SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh nắm vững cách giải toán có lời văn lớp 2
Đất nước nước ta đã và đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, muốn thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá vững chắc cần phải có lực lượng lao động đủ trình độ, năng động và sáng tạo. Chính vì vậy mục tiêu đào tạo cũng được thay đổi để đáp ứng với tình hình hiện nay. Thực trạng dạy và học ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế. So với các nước trên thế giới, chúng ta còn có nhiều điểm cần khắc phục về nội dung và phương pháp dạy học. Từ những lý do trên việc thay đổi nội dung chương trình cũng như phương pháp dạy học là điều cần thiết.
Trong những năm gần đây, xu thế chung của ngành giáo dục đang đổi mới về phương pháp dạy học, về cách đánh giá nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học. Đối với bậc tiểu học, từ năm học 2003 - 2004 dạy lớp 2 theo chương trình mới. Môn Toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, gây hứng thú học tập cho học sinh. Là giáo viên tiểu học trực tiếp đứng lớp 2 một số năm bản thân tôi thấy cần thiết phải nắm vững những phương pháp giảng dạy nói chung, phương pháp giảng dạy môn Toán nói riêng đặc biệt là phần giải toán có lời văn.
Với bài toán có lời văn học sinh đã được làm quen ở lớp 1 tuy nhiên khi học lên lớp 2 nhiều học sinh vẫn còn gặp khó khăn trong việc thực hiện bài giải toán. Để giải được bài toán có lời văn ngoài việc sử dụng kỹ năng tính toán học sinh còn phải có năng lực tư duy logic, “cái này lớn hơn cái kia”, tương đương, “cái kia bé hơn cái này” Giải toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở cấp tiểu học. Ở lớp 2 nếu học sinh nắm vững phương pháp giải toán có lời văn sẽ giúp các em học tốt bộ môn Toán và các bộ môn khác vì tư duy logic của trẻ được phát triển. Từ những lí do nêu trên cùng với thực tế một số năm giảng dạy ở lớp 2 bản thân tôi đã rút ra “Một số kinh nghiệm giúp học sinh nắm vững cách giải toán có lời văn lớp 2”. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong dạy học toán nói chung và dạy toán phần giải toán có lời văn. Xin được phép trao đổi với đồng chí và đồng nghiệp.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Đất nước nước ta đã và đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, muốn thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá vững chắc cần phải có lực lượng lao động đủ trình độ, năng động và sáng tạo. Chính vì vậy mục tiêu đào tạo cũng được thay đổi để đáp ứng với tình hình hiện nay. Thực trạng dạy và học ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế. So với các nước trên thế giới, chúng ta còn có nhiều điểm cần khắc phục về nội dung và phương pháp dạy học. Từ những lý do trên việc thay đổi nội dung chương trình cũng như phương pháp dạy học là điều cần thiết. Trong những năm gần đây, xu thế chung của ngành giáo dục đang đổi mới về phương pháp dạy học, về cách đánh giá nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học. Đối với bậc tiểu học, từ năm học 2003 - 2004 dạy lớp 2 theo chương trình mới. Môn Toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, gây hứng thú học tập cho học sinh. Là giáo viên tiểu học trực tiếp đứng lớp 2 một số năm bản thân tôi thấy cần thiết phải nắm vững những phương pháp giảng dạy nói chung, phương pháp giảng dạy môn Toán nói riêng đặc biệt là phần giải toán có lời văn. Với bài toán có lời văn học sinh đã được làm quen ở lớp 1 tuy nhiên khi học lên lớp 2 nhiều học sinh vẫn còn gặp khó khăn trong việc thực hiện bài giải toán. Để giải được bài toán có lời văn ngoài việc sử dụng kỹ năng tính toán học sinh còn phải có năng lực tư duy logic, “cái này lớn hơn cái kia”, tương đương, “cái kia bé hơn cái này” Giải toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở cấp tiểu học. Ở lớp 2 nếu học sinh nắm vững phương pháp giải toán có lời văn sẽ giúp các em học tốt bộ môn Toán và các bộ môn khác vì tư duy logic của trẻ được phát triển. Từ những lí do nêu trên cùng với thực tế một số năm giảng dạy ở lớp 2 bản thân tôi đã rút ra “Một số kinh nghiệm giúp học sinh nắm vững cách giải toán có lời văn lớp 2”. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong dạy học toán nói chung và dạy toán phần giải toán có lời văn. Xin được phép trao đổi với đồng chí và đồng nghiệp. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Tìm hiểu một số vấn đề lí luận đổi mới phương pháp dạy học toán lớp 2. - Tìm hiểu về nội dung và phương pháp dạy học phần giải toán có lời văn lớp 2. - Tìm hiểu về thực trạng việc triển khai giải toán có lời văn ở lớp 2. - Tìm hiểu một số biện pháp giúp học sinh nắm vững cách giải toán có lời văn lớp 2. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Các bài toán giải có lời văn ở lớp 2. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình viết sáng kiến kinh nghiệm tôi đã sử dụng phương pháp: - Phương pháp quan sát. - Phương pháp tổng hợp. - Phương pháp thống kê. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học môn Toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản; hình thành các kĩ năng thực hành, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống, góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng. Nội dung cơ bản môn toán ở Tiểu học bao gồm 5 tuyến kiến thức chính: Số học, Đại lượng và đo đại lượng, Hình học, Thống kê mô tả, Giải toán có lời văn. Trong đó tuyến kiến thức giải toán có lời văn là nội dung cơ bản, chủ yếu của chương trình môn Toán ở Tiểu học, Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình toán ở trường phổ thông được thể hiện rõ ở 4 chức năng: Giáo dục toàn diện - Phát triển tư duy trí tuệ - Kiểm tra đánh giá - Dạy học. Dạy học giải giải toán có lời văn có ý nghĩa to lớn nhằm giúp HS củng cố lý thuyết vận dụng vào giải bài tập, vận dụng vào đời sống; Rèn các kĩ năng; Phát triển tư duy như tư duy độc lập, sáng tạo, lôgic, suy luận, phán đoán; Rèn cho HS thái độ học tập như tính đam mê, cẩn thận, chính xác, tự giác, tích cực, sáng tạo, tự tin, trong học tập. Từ việc nhận thức về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trang bị đầy đủ thời khoá biểu, sách giáo khoa, sách bồi dưỡng và đồ dùng học tập. Tôi thấy cần phải có phương pháp dạy học toán có lời văn cho học sinh. Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới. Hiện nay theo chương trình mới thì ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây là một bước nhảy vọt lớn trong chương trình toán vì trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3 mới phải viết câu lời giải. Tuy nhiên nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1, 2 thì đến các lớp trên các em tiếp thu, nắm bắt kiến thức một cách dễ dàng hơn. Giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lôgíc. Thông qua giải toán học sinh rèn luyện ý thức: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say. Thực tế qua một số năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số. 2.2. Thực trạng: Từ đầu năm học 2016 - 2017 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2D. Lớp tôi có 45 học sinh, các em đi học gần trường, phần đông là con gia đình công chức, hoàn cảnh gia đình ổn định. Trong khi dạy bài giải toán có lời văn tôi thấy một số học sinh vẫn còn gặp vướng mắc và bản thân giáo viên cũng có những hạn chế cần khắc phục. * Giáo viên: - Các bài toán giải bằng một phép tính nhân hoặc chia, chưa khái quát thành dạng cơ bản ở các tiết hình thành bảng nhân, các bài toán có lời văn thường không có hình vẽ cụ thể nên giáo viên khó hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề. Việc sử dụng hình vẽ cụ thể minh họa cho bài toán sẽ giúp học sinh hình dung ra cách làm bài nhanh hơn, trong quá trình làm bài sẽ ít có sự nhầm lẫn về phép tính. - Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. - Với nội dung sách giáo khoa mới đòi hỏi phải sử dụng nhiều đồ dùng trực quan. * Học sinh: - Một số học sinh còn lúng túng khi tìm hiểu đề, đặt lời giải. - Khi nhận dạng bài toán đôi khi học sinh còn dựa vào trực quan nhiều nên không hiểu được bản chất bài toán. - Nội dung các bài toán thường nêu lên một tình huống quen thuộc, gần gũi với học sinh. Trong đó các dữ kiện thường là các đại lượng (danh số), khi tìm hiểu đề các em thường bị phân tán vào nội dung cụ thể của đại lượng hơn là các số cần thiết cho việc diễn tả điều kiện của các bài toán theo yêu cầu của đề. - Các em thường nhầm lẫn phương pháp giải giữa các dạng toán. - Khi trình bày bài giải các em diễn đạt câu, lời văn thường không rõ ràng hoặc mắc các lỗi ghi chữ viết tắt các đơn vị đo đại lượng. - Phần giải toán có lời văn ở lớp 2 chưa đáp ứng được đối tượng học sinh hoàn thành tốt bởi chưa có bài toán giải bằng nhiều cách hoặc bằng nhiều phép tính. 2.3. Các biện pháp giúp học sinh nắm vững cách giải toán có lời văn ở lớp 2. Qua việc tiếp thu chuyên đề và trên cơ sở điều tra nắm bắt đối tượng học sinh của lớp, bản thân tôi luôn suy nghĩ, trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy. Qua tìm hiểu thực tế và vốn kinh nghiệm giảng dạy của mình tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm khắc phục khó khăn như sau: 2.3.1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu và phân tích bài toán. Để giải đúng một bài giải toán có lời văn thì việc học sinh hiểu và biết phân tích bài toán đóng một vai trò rất quan trọng. Việc tìm hiểu đề toán sẽ giúp học sinh hiểu được yêu cầu của đề bài. Từ đó học sinh xác định được cái đã biết, cái chưa biết (cái cần tìm) và có hướng để giải được bài toán. Với mỗi bài toán để học sinh tìm hiểu và phân tích được bài toán giáo viên cần hướng dẫn học sinh bằng các việc làm sau: - Đọc đề bài. - Phân tích đề: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? - Tóm tắt bài toán. * Dạng bài đề toán chỉ có lời văn (không có hình minh họa): Dạng đề này giáo viên cần tăng cường sử dụng phương pháp hỏi - đáp để giúp học sinh phân tích bài toán (trong đó có các hình thức: GV hỏi - học sinh trả lời, học sinh hỏi - học sinh trả lời). Thực tế việc giải bài toán có lời văn học sinh đã được làm quen ở lớp 1. Tuy nhiên để khắc sâu cho học sinh giáo viên nên hình thành cho học sinh thói quen phân tích bài toán. Ví dụ 1: Bài tập 3, trang 32 (SGK): Bao gạo to cân nặng 25kg, bao gạo bé cân nặng 10kg. Hỏi cả hai bao gạo cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam? - Bài toán xuôi Ví dụ 2: Hà có 24 cái kẹo, số kẹo của Hà nhiều hơn số kẹo của Hoa là 6 cái. Hỏi Hoa có bao nhiêu cái kẹo? - Bài toán ngược. - Đọc đề bài: Để nắm được bài toán yêu cầu học sinh cần đọc thật kĩ đề toán. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc đề bài: + Đọc thầm: Cả lớp đọc thầm đề bài. + Đọc thành tiếng: 2 đến 3 học sinh đọc (lớp đọc thầm theo). + Đọc trong nhóm bàn. - Phân tích đề: + Thời gian đầu năm học: Do học sinh còn lúng túng với các bài giải toán có lời văn nên tôi đã tiến hành hình thức sau: Giáo viên hỏi - học sinh trả lời (Vấn đáp trực tiếp) Giáo viên gạch chân dưới những từ khóa quan trọng của bài toán. Với các bài toán giải giáo viên cần chuẩn bị đề bài trên bảng phụ, khi học sinh đọc xong, cần giúp các em hiểu nghĩa một số từ khóa quan trọng nói lên tình huống toán học đang bị che lấp bởi cái vỏ ngôn ngữ thông thường như “ít hơn”, “nhiều hơn", “tất cả”, “cả hai”, .. Trong trường hợp học sinh chưa hiểu giáo viên cần giúp các em hiểu nghĩa của từ đó. Ví dụ 1: Bài tập 3, trang 32 (SGK). Bao gạo to cân nặng 25kg, bao gạo bé cân nặng 10kg. Hỏi cả hai bao gạo cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam? Ví dụ 2: Hà có 24 cái kẹo. Số kẹo của Hà nhiều hơn số kẹo của Hoa là 6 cái. Hỏi Hoa có bao nhiêu cái kẹo? Thời gian từ giữa kì 1 trở đi khi học sinh đã quen với việc tìm hiểu và phân tích bài toán tôi hướng dẫn học sinh tự phân tích bài toán. Trong bước phân tích bài toán giáo viên là người định hướng giúp học sinh phát huy năng lực tối đa. Từ đó giúp các em có hứng thú trong học tập và trở nên yêu thích môn Toán hơn. Mỗi giáo viên nên khích lệ để bản thân học sinh tự đặt câu hỏi để phân tích bài toán, tránh áp đặt các em. - Tóm tắt bài toán: Sau khi phân tích bài toán xong, giúp học sinh hiểu kỹ đề bài hơn, nắm được yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm giáo viên cần hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng lời, bằng sơ đồ đoạn thẳng. Hơn thế nữa giáo viên cần kiểm tra lại việc tìm hiểu đề của các em bằng cách yêu cầu các em trình bày lại đề bài qua tóm tắt theo cách hiểu của mình hoặc có thể dùng thủ thuật của mình, yêu cầu học sinh dùng bút chì gạch chân vào từ “quan trọng” trong đề bài. + Tóm tắt bằng lời: Ví dụ 1: Bài tập 3, trang 32 (SGK): Bao gạo to cân nặng 25kg, bao gạo bé cân nặng 10kg. Hỏi cả hai bao gạo cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam? Với bài toán trên, khi học sinh còn lúng túng với việc tóm tắt giáo viên là người nêu câu hỏi và học sinh trả lời hoặc có thể tiến hành ngược lại. + GV: Bài toán cho biết gì? + HS: Bài toán cho biết: Bao gạo to cân nặng 25kg, bao gạo bé cân nặng 10kg. + GV: Bài toán hỏi gì? + HS: Bài toán hỏi cả hai bao gạo cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam? Tóm tắt: Bao gạo to: 25kg Bao gạo bé: 10kg Cả hai bao : kg? Khi học sinh đã quen với việc tóm tắt bài toán, giáo viên không hướng dẫn học sinh mà yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm đôi (1 học sinh hỏi - học sinh còn lại trả lời) để thực nhiệm này. Trong quá trình giảng dạy để mở rộng, phát triển tư duy của học sinh trong tiết Luyện tập tôi đã đưa ra ví dụ sau. Ví dụ 2: Hà có 24 cái kẹo. Số kẹo của Hà nhiều hơn số kẹo của Hoa là 6 cái. Hỏi Hoa có bao nhiêu cái kẹo? Học sinh khi đọc đề cứ thấy từ “nhiều hơn” thì khi làm bài sẽ nghĩ ngay đến việc giải bài toán bằng phép tính cộng. Giúp học sinh tránh được sự nhầm lẫn, giáo viên yêu cầu học sinh: - Chia nhóm. - Thảo luận nhóm hệ thống các câu hỏi sau: + Hà có bao nhiêu cái kẹo? (Hà có 24 cái kẹo - cái đã biết) + Số kẹo của Hà như thế nào so với số kẹo của Hoa? (Số kẹo của Hà nhiều hơn số kẹo của Hoa là 6 cái) + Vậy số kẹo của Hoa như thế nào so với số kẹo của Hà? (Số kẹo của Hoa ít hơn số kẹo của Hà là 6 cái) - So sánh cái chưa biết với cái đã biết. - 2 học sinh tóm tắt vào bảng nhóm. - Lớp nhận xét và thống nhất cách viết đúng. Trong quá trình làm bài nếu nhận thấy học sinh còn lúng túng trong cách diễn đạt giáo viên cần tìm ra biện pháp giúp học sinh khắc phục nhược điểm này ngay lập tức để đến giờ học tiếp theo các em không còn vướng mắc nữa. Sau khi được tôi hướng dẫn đa số học sinh trong lớp đã tự viết đúng tóm tắt bài toán. - Bài 2, trang 97 (SGK) : Mỗi nhóm có 3 học sinh, có 10 nhóm như vậy. Hỏi có tất cả bao nhiêu học sinh? Mỗi bài toán có các cách tóm tắt khác nhau, tuy nhiên giáo viên giúp học sinh lựa chọn cách tóm tắt sao cho phù hợp từng bài để dễ hiểu, đơn giản và ngắn gọn nhất. Có những bài toán nên tóm tắt bằng lời song cũng có những bài toán nên tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. + Tóm tắt bằng sơ đồ: Khi dạy bài Bài toán “nhiều hơn”, “ít hơn” sau khi học sinh đọc đề bài, tìm hiểu bài toán tôi hướng dẫn các em tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng để các em nắm rõ yêu câu cầu bài toán. Bài toán: Hàng trên có 5 quả cam, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 quả cam. Hỏi hàng dưới có mấy quả cam? Hệ thống câu hỏi để khai thác: + Bài toán cho biết gì? + Bài toán yêu cầu chúng ta tìm gì? Với dạng toán về “nhiều hơn”, “ít hơn” giáo viên nên hướng dẫn các em vẽ sơ đồ đoạn thẳng. Cụ thể ở bài dạy nêu trên tôi hướng dẫn cho học sinh như sau: + Vẽ một đoạn thẳng biểu thị số quả cam ở hàng trên (5 quả). + Vẽ đoạn thẳng dài hơn để biểu thị số quả cam ở hàng dưới (bằng số quả cam ở hàng trên và thêm 2 quả) Học sinh phát huy được tối đa tính tích cực qua việc tự phân tích bài toán. Ban đầu nhiều học sinh còn bỡ ngỡ chưa tự đặt ra câu hỏi hoặc chưa tự trả lời câu hỏi của bạn. Thông qua việc học sinh thảo luận nhóm để phân tích bài toán (Học sinh tự tìm ra câu hỏi rồi nêu để bạn trả lời) dần dần học sinh trong lớp đã hình thành thói quen tự phân tích bài toán. Song song với đó giáo viên cũng giúp cho học sinh biết lựa chọn các tóm tắt bài toán phù hợp nhất (bằng lời hay bằng sơ đồ đoạn thẳng). + Bài 4, trang 88 (SGK): Con lợn to cân nặng 92kg. Con lợn bé nhẹ hơn con lợn to 16kg. Hỏi con lợn bé cân nặng bao nhiêu ki - lô - gam? Học sinh trình bày tóm tắt bằng sơ đồ như sau: + Bài 3, trang 24: Mận cao 95cm, Đào cao hơn Mận 3cm. Hỏi Đào cao bao nhiêu xăng-ti-mét? Phần tóm tắt bài toán là cần thiết khi học sinh giải bài toán có lời văn, đối với học sinh lớp 2 không nhất thiết phải trình bày vào vở. Sau khi tóm tắt xong tôi yêu cầu học sinh nhìn vào tóm tắt đọc lại được một bài toán hoàn chỉnh đúng theo ý đề bài cho. Đối với những học sinh chưa hoàn thành giáo viên cần hướng dẫn cho các em từng bước rõ ràng, có thể dùng đồ dùng trực quan giúp các em tư duy cụ thể, nắm được yêu cầu của bài toán. Đồng thời gợi ý cho các em lựa chọn phép tính cho bài giải. Cần phải kiên trì với đối tượng này, quan sát sự tiến bộ của các em để động viên kịp thời, dần dần giúp các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi giải toán. Ngoài ra thông qua hoạt động nhóm các em biểu lộ được mặt ưu, khuyết điểm cá nhân. Bằng sự giúp đỡ của những học sinh hoàn thành tốt (học sinh hoàn thành) sẽ giúp đối tượng học sinh chưa hoàn thành tiến bộ. * Dạng bài cho đề bài bằng hình vẽ đoạn thẳng: Với dạng đề toán này tôi hướng dẫn học sinh như sau: + Đọc đề toán: Dạng đề toán sử dụng sơ đồ việc đọc đề toán chính là quan sát sơ đồ. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát kĩ sơ đồ để nắm được đề bài. + Phân tích bài toán: Yêu cầu học sinh dựa vào các dấu hiệu như: Quan sát đoạn thẳng, so sánh đoạn thẳng để phân tích đề toán (Bài toán cho biết gì?), quan sát dấu ? để biết bài toán hỏi gì? Dựa vào những dấu hiệu đã quan sát được học sinh nêu câu trả lời. + Nhìn vào sơ đồ để đặt một đề toán bằng lời phù hợp với sơ đồ đã vẽ. Ví dụ: + Bài 3, trang 25(SGK). - Giáo viên chia nhóm học sinh. - Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm các nội dung sau: + Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết đội 1 có 15 người, đội 2 có ít hơn đội 1 là 2 người) + Bài toán hỏi gì? ( Hỏi đội 2 có bao nhiêu người ) - Đại diện nhóm nêu kết quả thảo luận. - Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. - Giáo viên hỏi để kiểm tra mức độ hiểu của học sinh: + Dựa vào đâu em biết đội 1 có 15 người? ( Trên đoạn thẳng biểu thị số người của đội 1 có ghi 15 người. ) + Dựa vào đâu em biết số người đội 2 nhiều hơn số người đội 1 là 2 người ( Số người đội 2 được biểu thị đoạn thẳng bằng với đoạn thẳng biểu thị số người đội 1 và thêm 2 người. ) + Dựa vào đâu em biết điều bài toán hỏi? (Dựa vào dấu hỏi). - Đặt đề toán: Đội Một có 15 người, đội Hai có nhiều hơn đội Một là 2 người. Hỏi đội Hai có bao nhiêu người? * Giáo viên chốt lại kiến thức để khắc sâu: Với dạng bài cho đề bài bằng hình vẽ đoạn thẳng các em cần quan sát các dấu hiệu con số ghi trên đoạn thẳng để nắm được bài toán cho biết gì (cái đã cho); dựa vào dấu chấm hỏi để biết bài toán hỏi gì (cái cần tìm). * Dạng hình vẽ: + Bài 4, trang 131 (SGK) * Câu a: - Giáo viên chia nhóm học sinh. - Yêu cầu học sinh quan sát hình vẽ, thảo luận nhóm, trả lời các câu hỏi: + Đường gấp khúc ABCD gồm mấy đoạn thẳng? + Mỗi đoạn thẳng dài bao nhiêu? + Nêu cách tính đường gấp khúc? * Câu b: - Chia nhóm học sinh. - Yêu cầu các nhóm thảo luận các câu hỏi sau: + Nêu cách tính chu vi hình tứ giác. + Hình tứ giác ABCD có gì đặc biệt? + Giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học (là một thước gấp gồm 4 đoạn thẳng, mỗi đoạn thẳng có độ dài 3cm) để giúp học sinh nắm được chu vi cũng là độ dài đường gấp khúc khép kín. + Bài 3, trang 36 (SGK): - Học sinh thảo luận nhóm, phân tích bài toán: + Bài toán cho biết gì? ( Bài toán cho biết: Bao gạo nặng 46kg, bao ngô nặng 27kg.) + Bài toán hỏi gì? ( Bài toán hỏi: Hỏi cả hai bao cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam?) + Dựa vào đâu mà em biết: Dựa vào hình dạng của vật được vẽ. - HS dựa vào hình vẽ đặt đề toán: Bao gạo cân nặng 46kg, bao ngô cân nặng 27kg. Hỏi cả hai bao cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam? * Với dạng bài sử dụng sơ đồ đoạn thẳng (hình vẽ) để nhận biết cái đã cho, cái cần tìm giáo viên lưu ý học sinh cần dựa vào: - Hình dạng của vật được vẽ. - Số liệu trên vật. - Dấu hỏi. 2.3.2. Hướng dẫn học sinh trình bày tốt bài giải. * Hướng dẫn học sinh viết được câu lời giải và phép tính tương ứng: Thông thường việc trình bày một bài giải toán có lời văn tốt không chỉ là viết được câu lời giải đúng. Song song với việc trình bày được lời giải đúng học sinh còn phải viết được phép tính tương ứng. Chính vì thế khi học sinh xác định được dạng toán các em sẽ nêu được phép tính chính xác. Nhiệm vụ của người giáo viên lúc này rất quan trọng. Người giáo viên sẽ phải tìm cách để hướng dẫn các em vừa viết được câu lời giải đúng vừa viết được phép tính đúng. Trong quá trình giảng dạy bài giải toán có lời văn bản thân tôi đã tiến hành như sau: - Viết câu lời giải: Một trong những khó khăn trong dạy bài giải toán có lời văn ở lớp 2 chính là hướng dẫn học sinh trình bày câu lời giải. Trong quá trình học sinh làm bài tôi nhận thấy học sinh hay sai câu lời giải. Vì vậy giáo viên sẽ là người định
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_nam_vung_cach_giai_toa.doc