho học sinh lớp 9 trường THCS Cẩm Quý”
2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu việc rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ cho học sinh lớp 9 giúp cho giáo viên và học sinh có những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và học tập môn Địa lí nói chung, đồng thời củng cố, nâng cao việc rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ cho học sinh nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Kỹ năng vẽ biểu đồ địa lí của học sinh
4. Các phương pháp nghiên cứu:
 Đối với đề tài này tôi sử dụng các phương pháp.
1- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
2- Phương pháp quan sát: nhằm tìm hiểu việc rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ của học sinh trong giờ học.
3- Phương pháp điều tra: nhằm đánh giá thực trạng có bao nhiêu học sinh còn yếu - kém khi thực hành kỹ năng vẽ biểu đồ.
4- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: 
- Thông qua kết quả các bài kiểm tra có thể đánh giá chất lượng và hiệu quả các bài tập về kỹ năng vẽ biểu đồ của học sinh.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
1.1. Thế nào là biểu đồ? Biểu đồ để làm gì ?
- Biểu đồ là một hình vẽ cho phép mô tả một cách dễ dàng động thái phát triển của một hiện tượng (như sự tăng dân số của một quốc gia hay của một vùng nào đó qua các năm hay từng thời kỳ), mối tương quan về độ lớn giữa các đại lượng (như so sánh sản lượng lương thực giữa các vùng) hoặc cơ cấu thành phần của một tổng thể (ví dụ như cơ cấu của nền kinh tế).
Các loại biểu đồ rất phong phú, đa dạng. Mỗi loại biểu đồ lại có thể được dùng để biểu hiện nhiều chủ đề khác nhau, vì vậy, khi vẽ biểu đồ, việc đầu tiên là phải đọc kỹ đề bài để tìm hiểu chủ đề định thể hiện trên biểu đồ (thể hiện động thái phát triển, so sánh tương quan độ lớn hay thể hiện cơ cấu), sau đó căn cứ vào chủ đề đã được xác định để lựa chọn loại biểu đồ thích hợp nhất.
1.2. Khi rèn luyện kỹ năng về biểu đồ cần nắm được các dạng biểu đồ sau:
a) Vẽ biểu đồ hình cột (hoặc thang ngang):
Biểu đồ hình cột (hoặc thang ngang) có thể được sử dụng để biểu hiện động thái phát triển, so sánh tương quan về độ lớn giữa các đại lượng hoặc thể hiện cơ cấu thành phần của một tổng thể. Tuy nhiên, loại biểu đồ này thường hay được sử dụng để thể hiện tương quan về độ lớn giữa các đại lượng hơn cả.
Khi vẽ biểu độ cột (hoặc thanh ngang) cần chú ý những điểm sau đây:
+ Chọn kích thước biểu đồ (đặc biệt chú ý tới sự tương quan giữa chiều ngang và chiều cao của các cột) sao cho phù hợp với các khổ giấy và đảm bảo tính mĩ thuật.
+ Các cột chỉ khác nhau về độ cao còn bề ngang của cột phải bằng nhau.
b) Vẽ biểu đồ hình tròn :
Biểu đồ hình tròn thường được dùng để thể hiện cơ cấu thành phần của một tổng thể.
Khi vẽ biểu đồ hình tròn cần chú ý những điểm sau đây:
+ Nếu đề bài cho số liệu thô (số liệu tuyệt đối) thì việc đầu tiên phần xử lý sang số liệu tinh (tỉ lệ %).
+ Nếu phải vẽ nhiều hình tròn cần chú ý xem các hình tròn có cần thiết phải vẽ với độ lớn khác nhau hay không.
Cần lựa chọn các ký hiệu thích hợp để thể hiện các thành phần trên biểu đồ. Sau khi vẽ xong phải có chú giải, giải thích các ký hiệu sủ dụng trên biểu đồ.
c)Vẽ đồ đường (hay đường biểu diễn)
Đồ thị (đường biểu diễn) thường được sử dụng để thể hiện tiến trình, động thái phát triển của một hiện tượng qua thời gian.
Khi vẽ đồ thị (đường biểu diễn) cần chú ý những điểm sau:
Đường biểu diễn được vẽ trên hệ trục tọa độ vuông góc mà trục đứng thể hiện độ lớn của đại lượng (số người, sản lượng, tỉ lệ) còn trục hoành nằm ngang thể hiện các năm.
Cần xác định tỉ lệ thích hợp ở cả 2 trục sao cho biểu đồ phù hợp với khổ giấy, cân đối và thể hiện rõ yêu cầu của chủ đề.
Khi vẽ cần chia khoảng cách các năm trên trục ngang cho đúng tỉ lệ.
Nếu đề bài yêu cầu thể hiện 2 đường biểu diễn có đại lượng khác nhau (ví dụ: một đường thể hiện số dân, một đường thể hiện sản lượng lúa) thì vẽ 2 trục đứng ở 2 bên biểu đồ, mỗi trục thể hiện một đại lượng.
Nếu biểu đồ có nhiều đường biểu diễn, cần chọn tỉ lệ hợp lí để các đường biểu đồ khơi trùng lên nhau hoặc nằm quá sát nhau. Mỗi đường biểu diễn phải được thể hiện bằng một ký hiệu riêng, sau khi vẽ, cần có chú giải để giải thích các ký hiệu trên biểu đồ.
d)Vẽ biểu đồ miền:
Biểu đồ miền được sử dụng để thể hiện đồng thời cả 2 mặt cơ cấu và động thái phát triển của đối tượng.
Khi vẽ biểu đồ miền cần chú ý:
Ranh giới các miền được vẽ như khi vẽ các đường biểu diễn (đồ thị).
Giá trị của đại lượng trên trục đứng là tỉ lệ % (nếu để kiểm tra cho số liệu thô thì trước khi vẽ phải xử lí sang tỉ lệ %.
e)Vẽ biểu đồ kết hợp:
Biểu đồ kết hợp thường gồm một biểu đồ hình cột và một đường biểu diễn, để thể hiện động lực phát triển và tương quan về độ lớn giữa các đại lượng.
- Khi vẽ cần chú ý thể hiện rõ rệt nhất mối tương quan giữa hai loại biểu đồ được vẽ kết hợp. Với loại biểu đồ này mức độ có phức tạp hơn, trong các bài tập thực hành của SGK Địa lí 9 ít nói tới, xong giáo viên cũng nên biết và giới thiệu cho học sinh để củng cố, nâng cao kỹ năng vẽ biểu đồ cho các em.
- Các bước cần tiến hành khi vẽ biểu đồ:
Trước khi làm một bài tập thực hành về vẽ biểu đồ, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh tiến hành các thao tác, các bước, các công việc cụ thể để hoàn thành yêu cầu của bài thực hành.
Thông thường gồm 5 bước sau:
Bước 1: Nêu mục đích, yêu cầu của bài tập.
VD: Vẽ biểu đồ cơ cấu kinh tế nước ta.
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành các thao tác, các bước, các công việc cụ thể thùy thuộc vào nội dung bài tập.
VD: Phải xử lý số liệu thích hợp trước khi vẽ biểu đồ, chọn biểu đồ thích hợp với chuỗi số liệu, các bước cần thiết khi vẽ một dạng biểu đồ cụ thể.
Bước 3: Học sinh thực hiện các công việc theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Bước 4: Chú giải biểu đồ là khâu không thể thiếu khi đã vẽ xong biểu đồ
Bước 5: Tổng kết, đánh giá, nhận xét biểu đồ
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Những thuận lợi: 
Đa số học các tiết học thực hành về vẽ biểu đồ, học sinh đều có hứng thú tham gia học tập tốt, bới những giờ học này không nặng về kiến thức lý thuyết, mà chủ yếu rèn luyện cho học sinh kỹ năng thực hành. Thông qua những bài thực hành về vẽ biểu đồ học sinh sẽ thấy được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng địa lí đã học, thấy được xu hướng phát triển cũng như biết so sánh, phân tích đánh giá được sự phát triển của các sự vật, hiện tượng địa lý đã học. Đó cũng là một biện pháp rất tốt để các em ghi nhớ, củng cố kiến thức bài học cho mình.
Thông qua các bài tập thực hành về vẽ biểu đồ học sinh cũng có cơ hội để thể hiện khả năng của mình, các em không chỉ biết ghi nhớ, củng cố kiến thức lý thuyết đã học mà còn biết mô hình hóa các kiến thức đó thông qua cấc bài tập biểu đồ.
Bản thân người giáo viên giảng dạy môn địa lý khi thiết kế những bài tập thực hành về vẽ biểu đồ cho học sinh cũng nhẹ nhàng hơn, bới không nặng nề về nội dung kiến thức lý thuyết mà chủ yếu đi sâu về các bước tiến hành, dẫn dắt học sinh các thao tác để các em hoàn thành được bài tập của mình.
Thông qua các bài thực hành về vẽ biểu đồ, giáo viên có cơ hội để đánh giá về việc rèn luyện kỹ năng địa lí của học sinh, phát hiện ra những học sinh có kỹ năng thực hiện tốt hoặc thực hiện còn yếu để kịp thời có biện pháp điều chỉnh khắc phục nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn này.
2.2. Những khó khăn:
Với học sinh các trường ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn như trường THCS Cẩm Quý thì việc rèn luyện kỹ năng thực hành Địa lí cho các em trong một bài học gặp không ít khó khăn: ví dụ với mọt bài tập thực hành vẽ biểu đồ có yêu cầu phải sử lí số liệu, thì đa phần các em thực hiện vẫn còn chậm, mất nhiều thời gian do máy tính cầm tay không có, hoặc còn ít trong một lớp học, khiến cho việc so sánh, đánh giá kết quả giữa các tổ, nhóm hoặc cá nhân với nhau còn rất hạn chế. Từ đó cũng ảnh hưởng nhiều tới thời gian hoàn thành bài tập của học sinh, bởi thông thường sau khi vẽ biểu đồ, học sinh còn phải nhận xét, đánh giá các sự vật, hiện tượng địa lí từ biểu đồ đã vẽ.
- Nhiều em chưa có ý thức chuẩn bị tốt các đồ dùng học tập chuẩn bị cho bài thực hành như thước kẻ, bút chì, compa, hộp màu còn coi nhẹ yêu cầu của bài thực hành nên cũng ảnh hưởng nhiều tới các bài tập về vẽ biểu đồ như: hình vẽ chưa đẹp, vẽ chưa chuẩn xác.
- Khi giáo viên hướng dẫn các bước tiến hành, một số học sinh vẫn chưa chịu để ý, quan tâm dẫn đến các em lúng túng khi tiến hành các thao tác: ví dụ cách xử lý số liệu hoặc cách chọn tỷ lệ..
- Thời gian một bài thực hành có 45 phút: có rất nhiều các bước cần thực hiện, nhưng quan trọng nhất là việc kiểm tra, đánh giá kết quả bài tập của học sinh. Tuy vậy công việc này thường được thực hiện sau khi học sinh đã hoàn thành hết các yêu cầu của bài tập nên giáo viên bị hạn chế rất nhiều về thời gian để sủa chữa uốn nắn cho các em nhất là học sinh yếu.
- Bên cạnh các bài tập thực hành vẽ biểu đồ trên lớp còn có rất nhiều các bài tập thực hành vẽ biểu đồ ở nhà, nếu không có biện pháp kiểm tra, đánh giá kịp thời thì nhiều em sẽ coi nhẹ việc thực hiện các bài tập này, hoặc có những lỗi soi sót mắc phải của học sinh mà mà giáo viên không kịp thời phát hiện ra để giúp các em sửa chữa.
- Thông qua các phương pháp quan sát, điều tra, nghiên cứu sản phẩm thực hành ( kết quả các bài kiểm tra vẽ biểu đồ) của các em học sinh, tôi thấy các em còn hay mắc một số lỗi sau:
+ Chia tỷ lệ chưa chính xác (ví dụ với biểu đồ hình tròn với số liệu nhỏ 8% mà học sinh chia tới 1/4 hình tròn là chưa hợp lí).
+ Hoặc với biểu đồ hình cột khoảng cách giữa các năm học sinh vẫn chia không đều: kích thước của các cột to, nhỏ khác nhau làm cho hình vẽ không đẹp. Một số em chỉ nhìn qua số liệu để áng khoảng và dựng hình vẽ luôn ¦làm cho biểu đồ đã vẽ không đảm bảo độ chính xác.
+ Học sinh kí hiệu không rõ ràng, hoặc nhầm lẫn các kí hiệu này với kí hiệu khác cho nên yêu cầu đưa ra khi vẽ Biểu đồ là học sinh phải lập luôn bảng chú giải ngay bên cạnh hoặc phía dưới biểu đồ đã vẽ.
+ Một số học sinh khi vẽ biểu đồ cột còn có sự nhầm lẫn giữa hai trục dọc và ngang: trục dọc bị ghi các móc thời gian, trục ngang lại ghi đơn vị của đối tượng được thể hiện. Như vậy học sinh đã nhầm sang dạng biểu đồ thanh ngang (Một biến thể của biểu đồ hình cột) lỗi này nếu giáo viên giảng dạy bộ môn phát hiện và sửa chữa kịp thời thì lần sau học sinh sẽ không mắc phải.
+ Một số học sinh thường quên ghi đơn vị, hoặc tên biểu đồ thể hiện cái gì? lỗi này cũng làm mất đi một phần điểm của học sinh.
+ Có một số bài tập sau yêu cầu học sinh sau khi vẽ biểu đồ phải rút ra nhận xét sự thay đổi của các đại lượng hoặc sự vật, hiện tượng địa lí đã vẽ, song một số em vẫn chưa coi trọng, hoặc chỉ nhận xét sơ sài thì cũng sẽ mất điểm hoặc không được điểm tối đa vì thế bước nhận xét sau khi vẽ biểu đồ cũng rất quan trọng. 
- Nếu người giáo viên bộ môn nào thực hiện được tốt các công việc dẫn dắt, chỉ đạo các bước tiến hành cho học sinh và học sinh thực hiện tốt thì bài thực hành rèn kỹ năng vẽ biểu đồ sẽ đạt kết quả cao.
 3. Các giải pháp đã được sử dụng để giải quyết vấn đề:
- Giáo viên phải giúp học sinh nắm rõ mục đích, yêu cầu của bài tập và kỹ năng chính phải rèn luyện.
- Học sinh phải có sự chuẩn bị đầy đủ về đồ dùng học tập cho bài thực hành.
- Giáo viên cần chuẩn bị một số phương pháp dạy học cần thiết như phương pháp thực hành kết hợp với nêu - giải quyết vấn đề, phương pháp kiểm tra đánh giá trực tiếp trên lớp nhằm giúp học sinh nhận ra ưu - nhược điểm trong bài tập của mình để sửa chữa
- Các bước vẽ biểu đồ cần được tiến hành theo tuần tự.
- Giáo viên có thể kết hợp nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau như: cá nhân, theo cặp, theo nhóm; khuyến khích các em tự kiểm tra đánh giá bài làm của nhau,từ đó giúp học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động trong học tập.
- Giáo viên bộ môn cũng có thể sử dụng một số thiết bị, đồ dùng cho bài tập vẽ biểu đồ như bảng số liệu đã sử lí sẵn, biểu đồ đã hoàn thành đưa ra trước học sinh để các em đối chiếu so sánh với kết quả của mình.
- Giáo viên cũng có thể áp dụng công nghệ thông tin để rèn kỹ năng vẽ biểu đồ cho học sinh trên máy tính.
Sau đây là một số bài tập ví dụ về các bước cần thực hiện ki vẽ biểu đồ:
Bài 10: Phân tích biểu đồ về sự thay đổi cơ cấu diện tích đất trồng phân theo các loại cây, sự tăng trưởng đàn gia súc, gia cầm.
A- Mục tiêu:
Học sinh cần: 
- Rèn luyện kỹ năng xử lí bảng số liệu tính ra % diện tích các loại cây trồng.
- Rèn kỹ năng vẽ biểu đồ hình tròn và biểu đồ đường.
- Biết rút ra nhận xét và giải thích từ biểu đồ đã vẽ.
B- Chuẩn bị:
HS: compa, thước kẻ, thước đo độ, máy tính
C- Hoạt động dạy và học:
BT1:
* Hoạt động 1: Cả lớp
Ví dụ: Cho bảng số liệu: Diện tích gieo trồng, phân theo nhóm cây (nghìn ha)
 Năm
Các nhóm cây
1990
2002
Tổng số
Cây lương thực
Cây công nghiệp
Cây thực phẩm, cây ăn quả, cây khác
9040,0
6474,6
1199,3
1366,1
12831,4
8320,3
2337,3
2173,8
Vẽ biểu đồ hình tròn thể hiện cơ cấu diện tích gieo trồng các nhóm cây. Biểu đồ năm 1990 có bán kính là 20mm; biểu đồ năm 2002 có bán kính là 24mm
Hoạt động 2 ( Hoạt động cá nhân)
+ Bước 1: 
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách xử lý số liệu: 
- Giáo viên nêu mục tiêu, yêu cầu bài thực hành: chú ý vẽ đúng, vẽ đẹp.
Từ bảng số liệu đã cho, tính toán chuyển thành bảng số liệu Phần trăm: cách làm: lấy diện tích của mỗi nhóm chia tổng diẹn tích nhân với 100% (theo năm), chú ý làm tròn số sao cho tổng các thành phần phải đúng 100%.
- Sau khi hướng dẫn của giáo viên mỗi học sinh phải tự tính toán cho bảng số liệu
+ Bước 2: từ bảng số liệu đề bài đã cho chuyển thành bảng đo độ tương ứng, cách làm: lấy số liệu % ở bảng nhân với 3,60 ( vì 1% ứng 3,60)
 Năm
Các nhóm cây
1990
2002
Tổng số
100%
100%
Cây lương thục
71,6%
64,8%
Cây công nghiệp
13,3%
18,2%
Cây thực phẩm, cây ăn quả, cây khác
15,1%
17%
+ Bước 3: vẽ biểu đồ và chú giải biểu đồ
- Giáo viên hướng dẫn các em bắt đầu vẽ từ “tia 12 giờ” theo chiều kim đồng hồ (Như hình vẽ).
Vẽ cung hình quạt có cung ứng với số liệu ở bảng đo độ (dùng thước đo độ), vẽ đến đâu chú giải đén đó và lập luôn bảng chú giải.
- Xác định bán kính của hình tròn năm 1990 có bán kính là 20mm; biểu đồ năm 2002 có bán kính là 24mm
 Năm 1990 Năm 2002 
Biểu đồ cơ cấu diện tích gieo trồng phân theo các loại cây năm 1990 và 2002
- Hướng dẫn các em có thể vẽ xong biểu đồ, hoặc vẽ xong từng nội dung được thể hiện trên biểu đồ thì chú giải sao cho từng nội dung trên biểu đồ có kí hiệu khác nhau, tránh nhầm lẫn giữa các nội dung với nhau.
* Hoạt động 3: Hoạt động theo nhóm
+ Bước 1: Học sinh (theo nhóm 5 - 6 em) thảo luận, quan sát biểu đồ, kết hợp với bảng số liệu, rút ra nhận xét về sự thay đổi qui mô diện tích và tỷ trọng gieo trồng của các nhóm cây.
+ Bước2: đại diện 1 nhóm trình bày kết quat làm việc của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét, bổ sung, giáo viên kết luận kiến thức đúng - các nhóm tự đánh giá kết quả bài làmcủa mình.
- Cuối cùng giáo viên đánh giá bài thực hành của học sinh.
Bài tập 2: 
Ví dụ 1: Vẽ biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng đàn gia súc, gia cầm qua các năm 1990 đến 2002.
- Trong bài này giáo viên lưu ý học sinh lấy gốc của hệ trục tọa độ là 100%
+ Khoảng cách các năm phải đều, đúng
- Mỗi năm có thể kẻ một đường chì mờ thẳng lên để dễ dàng đánh dấu số liệu như trong bảng đã cho.
 Ví dụ 2: Vẽ biểu đồ cột thể hiện diện tích nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh, thành phố của vùng duyên hải Nam trung Bộ năm 2002 và nêu nhận xét. (BT2/SGK - tr 99)
- Khi học sinh làm bài tập này giáo viên cần lưu ý cho học sinh:
+ Cần dựa vào bảng số liệu đã cho, xem số liệu thấp nhất là bao nhiêu? (0,8 nghìn ha); cao nhất là bao nhiêu? (6,0 nghìn ha) ¦ Như vậy học sinh có thể chia cột đơn vị từ 0 ¦ 6 nghìn ha.
+ Trục dọc sẽ thể hiện đơn vị nghìn ha. trục ngang là tên các tỉnh, thành phố.
+ Mỗi tỉnh, thành phố sẽ dựng được một cột theo số liệu đã cho.
Biểu đồ diện tích nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh, thành phố
của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (2002)
+ Sau khi vẽ xong học sinh phải biết nhận xét tỉnh, thành phố nào có diện tích nuôi trồng thủy sản nhiều nhất, ít nhất.
 Ví dụ 3: Bài 16 (SGK): Vẽ biểu đồ về sự thay đổi cơ cấu kinh tế
- Trong bài này giáo viên cần lưu ý học sinh:
+ Mỗi ngành kinh tế sẽ thể hiện trên một miền.
+ Để đánh dấu các trị số được dễ dàng học sinh nên kẻ những đường thẳng mờ từ các năm thẳng lên để đánh dâu cho dễ và chính xác.
+ Vẽ đến đâu, kẻ vạch, tô màu đến đó.
+ Lập bảng chú giải ở bên cạnh.
=> Tóm lại trong các bài tập về vẽ biểu đồ người giáo viên phải thực hiện tốt các bước hướng dẫn, người học sinh phải thực hiện tích cực chủ động theo các bước của người thầy thì chắc chắn bài tập sẽ đạt kết quả cao.
	4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
 Những biện pháp trên giúp cho những lần tổ chức thực hành vẽ biểu đồ có hiệu quả rõ rệt :
+ Các tiết thực hành, làm bài kiểm tra có vẽ biểu đồ đúng như thời gian dự kiến.
+ Tất cả thành viên trong lớp đều tích cực tham gia cùng làm việc tự giác và tích cực
+ Đặc biệt là kỹ năng tư duy trong mỗi dạng biểu đồ của học sinh tiến bộ rõ rệt. Các em không còn thói chờ sẵn và chép lại biểu đ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_kinh_nghiem_ren_luyen_ky_nang_ve_bieu_do_dia_ly.doc