SKKN Một số kinh nghiệm đánh giá kết quả học tập của học viên trong quá trình dạy học môn Vật lí ở trung tâm GDTX

SKKN Một số kinh nghiệm đánh giá kết quả học tập của học viên trong quá trình dạy học môn Vật lí ở trung tâm GDTX

Kiểm tra đánh giá là công đoạn cuối cùng của giáo dục, nhằm giúp cho nhà giáo thấy được chất lượng đào tạo cũng như người học thấy được kết quả của mình, và từ đó làm cơ sở cho công tác định hướng về sau . Tuy nhiên, điều đó có được chỉ khi việc kiểm tra đánh giá thực sự nghiêm túc và quy chế, phản ánh chính xác được khả năng của người học thông qua một nội dung đúng chuẩn. Nếu không thì không những mất tác dụng mà còn tạo ra tác hại ngược lại cho nhà giáo dục lẫn người học như đánh giá sai thực tế từ đó sinh ra bệnh mất niềm tin, dao động hoặc bệnh chủ quan lười biếng, ngại tư duy cho học viên.

Bên cạnh những định hướng đổi mới chung cho tất cả các thành tố của quá trình giáo dục như quá trình thay đổi sách giáo khoa, đổi phương pháp dạy học, đầu tư cho trang bị, cơ sở vật chất thì hoạt động đánh giá cũng cần phải có những định hướng trên và giải pháp riêng. Vấn đề đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học các môn tự nhiên nói chung, môn Vật Lí nói riêng ở Trung tâm GDTX – DN Hà Trung đã được đặt từ lâu, đã có nhiều ý kiến trao đổi trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các buổi tập huấn nâng cao năng lực giáo viên nhưng vẫn chưa thực sự áp dụng rộng rãi trong thực tiễn. Từ thực tế giảng dạy môn Vật Lí ở Trung Tâm GDTX – DN Hà Trung tôi mạnh dạn đưa ra “Một số kinh nghiệm đánh giá kết quả học tập của học viên trong quá trình dạy học môn Vật lí ở trung tâm GDTX ”

 

doc 16 trang thuychi01 5745
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm đánh giá kết quả học tập của học viên trong quá trình dạy học môn Vật lí ở trung tâm GDTX", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Kiểm tra đánh giá là công đoạn cuối cùng của giáo dục, nhằm giúp cho nhà giáo thấy được chất lượng đào tạo cũng như người học thấy được kết quả của mình, và từ đó làm cơ sở cho công tác định hướng về sau . Tuy nhiên, điều đó có được chỉ khi việc kiểm tra đánh giá thực sự nghiêm túc và quy chế, phản ánh chính xác được khả năng của người học thông qua một nội dung đúng chuẩn. Nếu không thì không những mất tác dụng mà còn tạo ra tác hại ngược lại cho nhà giáo dục lẫn người học như đánh giá sai thực tế từ đó sinh ra bệnh mất niềm tin, dao động hoặc bệnh chủ quan lười biếng, ngại tư duy cho học viên.
Bên cạnh những định hướng đổi mới chung cho tất cả các thành tố của quá trình giáo dục như quá trình thay đổi sách giáo khoa, đổi phương pháp dạy học, đầu tư cho trang bị, cơ sở vật chất thì hoạt động đánh giá cũng cần phải có những định hướng trên và giải pháp riêng. Vấn đề đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học các môn tự nhiên nói chung, môn Vật Lí nói riêng ở Trung tâm GDTX – DN Hà Trung đã được đặt từ lâu, đã có nhiều ý kiến trao đổi trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các buổi tập huấn nâng cao năng lực giáo viên nhưng vẫn chưa thực sự áp dụng rộng rãi trong thực tiễn. Từ thực tế giảng dạy môn Vật Lí ở Trung Tâm GDTX – DN Hà Trung tôi mạnh dạn đưa ra “Một số kinh nghiệm đánh giá kết quả học tập của học viên trong quá trình dạy học môn Vật lí ở trung tâm GDTX ”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cuối cùng là nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn vật lí ở trung tâm giáo dục thường xuyên cấp THPT. Qua đó làm sáng tỏ mức độ đạt được của học viên về kiến thức, kĩ năng, thái độ so với mục tiêu dạy học đề ra, giúp học viên nhận ra sự tiến bộ cũng như những tồn tại của bản thân. Từ đó khuyến khích thúc đẩy việc học tập của các học viên. 
1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
	Nội dung đề tài: Tổng kết một số kinh nghiệm bước đầu trong quá trình đổi mới khâu kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học viên ở trung tâm GDTX 
1.4. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu
	Đối tượng: Học viên khối 11, 10 trung tâm GDTX – DN Hà Trung.
	Phương pháp nghiên cứu gồm: Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp nghiên cứu lí thuyết, tọa đàm trao đổi, phân tích tổng hợp.
2.NỘI DUNG
2.1. Cơ sở của lí luận vấn đề
2.1.1. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
2.1.2. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ: "Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học"; "Đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách quan và công bằng; kết hợp kết quả kiểm tra đánh giá trong quá trình giáo dục với kết quả thi". 
2.1.3.Vị trí, vai trò của kiểm tra – đánh giá là không chỉ ở thời điểm cuối cùng của mỗi giai đoạn giáo dục mà trong cả quá trình. Đánh giá ở mỗi thời điểm cuối mỗi giai đoạn sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục.
2.1.4. Đổi mới kiểm tra, đánh giá là hướng vào bám sát mục tiêu từng bài, từng chương và mục tiêu giáo dục của môn học ở từng lớp, từng cấp. Các câu hỏi, bài tập sẽ đo được mức độ thực hiện các mục tiêu đã được xác định. Đổi mới nội dung, phương pháp theo hướng tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo niềm tin, năng lực tự học cho học sinh thì đánh giá phải đổi mới theo hướng phát triển trí thông minh, sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của HV trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực. 
2.1.5. Việc kiểm tra, đánh giá phải khách quan, chính xác. Cần phải phối hợp kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kì, phối hợp kiểm tra đánh giá của giáo viên với tự kiểm tra đánh giá của học viên. Nội dung kiểm tra, đánh giá không được quá dễ hay quá khó đối với học viên. 
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1.Thực trạng:
 Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng trong quá trình dạy học, nhằm kiểm tra khả năng đánh bắt và vận dụng kiến thức của học viên, là một dịp để học viên thể hiện khả năng, phẩm chất và rèn luyện kĩ năng. Kết quả kiểm tra đánh giá không chỉ để phục vụ cho việc giáo viên đánh giá xếp loại học viên mà còn là kênh thông tin quan trọng để giáo viên nắm bắt thực tế kết quả học tập của học viên, từ đó có những điều chỉnh, uốn nắn kịp thời về nội dung, phương pháp giảng dạy.
Việc tổ chức tốt khâu đánh giá sẽ có tác dụng tăng cường niềm say mê, hứng thú học tập của học viên, giúp các em cố gắng đạt kết quả cao trong học tập. Còn nếu làm lỏng lẻo yếu ở khâu này sẽ có tác dụng ngược lại. Có thể hình dung quy trình dạy học là một vòng tròn, trong đó kiểm tra đánh giá là một mắt xích không thể thiếu, có tác dụng trở lại đối với động cơ hứng thú, kết quả dạy học.
Tuy nhiên công tác kiểm tra đánh giá ở nhiều TTGDTX, cụ thể là tại TTGDTX Hà Trung nơi tôi đang công tác cách thức kiểm tra đánh giá còn chậm thay đổi, việc đánh giá kết quả học tập và thi cử vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu dạy học đề ra. Cụ thể của thực trạng này như sau:
Thứ nhất, về phần kiểm tra vẫn còn nặng yêu cầu tái hiện kiến thức, cộng với việc giáo viên coi thi chưa nghiêm túc nên học viên chép tài liệu còn nhiều.Một số đề quá khó hoặc không phù hợp trình độ khả năng của học viên, không phù hợp với sự phân bố thời gian nên học viên bị ức chế.
Thứ hai, về phía giáo viên, không ít giáo viên còn coi kiểm tra đánh giá là một khâu phụ, chỉ nhằm mục đích lấy điểm con số. Có những giáo viên dạy nhiều lớp nhưng chỉ sử dụng một đề chung, nên các lớp kiểm tra sau sẽ biết đề trước, dẫn đến tiêu cực. Một số giáo viên còn qua loa sơ sài trong khâu chấm bài, cho điểm nhiều khi không chính xác. Học sinh khá còn không được khuyến khích, học sinh yếu kém không được uốn nắn kịp thời có những học sinh chép tài liệu được điểm cao. Kết quả kiểm tra nhiều khi không phản ánh được chất lượng học tập, phổ điểm dao động trong phạm vi hẹp, không mạnh dạn cho điểm thấp hoặc cao. Nhiều giáo viên ít hỏi bài cũ, có giáo viên hỏi bài cũ nhiều quá, một số giáo viên lạm dụng phương pháp trắc nhiệm, coi trắc nghiệm là mức đột phá trong kiểm tra.
Thực trạng trên theo tôi bắt nguồn từ các nguyên nhân sau: 
- Một số giáo viên chưa đầu tư đúng mức vào khâu kiểm tra đánh giá chưa nắm được cách khai thác các thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, kiểm tra đánh giá.
- Hoạt động kiểm tra đánh giá chưa bảo đảm yêu cầu khách quan, chính xác, công bằng; việc kiểm tra chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức và đánh giá qua điểm số đã dẫn đến tình trạng giáo viên và học viên duy trì dạy học theo lối "đọc-chép" thuần túy, học viên học tập thiên về ghi nhớ, ít quan tâm vận dụng kiến thức. Đôi khi giáo viên chưa vận dụng đúng quy trình biên soạn đề kiểm tra nên các bài kiểm tra còn nặng tính chủ quan của người dạy. Tình trạng học viên quay cóp tài liệu, đặc biệt là chép bài của nhau trong khi thi, kiểm tra còn diễn ra.
- Chương trình môn vật lí BTTHPT phải dùng chung SGK với chương trình THPT vì thế khối lượng và mức độ kiến thức của chương trình môn lí là rất nặng và quá tải cho học viên học GDTX. Phân phối chương trình rất ít tiết luyện tập nên trong một tiết dạy giáo viên khó mà rèn luyện kĩ năng cho học viên. Đặc biệt hơn là kì thi TN BTTHPT dùng chung đề thi với THPT nên GV là người có vai trò quyết định trong việc lựa chọn phương pháp để thực hiện chương trình sao cho đạt được mục tiêu xác định.
2.2.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
Để tìm hiểu thực trạng của vấn đề đang nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đối với HV lớp 11B;11C và 10A của TTGDTX Hà Trung.
Năm học 2014-2015 trước chưa tiến thành đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá. Kết quả như sau:
Lớp
Tổng số HV
Kết quả kiểm tra
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm < 5
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
11B
32
0
0
2
6,2
10
31,3
24
62,5
11C
28
0
0
2
7,2
9
32,1
17
60,7
10A
33
0
0
3
9,1
12
36,4
18
54,5
Những số liệu trên cho thấy chất lượng môn học chưa thật sự đáp ứng được mục tiêu giáo dục đề ra. Do vậy, bản thân tôi nhận thấy, ngoài việc đổi mới phương pháp dạy trên lớp, để tăng cường niềm say mê, hứng thú học tập của học viên, giúp các em cố gắng đạt kết quả cao trong học tập, thì một khâu quan trọng nữa là các giáo viên phải vận dụng phương pháp mới trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học viên. Việc đổi mới khâu kiểm tra đánh giá cần được tiến hành song song với đổi mới phương pháp dạy học , phát huy tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo của học viên tích cực hưởng ứng cuộc vận động “nói không với tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục”, kết hợp với những giải pháp khác một cách đồng bộ để nâng cao chất lượng dạy học.
2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
2.3.1. Đổi mới về mục đích đánh giá 
	Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của HV với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng (năng lực) môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.
2.3.2. Đổi mới về nội dung đánh giá 
- Chú ý thêm vào nội dung thực hành môn vật lí của HV, việc đánh giá nội dung thực hành cần phải tiến hành đồng bộ với phần lí thuyết.
- Chú ý đánh giá khả năng tìm tòi, khai thác thông tin, xử lí và áp dụng thông tin, năng lực tư duy sáng tạo.
- Đối với GDTX cấp THPT giáo viên cần bám sát vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình chuẩn, không đòi hỏi HV biết những nội dung về chuẩn kiến thức, kĩ năng khác liên quan có trong các tài liệu tham khảo.
2.3.3. Đổi mới hình thức đánh giá
- Kiểm tra miệng, kiểm tra viết, sử dụng phiếu hỏi, bài tập theo chủ đề và bài tập thực hành.
- Kết hợp kiểm tra đánh giá của giáo viên và đánh giá HV, đánh giá đầu giờ để kiểm tra bài cũ và đánh hoạt động của HV trong giờ học để xây dựng kiến thức mới
- Kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Hiện nay ở Việt Nam có xu hướng chọn hình thức trắc nghiệm khách quan cho các kỳ thi tốt nghiệp hay thi tuyển đại học. Trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm riêng cho các kỳ thi này. Tuy nhiên trong giảng dạy thì không được lạm dụng hình thức này. Vì nhược điểm cơ bản của trắc nghiệm khách quan là khó đánh giá được khả năng sáng tạo cũng như năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. 
2.3.4. Đổi mới công cụ đánh giá.
Bộ công cụ đánh giá cần được xây dựng đa dạng, gồm bài trắc nghiệm khách quan, bài tập tự luận, kết hợp trắc nghiệm khách quan và tự luận, bài tập nghiên cứu nhỏ Để có thể vừa đánh giá được mức độ lĩnh hội tri thức, vừa đánh giá được kĩ năng vận dụng, kĩ năng thực hành, năng lực giải quyết vấn đề học viên. Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp GV và HV điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.
2.3.5. Đổi mới về phương tiện đánh giá.
Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin một cách hợp lí để hỗ trợ việc đổi mới kiểm tra đánh giá HV. Qua đó chấm trả bài kịp thời cho HV.
Giáo viên nên dành một thời gian thích đáng cho việc chấm bài, trả bài, nên có sự trao đổi với HV về kết quả bài làm. Phổ điểm nên trải rộng để đánh giá thực chất lượng học tập của HV. Cần cho HV thấy được mục đích của kiểm tra không chỉ lấy điểm mà chủ yếu để HV tự bộc lộ, tự rèn luyện. Khâu kiểm tra đánh giá cũng là một dịp để giáo viên giáo dục HV về tính trung thực, tinh thần cố gắng sáng tạo. Giáo viên cần tỏ thái độ nghiêm khắc đối với HV gian lận. Sau khi chấm bài, giáo viên nên cho HV được phản ánh, trao đổi về kết quả làm bài, về những vấn đề thuộc về khâu kiểm tra đánh giá và có những giải đáp hợp lí.
2.4. Các biện pháp để tổ chức thực hiện
2.4.1. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HV trước, trong và sau giờ học.
- Sau mỗi bài học cần có sự khắc sâu giúp HV nắm chắc kiến thức trọng tâm của bài. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành thời gian từ 5 đến 7 phút (tùy theo thời lượng kiến thức của bài mới) để kiểm tra, đánh giá việc học bài cũ và làm bài tập ở nhà của học sinh. Việc kiểm tra bài cũ thường xuyên sẽ giúp các em chủ động trong việc nắm kiến thức, củng cố, ôn luyện kiến thức và rèn luyện tính tự giác, nghiêm túc trong học tập. Những câu hỏi ngắn xoay quanh kiến thức bài học cũ với nội dung hoặc là tái hiện ghi nhớ kiến thức, hoặc mở rộng khắc sâu kiến thức trọng tâm. Bởi vậy mặc dù số tiết học môn Vật lí 2 tiết/tuần nhưng tôi vẫn cố gắng mỗi học kì có 100% HV được lên bảng kiểm tra bài cũ.
- Vận dụng linh hoạt một số hình thức kiểm tra miệng thực sự lôi cuốn toàn bộ HV trong lớp và đánh giá được nhiều HV nhất. Ngoài mục đích kiểm tra việc nắm kiến thức của các HV phải một lần nữa khắc sâu thêm kiến thức trọng tâm.
- Không nên chỉ dừng ở mức độ ”nhận biết”, chỉ yêu cầu HV nhắc lại các kiến thức đã học mà yêu cầu HV ”vận dụng” những kiến thức này vào tình huống mới. Việc ghi nhớ được những kiến thức đã học chỉ nên cho không quá 5 điểm, 5 điểm còn lại dành cho việc đánh giá mức độ ”thông hiểu” và ” vận dụng” kiến thức vào tình huống mới.
- Trong quá trình dạy câu hỏi đưa ra phải có chất lượng yêu cầu phù hợp và đánh giá được năng lực của HV, HV phải dựa kiến thức cũ kết hợp với kiến thức mới để trả lời.
- Kiểm tra miệng là một hoạt động quan trọng của tiết học nên hoạt động này cần được ghi và chuẩn bị trước trong giáo án.
Ví dụ 1: Câu hỏi lí thuyết chỉ yêu cầu nhận biết
 Phát biểu định nghĩa công suất và đơn vị của công suất. Nêu ý nghĩa vật lí của công suất ?
Ví dụ 2: Câu lí thuyết yêu cầu phải thông hiểu và vận dụng được kiến thức vào những tình huống mới.
Một lực không đổi liên tục kéo một vật chuyển động với vận tốc theo hướng của lực . Tính công suất của lực .
Ví dụ 3: Bài toán nhỏ
Một gàu nước khối lượng 10kg được kéo cho chuyển động đều lên độ cao 5m trong khoảng thời gian 2 phút. Tính công suất trung bình của lực kéo (lấy g = 10 m/s2).
2.4.2. Kiểm tra định kì 
 Kiểm tra định kì được sử dụng sau khi kết thúc một hoặc một số chương, phần, chủ đề. Đối với môn Vật lí, kiểm tra định kì gồm: Kiểm tra viết (45 phút 1 tiết) , kiểm tra học kì, kiểm tra cuối năm. 
4.2.1. Tiêu chí biên soạn một bài kiểm tra môn vật lí.
 Phạm vi kiểm tra và một số câu hỏi: các câu hỏi đánh giá mức độ học tập của HV dựa trên chuẩn kiến thức kĩ năng.
Mức độ: xác định được mức độ cần đạt trong việc thực hiện mục tiêu dạy học, mức độ thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng mà HV nắm được.
Hình thức kiểm tra: đề kiểm tra có các hình thức đề kiểm tra tự luận; Đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan; hoặc đề kiểm tra kết hợp cả hai hình thức trên: có cả câu hỏi dạng tự luận và câu hỏi dạng trắc nghiệm khách quan.
Tác dụng phân hóa: Phân loại được chính xác trình độ, mức độ, năng lực nhận thức của HV, đảm bảo dải phân hóa rộng đủ cho phân loại đối tượng.
Có giá trị phản hồi: Các câu hỏi phải có tình huống để HV bộc lộ điểm mạnh, yếu về nhận thức và năng lực.
Độ tin cậy: chính xác, trung thực, minh bạch, khách quan, công bằng trong đánh giá, phản ánh được chất lượng thực của HV.
Tính chính xác khoa học: đề kiểm tra không có sai sót, các câu hỏi phải diễn đạt rõ ràng, chặt chẽ, truyền tải hết yêu cầu kiến thức mà HV nắm được.
Tính khả thi: câu hỏi phải phù hợp với trình độ, thời gian làm bài của HV.
4.2.2. Quy trình biên soạn kiểm tra 
Bước 1. Xác định mục đích của đề kiểm tra
	Đề kiểm tra là một công cụ dùng để đánh giá kết quả học tập của HS sau khi học xong một chủ đề, một chương, một học kì, một lớp hay một cấp học nên GV ra đề kiểm tra cần căn cứ vào yêu cầu của việc kiểm tra, căn cứ chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình và thực tế học tập của HV để xây dựng mục đích của đề kiểm tra cho phù hợp. 
Bước 2. Xác định hình thức đề kiểm tra
Đề kiểm tra có các hình thức sau:
	1) Đề kiểm tra tự luận;
	2) Đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan;
	3) Đề kiểm tra kết hợp cả hai hình thức trên: có cả câu hỏi dạng tự luận và câu hỏi dạng trắc nghiệm khách quan.
	Mỗi hình thức đều có ưu điểm và hạn chế riêng nên cần kết hợp một cách hợp lý các hình thức sao cho phù hợp với nội dung kiểm tra và đặc trưng môn học để nâng cao hiệu quả, tạo điều kiện để đánh giá kết quả học tập của HS chính xác hơn. 
Bước 3. Thiết lập ma trận đề kiểm tra
Lập một bảng có hai chiều, một chiều là nội dung hay mạch kiến thức chính cần đánh giá, một chiều là các cấp độ nhận thức của HS theo các cấp độ: nhận biết, thông hiểu và vận dụng (gồm có vận dụng ở cấp độ thấp và vận dụng ở cấp độ cao).
Các bước cơ bản thiết lập ma trận đề kiểm tra: 
B1. Liệt kê tên các chủ đề (nội dung, chương...) cần kiểm tra; 
B2. Viết các chuẩn cần đánh giá đối với mỗi cấp độ tư duy;
B3. Quyết định phân phối tỉ lệ % tổng điểm cho mỗi chủ đề (nội dung, chương...);
B4. Quyết định tổng số điểm của bài kiểm tra;
B5. Tính số điểm cho mỗi chủ đề (nội dung, chương...) tương ứng với tỉ lệ %;
B6. Tính số điểm và quyết định số câu hỏi cho mỗi chuẩn tương ứng;
B7. Tính tổng số điểm và tổng số câu hỏi cho mỗi cột;
B8. Tính tỉ lệ % tổng số điểm phân phối cho mỗi cột;
B9. Đánh giá lại ma trận và chỉnh sửa nếu thấy cần thiết. 
Bước 4. Biên soạn câu hỏi theo ma trận
	Việc biên soạn câu hỏi theo ma trận cần đảm bảo nguyên tắc: mỗi câu hỏi chỉ kiểm tra một chuẩn hoặc một vấn đề, khái niệm; số lượng câu hỏi và tổng số câu hỏi do ma trận đề quy định.
a. Dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan:
- Ưu và nhược điểm:
	+ Ưu điểm: Độ phủ nội dung kiến thức cần kiểm tra rộng. Đảm bảo tính khách quan khi chấm bài.
+ Nhược điểm: Không đánh giá được một số kĩ năng của HV. Không đánh giá được khả năng sáng tạo ở mức độ cao.
- Tiêu chí xây dựng đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan
	+ Phải đánh giá được nội dung trọng tâm của mục tiêu chương trình giảng dạy
	+ Câu hỏi phải phù hợp với tiêu chí đề kiểm tra
	+ Diễn đạt cấu trúc câu hỏi đơn giản, dễ hiểu.
	+ Câu đáp án đúng sai không quá nhận thấy rõ ràng.
	+ Các đáp án lựa chọn phải đồng nhất và phù hợp với yêu cầu câu hỏi.
	+ Hạn chế sử dụng đáp án tất cả đều đúng hay tất cả đều sai.
	+ Câu gây nhiễu phải có cơ sở từ lựa chọn sai lầm do kiến thức không chắc chắn.
Các dạng câu hỏi có trắc nghiệm khách quan:
*Dạng 1: Trắc nghiệm nhiều lựa chọn:
	- Cấu trúc gồm: + Câu dẫn (Câu đặt ra yêu cầu cho HV thực hiện)
	+ Câu nhiễu.
	+ Đáp án đúng
	Lưu ý: Cần nêu ngắn gọn các yêu cầu đặt ra.
Ví dụ 1: Điều khẳng định nào dưới đây chỉ đúng cho chuyển động thẳng nhanh dần đều ?
Gia tốc của chuyển động không đổi.
Chuyển động có véctơ gia tốc không đổi.
Vận tốc của chuyển động là hàm bậc nhất của thời gian.
Vận tốc của chuyển động tăng đều theo thời gian.
Ví dụ 2: Một chiếc xe đạp đang chuyển động với vận tốc 12 km/h bỗng hãm phanh và chuyển động thẳng chậm dần đều, sau 1 phút thì dừng lại. Gia tốc của xe là
	A. 200 m/s2.	B. 2 m/s2.	C. 0,5 m/s2.	D. 0,055 m/s2.
*Dạng 2: Trắc nghiệm đúng sai:
- Cấu trúc gồm 2 phần
	Phần yêu cầu: Chọn nội dung đúng (Đ) hoặc sai (S)
	Phần thông tin: Gồm 4 đến 5 câu mỗi câu có một nội dung đúng hoặc sai
	Không dùng câu phủ định, đặc biệt là câu phủ định hai lần.
Lưu ý: Số lượng câu đúng, sai nên lệch nhau để tránh trường hợp HV không suy nghĩ mà vẫn chọn đúng do loại trừ.
Ví dụ : Trong các phát biểu sau, phát biểu nào đúng (Đ), phát biểu nào sai (S) ?
Đ
S
1. Khi một vật chuyển động thẳng thì động năng của vật được bảo toàn.
2. Khi một vật chuyển động cong thì động năng của vật thay đổi.
3. Khi một vật chuyển động thẳng thì thế năng của vật được bảo toàn.
4. Khi một vật rơi tự do thì cơ năng của vật bảo toàn.
5.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_danh_gia_ket_qua_hoc_tap_cua_hoc_vie.doc