SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý nhằm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học ở Trung tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hoá

SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý nhằm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học ở Trung tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hoá

Ngày nay, sự phát triển của giáo dục đã được thừa nhận là một tiền đề quan trọng của tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Để thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước được chăm sóc và giáo dục toàn diện đòi hỏi sự quan tâm sâu sắc của các lực lượng xã hội, của gia đình và nhà trường. Tuy nhiên hiện nay cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước trong công cuộc đổi mới đã đem lại nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào: Kinh tế, xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được tăng lên thì sự thay đổi giá trị, sự chênh lệch giàu nghèo cũng như sự gia tăng các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn đã tác động lớn tới nhà trường và ảnh hưởng không nhỏ tới một bộ phận học sinh trong quá trình học tập và tu dưỡng rèn luyện đạo đức đó cũng đồng thời là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học - vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm hiện nay.

 Hiện tượng học sinh bỏ học không chỉ xảy ra trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa mà còn trong phạm vi cả tỉnh và nhiều vùng trong cả nước. Đây là một thực trạng đáng lo ngại, đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể xã hội, ngành giáo dục và mọi gia đình cần có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học. Thực tế cho thấy, việc học sinh bỏ học có thể kéo theo nhiều hệ lụy cả tr¬ước mắt lẫn lâu dài, không chỉ đối với cá nhân, gia đình học sinh mà cả với nhà trường và xã hội. ở các em không chỉ có sự bất mãn coi thường kỷ cương, nền nếp mà còn có sự tự ti, mặc cảm gây ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập, tu dưỡng đạo đức của bản thân và ảnh hưởng tới nền nếp của tập thể lớp, chất lượng giáo dục chung của nhà trường và trật tự an toàn xã hội. Khi bỏ học, tâm trạng thường chán chường khiến những học sinh này dễ bị kích động, lôi kéo. Từ đó có thể hình thành nên một l¬ượng thanh thiếu niên thất học, lêu lổng, dễ sa vào các thói hư¬ tật xấu, có thể sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Vì vậy, việc tìm ra nguyên nhân cũng như có những biện pháp phù hợp để giảm thiểu tình trạng học sinh bỏ học là một việc làm cần thiết và cấp bách.

 

doc 21 trang thuychi01 5001
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý nhằm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học ở Trung tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hoá", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU Trang
1. Lý do chọn đề tài....2
2. Mục đích nghiên cứu..3
3. Đối tượng nghiên cứu.....3
4. Phương pháp nghiên cứu....3
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.3
II NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.......................4
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm................4
3. Những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng học sinh bỏ học 4
4. Mét sè kinh nghiệm trong công tác quản lý nh»m gi¶m tû lÖ häc sinh bá học ë Trung t©m GDNN - GDTX Thµnh Phè Thanh Ho¸8 
5. Kết quả đạt được khi áp dụng mét sè kinh nghiệm trong công tác quản lý nh»m gi¶m tû lÖ häc sinh bá häc ë Trung t©m GDNN - GDTX Thµnh Phè Thanh Ho¸......14
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ...17 
Tài liệu tham khảo .......19
Danh mục SKKN đã được Hội đồng SKKN ngành giáo dục xếp loại ...20 
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, sự phát triển của giáo dục đã được thừa nhận là một tiền đề quan trọng của tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Để thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước được chăm sóc và giáo dục toàn diện đòi hỏi sự quan tâm sâu sắc của các lực lượng xã hội, của gia đình và nhà trường. Tuy nhiên hiện nay cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước trong công cuộc đổi mới đã đem lại nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào: Kinh tế, xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được tăng lên thì sự thay đổi giá trị, sự chênh lệch giàu nghèo cũng như sự gia tăng các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn đã tác động lớn tới nhà trường và ảnh hưởng không nhỏ tới một bộ phận học sinh trong quá trình học tập và tu dưỡng rèn luyện đạo đức đó cũng đồng thời là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học - vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm hiện nay.
 Hiện tượng học sinh bỏ học không chỉ xảy ra trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa mà còn trong phạm vi cả tỉnh và nhiều vùng trong cả nước. Đây là một thực trạng đáng lo ngại, đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể xã hội, ngành giáo dục và mọi gia đình cần có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học. Thực tế cho thấy, việc học sinh bỏ học có thể kéo theo nhiều hệ lụy cả trước mắt lẫn lâu dài, không chỉ đối với cá nhân, gia đình học sinh mà cả với nhà trường và xã hội. ở các em không chỉ có sự bất mãn coi thường kỷ cương, nền nếp mà còn có sự tự ti, mặc cảm gây ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập, tu dưỡng đạo đức của bản thân và ảnh hưởng tới nền nếp của tập thể lớp, chất lượng giáo dục chung của nhà trường và trật tự an toàn xã hội. Khi bỏ học, tâm trạng thường chán chường khiến những học sinh này dễ bị kích động, lôi kéo. Từ đó có thể hình thành nên một lượng thanh thiếu niên thất học, lêu lổng, dễ sa vào các thói hư tật xấu, có thể sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật... Vì vậy, việc tìm ra nguyên nhân cũng như có những biện pháp phù hợp để giảm thiểu tình trạng học sinh bỏ học là một việc làm cần thiết và cấp bách.
 Trung tâm GDNN - GDTX Thành phố Thanh Hóa hằng năm đã tiếp nhận vào học Chương trình GDTX cấp Trung học phổ thông đối tượng học sinh không đủ điều kiện vào học các trường THPT trên địa bàn thành phố. Điều đó cũng đồng nghĩa với tỷ lệ học sinh yếu kém về văn hoá và đạo đức dẫn tới tình trạng bỏ học thường cao hơn so với các trường THPT khác. Việc quan tâm giáo dục đối tượng học sinh yếu kém về văn hoá và đạo đức nhằm góp phần giảm thiểu tình trạng học sinh bỏ học ở các thành phố nói chung và ở Trung tâm GDNN - GDTX thành phố Thanh hóa nói riêng đang trở thành vấn đề đòi hỏi cán bộ quản lý, giáo viên trong Trung tân luôn trăn trở phải làm sao để giúp bộ phận học sinh này có sự chuyển biến tích cực, hoà nhập với tập thể để thực sự trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao mỗi cán bộ giáo viên không chỉ hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn một cách đơn thuần mà còn nêu cao ý thức trách nhiệm quan tâm giúp đỡ gắn bó với tập thể học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh cá biệt, tận tình theo dõi từng bước trưởng thành của các em. Kịp thời uốn nắn động viên, khích lệ, tạo điều kiện để các em vượt qua những tự ti, mặc cảm hoà nhập với tập thể và tạo niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Qua thực tế công tác của bản thân và đồng nghiệp trong những năm qua, tôi đã đúc rút được: “Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý nhằm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học ở Trung tâm GDNN - GDTX Thành Phố Thanh Hoá ” với mong muốn góp thêm một ý kiến trong việc giảm bớt số lượng học sinh bỏ học tại Trung tâm đồng thời giúp các em hoàn thiện về nhân cách đạo đức, có đủ tri thức để thực sự trở thành những công dân có ích cho xã hội đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay .
2. Mục đích nghiên cứu: 
- Nhằm thực hiện tốt việc giáo dục và đào tạo theo đúng tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TW về “ Đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh có năng lực học tập còn hạn chế sau khi tốt nghiệp THCS hoặc tương đương được học chương trình GDTX cấp THPT và học hệ Trung cấp nghề giảm tỷ lệ học sinh bỏ học do yếu kém về văn hoá và đạo đức.
- Đảm bảo duy trì sỹ số học sinh ở các khối lớp, nâng cao chất lượng giảng dạy đảm bảo khi kết thúc chương trình học sinh đồng thời tốt nghiệp THPT Quốc gia và Trung cấp nghề, tham gia bổ xung nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH hiện nay. 
3. Đối tượng nghiên cứu:
Là đối tượng học sinh học tại Trung tâm GDNN - GDTX thành phố Thanh Hóa qua 3 năm học 2015 – 2016, 2016 – 2017 và 2017-2018.
4. Phương pháp nghiên cứu: 
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp khảo sát, điều tra, thống kê.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm: 
- Đề xuất những biện pháp tích cực và hữu hiệu để khắc phục kịp thời tình trạng giảm tỷ lệ học sinh bỏ học ở Trung tâm GDNN-GDTX thành phố Thanh Hóa.
- Giúp các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, éo le nhưng đã vượt qua những mặc cảm định kiến, có ý chí vươn lên nỗ lực phấn đấu trong học tập và tu dưỡng đạo đức và đã đạt được nhiều thành tích, gúp phần vào việc chuẩn bị hành trang để lập thân, lập nghiệp trong tương lai.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khúa XI về “Đổi mới, căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” 
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Thanh Hóa lần thứ XX (Nhiệm kỳ 2015-2020) và chương trình hành động số 02- Ctr/ TU của Thành ủy và Chương trình hành động số 378/ PGD& ĐT thành phố Thanh Hóa.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Học sinh của Trung tâm hầu hết đang ở độ tuổi vị thành niên nên phần lớn các em có nhiều ước mơ hoài bão trong sáng, có nguyện vọng muốn được chia sẻ, cảm thông và được sự giúp đỡ của thầy cô, bè bạn để tự hoàn thiện bản thân và chuẩn bị đầy đủ hành trang để bước vào cuộc sống. Nhiều em do hoàn cảnh gia đình khó khăn, éo le nhưng đã vượt qua những mặc cảm định kiến, có ý chí vươn lên nỗ lực phấn đấu trong học tập và tu dưỡng đạo đức và đã đạt được nhiều thành tích, giúp phần vào việc chuẩn bị hành trang để lập thân, lập nghiệp trong tương lai.
 Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có một bộ phận học sinh yếu kém về văn hóa và đạo đức, các em luôn có thái độ tiêu cực trong học tập, chán học, không muốn tham gia những hoạt động học tập của lớp. Thậm chí các em còn coi việc đến trường học chỉ là nghĩa vụ đối với cha mẹ, là cơ hội để ra khỏi nhà một cách hợp pháp. Những em có kết quả học tập yếu kém cũng thường là những học sinh yếu kém về đạo đức, các em thường hay lôi kéo các bạn tham gia vào những trò chơi tinh quái để trêu chọc bạn bè, thầy cô làm mất trật tự lớp học, làm mất thời gian học tập của lớp. Đặc biệt các em thường có thái độ phản ứng quyết liệt khi bị nhắc nhở, khiển trách. Cách giao tiếp của các em với thầy cô, bạn bè cũng thường cục cằn thô lỗ, một số em còn nhiễm những thói quen xấu trong xã hội như lối sống tự do, phóng túng, ăn mặc lập dị, hút thuốc lá, uống rượu, cờ bạc, cá cược ....
 Trước tình hình đó trong những năm qua tập thể Ban giám đốc, Hội đồng sư phạm Trung tâm đã có sự nỗ lực tìm tòi các biện pháp nhằm cải thiện tình trạng học sinh bỏ học do yếu kém về văn hoá và đạo đức ở các khối lớp. Tuy nhiên các biện pháp giải quyết vẫn còn có chỗ nặng về xử lý hành chính, cá biệt có học sinh sau khi bị xử lý kỷ luật đã có thái độ và những hành vi bất mãn, quay lại gây thêm một số sự vụ khác làm ảnh hưởng tới nền nếp dạy - học của giáo viên và học sinh. 
Theo số liệu kiểm tra chất lượng đầu năm của các khối lớp, đặc biệt là khối 10 thì tỷ lệ học sinh xếp loại yếu kém chiếm khoảng 30 – 40% đây thực sự là những con số đáng báo động cho thấy kiến thức các môn học của các em bị rỗng và thấp rất nhiều so với yêu cầu. Do số lượng học sinh yếu kém về văn hoá và đạo đức ở Trung tâm có tỉ lệ tương đối cao nên đã có ảnh hưởng không nhỏ tới nề nếp, chất lượng học tập và làm cho một bộ phận học sinh chán học, tự ti từ đó dẫn đến tình trạng bỏ học hiện nay. Nếu không có những biện pháp tích cực và hữu hiệu để khắc phục kịp thời thì hiệu quả giáo dục sẽ rất thấp, các tiêu chí thi đua không đạt được, gây mất lòng tin của phụ huynh và học sinh và uy tín của đơn vị. Vì vậy đòi hỏi những người làm công tác quản lí, giáo viên chủ nhiệm và giáo viên trực tiếp đứng lớp có kế hoạch cụ thể, sự phối kết hợp chặt chẽ trong việc giáo dục học sinh yếu kém về văn hóa và đạo đức góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. 
3. Những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng học sinh bỏ học ở Trung tâm GDTX thành phố Thanh Hóa.
 Trung tâm GDTX thành phố Thanh Hóa hằng năm duy trì từ 5-7 lớp với số lượng từ 250- 300 học sinh học chương trình GDTX cấp THPT, nhưng những năm gần đây số lượng học sinh đã giảm đi một cách đáng kể điển hình là năm học 2012-2013 Trung tâm GTDTX thành phố chỉ còn 3 lớp với 106 học sinh. Ngoài một số nguyên nhân khách quan như: số lượng các trường THPT trên địa bàn thành phố và các trường Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp có hệ BT THPT cao (THPT : 04; CĐ,TCCN: 04), chỉ tiêu tuyển sinh vào lớp các trường THPT tăng trong khi đó số lượng học sinh khối 9 giảm, tâm lý coi trọng bằng cấp của một bộ phận phụ huynh học sinh thì cũng có nhiều nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học, cụ thể như sau: 
Trước hết là do học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản, không thể theo kịp chương trình học, từ đó trở nên chán học, đối với những học sinh lười học, học kém thì việc phải ngồi liên tục trong lớp ở tất cả các tiết học, các buổi học thực sự là một “cực hình” nên những học sinh này luôn tìm cách bỏ giờ, trốn học làm cho kết quả học tập ngày càng giảm sút, điểm tổng kết thấp và cuối cùng là bị lưu ban. Khi bị lưu ban, không phải em nào cũng đủ bản lĩnh để học lại, rất nhiều em đó bỏ học do mặc cảm, xấu hổ với bạn bè đồng trang lứa. Có thể nói, ở đâu có nhiều học sinh lưu ban, ở đó có nhiều học sinh bỏ học. Rất nhiều em do hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ thiếu quan tâm, các em không tiếp thu được kiến thức, dẫn đến việc chán nản trong học tập và rèn luyện. Một số em bỏ học để đi làm ăn phụ giúp gia đình, một số khác lang thang lêu lổng gây ảnh hưởng tới trật tự an ninh xã hội.
3.1. Nguyên nhân về phía gia đình.
Qua tiếp xúc trao đổi với nhiều bậc phụ huynh học sinh có con em vi phạm kỉ luật, ý thức học tập yếu kém ở Trung tâm tôi nhận thấy phần lớn các gia đình này có nhận thức phiến diện, lệch lạc, sai lầm hoặc thiếu tri thức về phương pháp giáo dục con em mình cụ thể:
+ Quan tâm, nuông chiều thái quá trong việc chăm sóc nuôi dưỡng, nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của các em, đặc biệt là nhu cầu về vật chất. Tạo điều kiện thuận lợi để các em tham gia vào các tệ nạn xã hội, các dịch vụ không lành mạnh như chơi trò chơi điện tử, Bia- a, đánh bài ăn tiền, thậm chí có em còn tham gia cá độ bóng đá, lô đề ... Đây thường là những gia đình hiếm muộn, có tư tưởng “Trọng nam, khinh nữ”, nên dễ dàng tha thứ cho các lỗi vi phạm của con em mình, tìm cách che dấu các lỗi vi phạm mà các em gây ra. Cá biệt có phụ huynh còn có những hành vi phản ứng với thầy cô khi các em bị xử lý kỷ luật hoặc có kết quả học tập thấp so với yêu cầu...
+ Sử dụng quyền uy hoặc vị thế của cha mẹ đối với con cái một cách cực đoan. Nhiều bậc cha mẹ cho rằng “ Thương cho roi, cho vọt “ nên khi được các thầy cô thông báo việc con em vi phạm kỷ luật, kết quả học tập yếu kém thường tỏ thái độ bức xúc, nóng nảy đánh mắng các em thậm tệ. Đã có em do phạm lỗi bị cha mẹ đánh đến mức phải nghỉ học, hoặc thường xuyên bị chửi mắng gây cho các em tâm lý oán hận, chán ghét gia đình và luôn tìm mọi cách để đối phó. Thậm chí có em còn cố tình học hành xa sút , chơi bời để “chống đối” lại cha mẹ.
+ Nhiều khi tấm gương phản diện, chưa tốt của cha mẹ và những người thân trong gia đình đã làm cho các em nhìn nhận xã hội, thầy cô, bạn bè lệch lạc và tiêu cực. Một số học sinh khi vào học tại Trung tâm đã đổ lỗi cho việc mình phải vào học hệ BT THPT không phải vì yếu kém mà vì cha mẹ thiếu sự quan tâm, dạy bảo, thậm chí cá biệt có học sinh cả cha và mẹ đều vi phạm pháp luật, tình trạng cha mẹ cãi vã , chửi mắng nhau trước mặt con cái...Trên thực tế đã có không ít phụ huynh đã tỏ ra bất lực, tháo khoán trách nhiệm giáo dục con em cho nhà trường.
+ Một số em bị lâm vào tình cảnh éo le, tình cảm bị chia sẻ, bố mẹ chia tay nhau, hoặc bố mất, mẹ mất phải ở với ông bà, chú bác. Đây là những học sinh thiếu thốn tình cảm, khó khăn về kinh tế nên thường mặc cảm, tự ti và dễ bị bạn bè không tốt rủ rê lôi kéo làm sao nhãng việc học hành. Một số em vì vừa đi học vừa phải kiếm sống mưu sinh nên có ảnh hưởng nhất định tới kết quả học tập, tu dưỡng đạo đức.
Như vậy ngoài các nguyên nhân khách quan thì phần lớn các bậc cha mẹ học sinh có con em vi phạm kỷ luật thường sử dụng những biện pháp giáo dục sai lầm thiếu tính sư phạm: Nặng về răn dạy, thuyết giáo ít có tính thuyết phục, không tạo điều kiện cho con cái được rèn luyện trong lao động, trong sinh hoạt và trong đời sống cộng đồng. Tình thương một chiều hoặc quá nghiêm khắc, dùng sức mạnh của vũ lực thô bạo, sử dụng biện pháp khen thưởng nặng về vật chất, kích thích động cơ vụ lợi, trừng phạt thô bạo đến thể xác và lòng tự trọng danh dự của các em. Những điều đó ảnh hưởng xấu tới quá trình học tập và tu dưỡng đạo đức của các em, làm cho các em khi vi phạm kỷ luật thường chọn giải pháp cực đoan tỏ thái độ chống đối gia đình và tìm mọi cách để bỏ học nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình.
3.2. Nguyên nhân về phía nhà trường.
- Trên thực tế một số thầy cô giáo vẫn còn có những định kiến, thiếu thiện cảm đối với những học sinh yếu kém về văn hoá và đạo đức, thường có những ấn tượng về những thiếu sót, khuyết điểm mà các em đã gây ra.Vì vậy không tránh được tình trạng khi giải quyết những sự việc cụ thể các thầy cô thường áp đặt việc gây lỗi vi phạm là do một hay một nhóm học sinh nhất định gây ra vì vậy các em thường có phản ứng hoặc tìm cách đối phó...nên kết quả đạt được thường không cao.
- Sử dụng thái quá các biện pháp hành chính trong giáo dục học sinh, cá biệt vẫn còn tình trạng lạm dụng quyền lực của người quản lí và của người “Thầy” tự coi mình là người có quyền giám sát trong quan hệ giáo dục học sinh. Có hành vi, thái độ trấn áp, thiếu công bằng, thiếu tế nhị gây tâm lý tự ti, thậm chí là bức xúc cho các em trong quá trình học tập và tu dưỡng đạo đức.
- Một số thầy cô còn chưa thực sự sâu sát học sinh, vì vậy sự cảm thông với những học sinh có nhiều khuyết điểm trong học tập và tu dưỡng đạo đức thường thể hiện ở việc: thiếu hiểu biết về tâm lý, cá tính và những mặt tích cực trong nhân cách của các em, chưa thực sự đồng cảm với những thiệt thòi, mất mát, bất hạnh mà các em thường gặp phải. Trong quan hệ giáo dục còn có những biểu hiện khắt khe, cứng nhắc làm các em chưa thực sự tin tưởng để bộc lộ những tâm tư nguyện vọng của mình .
- Việc đánh giá kết quả học tập rèn luyện, khen thưởng và kỷ luật thiếu khách quan công bằng như : Thiên vị, định kiến trong đánh giá, khen thưởng, kỷ luật không động viên được sự cố gắng của các em có những hạn chế sai lầm trong học tập và rèn luyện sẽ gây phản ứng đối phó tiêu cực.
- Thiếu sự thống nhất giữa chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong các biện pháp giáo dục học sinh, nhất là những học sinh yếu kém về văn hóa và đạo đức dẫn đến tình trạng hoặc là chồng chéo hoặc là ỷ lại lẫn nhau...
- Sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội có lúc còn chưa đồng bộ như: hạn chế trong sự phối hợp với gia đình, buông lỏng mối quan hệ phối hợp với xã hội...
3.3 Nguyên nhân về xã hội.
- Do tác động của mặt trái cơ chế thị trường đã tạo ra sự chênh lệch giàu và nghèo, sự phân hoá về trình độ và năng lực trí tuệ, sự xa sút về mặt phẩm chất đạo đức của một bộ phận dân cư trong xã hội.
- Ảnh hưởng tiêu cực của các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng như: văn hoá đồi truỵ, lối sống buông thả, nghiện ngập và các dịch vụ không lành mạnh, đặc biệt là các dịch vụ quanh khu vực trường học thường dễ dàng lôi kéo các em tham gia khi có cơ hội, dần dần tạo thành thói quen chơi bời cho một bộ phận học sinh vốn lười học, ý thức tu dưỡng đạo đức yếu.
- Ảnh hưởng của những nhóm nhỏ bạn bè tiêu cực cũng là một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng tác động đến quá trình học rập tu dưỡng đạo đức của các em. Do quan niệm coi trọng tình bạn các em thường bao che cho những hành vi gian lận trong học tập, các lỗi vi phạm của bạn gây khó khăn cho việc sử lý của giáo viên chủ nhiệm và Ban giám đốc khi có các sự việc sảy ra. Ngoài ra còn có nguyên nhân do đặc điểm tâm lí lứa tuổi từ 15 – 18 các em có tư tưởng (động cơ) muốn được mọi người chú ý đến mình, coi mình là người lớn, là anh hùng, là hơn người khác. Do có những hạn chế về trình độ cộng với những tư tưởng sai lệch lại được một số bạn bè có cùng ý nghĩ về những việc làm như vậy đồng tình nên các em thường không thấy những việc làm của mình là sai trái nên thường bị trượt dài và để lại những hậu quả nghiêm trọng trước mắt cũng như lâu dài.
Trên thực tế những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém về văn hoá và đạo đức luôn đan xen, chồng chéo và tác động qua lại trong một thời gian dài qua các cấp học, bậc học đã có tác động lớn tới các em. Đặc biệt là khi đã kết thúc THCS do không đủ điều kiện vào học chương trình THPT, các em phải vào học chương trình GDTX cấp THPT không ít em còn có những mặc cảm sâu sắc, thậm chí xấu hổ so với bạn bè cùng lứa ở các trường PTTH khác nên tâm lý thường nặng nề, thiếu sự nỗ lực phấn đấu. Trên cơ sở đã nắm bắt được những nguyên nhân tác động tới sự phát triển nhân cách của học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém về văn hoá và đạo đức. Trong quá trình công tác tại Trung tâm GDNN - GDTX Thành phố Thanh Hóa tôi tập trung vào tìm tòi biện pháp tổ chức quản lí giáo dục nhằm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học do yếu kém về văn hoá và đạo đức nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, hạn chế tỷ lệ học sinh bỏ học do yếu kém về văn hóa và đạo đức, tạo lòng tin đối với học sinh và phụ huynh khi gửi gắm con em tới học tập tại Trung tâm và đã đạt được một số kết qủa nhất định.
4. Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý nhằm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học.
 Trên cơ sở nắm bắt những đặc điểm của đối tượng học sinh và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng một bộ phận học sinh bỏ học do yếu kém về văn hóa và đạo đức ở Trung tâm GDNN - GDTX Thành phố Thanh Hóa. Trong những năm qua cùng với tập thể BGĐ tôi đã đề xuất một số biện pháp quản lí giáo dục học sinh yếu kém về văn hoá và đạo đức. Cụ thể như sau: 
4.1. Ban giám đốc chủ động xây dựng biện pháp quản lý và tổ chức giáo dục học sinh nhằm hạn chế tình trạng học sinh bỏ học.
a, Xây dựng

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_trong_cong_tac_quan_ly_nham_giam_ty.doc