SKKN Một số hình thức nông lâm kết hợp tại huyện Quan sơn tỉnh Thanh Hóa
Nông lâm kết hợp(NLKH)là phương thức sử dụng đất có hiệu quả kinh tế, môi trường và văn hoá, xã hội trong phát triển nông nghiệp cộng đồng và phát triển kinh tế nông thôn miền núi. Trong giai đoạn hiện nay, mô hình nông lâm kết hợp là hiện tượng phổ biến trong tổ chức sản xuất nông, lâm nghiệp của các dân tộc dựa trên cơ sở điều kiện tự nhiên, mà trước hết là đất, rừng và khí hậu. Chiến lược phát triển bền vững cho đồng bào các dân tộc khu vực miền núi là phải xây dựng các mô hình nông lâm có hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, đồng thời phải khai thác cơ hội mô hình nông lâm kết hợp trên cơ sở tổ chức sản xuất và kinh doanh tổng hợp các loại cây trồng, vật nuôi, kết hợp với trồng rừng, bảo vệ nguồn sinh thuỷ và rừng đầu nguồn.
Trong khi đó Quan Sơn là huyện miền núi, vùng cao, biên giới, nằm về phía tây bắc của tỉnh Thanh Hóa. Huyện có địa hình bán sơn địa với tổng diện tích tự nhiên là 93.017,03 ha.
Với hơn 36.636 người sinh sống. Trong đó có 6 xã giáp vùng biên giới và có 4 dân tộc cùng sinh sống đó là: Thái, H.Mông, Kinh, Mường. Do trình độ dân trí chưa cao, sản xuất manh mún, đời sống gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển. Tình hình quản lý sử dụng đất đai trong những năm qua còn nhiều bất cập hiệu quả sử dụng đất chưa cao ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội và ổn định đời sống nhân dân trong huyện.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ HÌNH THỨC NÔNG LÂM KẾT HỢP TẠI HUYỆN QUAN SƠN TỈNH THANH HÓA Người thực hiện: Nguyễn Thị Dịu Hiền Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Trung Tâm GDTX – DN SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Dạy nghề THANH HÓA, NĂM 2016 MỤC LỤC TT Nội Dung Trang I MỞ ĐẦU 1 1 Lí do chọn đề tài 1 2 Mục đích nghiên cứu 1 3 Đối tượng nghiên cứu 2 4 Phương pháp nghiên cứu 2 II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2 1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 2 2 Thực trang phát triển một số hình thức NLKH tại huyện Q.Sơn 6 2.1 Thực trang phát triển nông nghiệp 6 2.2 Thực trạng phát triển chăn nuôi 9 2.3 Thực trạng phát triển rưng(lâm nghiệp) 10 2.4 Thực trạng phát triển thủy sản 11 2.5 Thực trạng phát triển trang trại 11 3 Một số giải pháp trong quá trình phát triển NLKH TẠI quan sơn 13 3.1 Giải pháp về kỹ thuật 12 3.2 Giải pháp về xá lập các hình thức NLKH 13 3.3 Các giải pháp phát triển sản xuất lâm nghiệp 14 3.4 Các giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp 15 3.5 Các giải pháp phát triển sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả 15 3.6 Các giải pháp phát triển chăn nuôi 16 3.7 Các giải pháp vốn đầu tư 16 3.8 Các giải pháp khuyến nông, khuyến lâm và dịch vụ 17 3.9 Giải pháp quy hoạch chế biến và tiêu thụ sảnphẩm 17 4 Lợi ích của của việc sử dụng hình thức NLKH vào sản xuất 17 III KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ 19 1 Kết luận 19 2 Kiến nghị 20 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Nông lâm kết hợp(NLKH)là phương thức sử dụng đất có hiệu quả kinh tế, môi trường và văn hoá, xã hội trong phát triển nông nghiệp cộng đồng và phát triển kinh tế nông thôn miền núi. Trong giai đoạn hiện nay, mô hình nông lâm kết hợp là hiện tượng phổ biến trong tổ chức sản xuất nông, lâm nghiệp của các dân tộc dựa trên cơ sở điều kiện tự nhiên, mà trước hết là đất, rừng và khí hậu. Chiến lược phát triển bền vững cho đồng bào các dân tộc khu vực miền núi là phải xây dựng các mô hình nông lâm có hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, đồng thời phải khai thác cơ hội mô hình nông lâm kết hợp trên cơ sở tổ chức sản xuất và kinh doanh tổng hợp các loại cây trồng, vật nuôi, kết hợp với trồng rừng, bảo vệ nguồn sinh thuỷ và rừng đầu nguồn. Trong khi đó Quan Sơn là huyện miền núi, vùng cao, biên giới, nằm về phía tây bắc của tỉnh Thanh Hóa. Huyện có địa hình bán sơn địa với tổng diện tích tự nhiên là 93.017,03 ha. Với hơn 36.636 người sinh sống. Trong đó có 6 xã giáp vùng biên giới và có 4 dân tộc cùng sinh sống đó là: Thái, H.Mông, Kinh, Mường. Do trình độ dân trí chưa cao, sản xuất manh mún, đời sống gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển. Tình hình quản lý sử dụng đất đai trong những năm qua còn nhiều bất cập hiệu quả sử dụng đất chưa cao ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội và ổn định đời sống nhân dân trong huyện. Mặt khác Huyện quan sơn hơn 90% dân số sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Do vậy sản xuất nông, lâm, thủy sản chiếm vị trí rất quan trọng trong toàn bộ quá trình phát triển kinh tế của huyện. Để phấn đấu trong 10 năm tới Quan Sơn trở thành huyện có kinh tế phát triển vững mạnh, đời sống vật chất, tinh thần không ngừng được nâng cao, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Quan Sơn lần thứ IV, nhiệm kỳ 2010-2015. Trong đó trọng tâm phát triển kinh tế nông nghiệp, tạo đà phát triển cho các ngành kinh tế khác. Nhằm xoá đói giảm nghèo sẽ là tiền đề phát triển kinh tế xã hội nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, việc lập “Quy hoạch phát triển sản xuất Nông, lâm, thỷ sản, bố trí Dân cư và phát triển nông thôn mới đến năm 2020” là yêu cầu cần thiết và cấp bách nhằm từng bước lập kế hoạch xây dựng phù hợp với sự phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn thời kỳ mới. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên nên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một số hình thức nông lâm kết hợp tại huyện quan sơn tỉnh thanh hóa” đề tài sẽ góp phần nghiên cứu và phát triển một số cây trồng có nhiều tiềm năng trong phát triển nông nghiệp bền vững ở vùng đất đồi núi, đặc biệt là các huyện miền núi. Trong tương lai, che phủ đất sẽ giảm đáng kể nhu cầu sử dụng phân hoá học, như vậy sẽ tiết kiệm được năng lượng cần phải tiêu tốn để sản xuất ra các loại phân này. Điều này cũng đồng nghiã với việc giảm thải vào khí quyển các khí hiệu ứng nhà kính, giảm ô nhiễm môi trường. Sản phẩm nông nghiệp sẽ là những sản phẩm hữu cơ có độ an toàn cao. Môi trường sinh thái sẽ được cải thiện, sức khoẻ cộng đồng sẽ được đảm bảo. 2.Mục đích nghiên cứu. Đánh giá thực trạng pháp triển các hình thức nông lâm kết và nghiên cứu sự hình thành các xu hướng pháp triển nông lâm kết hợp(NLKH) tại huyện Quan Sơn dưới tác động của một số chính sách trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Góp phần đề xuất một số định hướng chủ yếu nhằm thúc đẩy pháp triển các hình thức NLKH tại huyện Quan Sơn phù hợp điều kiện địa phương. 3. Đối tượng nghiên cứu. Các hình thức canh tác NLKH tại một số vùng sinh thái của huyện. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Điều tra khảo sát thực địa. Điều tra bổ sung thu thập tài liệu về các loại đất, cơ sở hạ tầng, địa hình. Điều tra hiện trạng đất đai tài nguyên rừng, diện tích trữ lượng các loại rừng trên địa bàn, đặc điểm tài nguyên động thực vật, đặc điểm tình hình sinh trưởng, phát triển tái sinh phục hồi đất đồi Phỏng vấn người dân về tập quán canh tác, nhu cầu sử dụng đất, cơ cấu các loại cây trồng vật nuôi. 4.2 Hồi cứu số liệu Thu thập thông tin số liệu từ các nguồn đã có trên địa bàn cũng như các tài liệu liên quan đến công tác quản lý và các hình thức NLKH tại huyện Quan Sơn tỉnh Thanh Hóa. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 1.1. Vị trí địa lý, kinh tế, địa hình diện mạo của huyện Quan Sơn. * Vị trí địa lý Quan Sơn là một huyện miền núi,vùng cao,biên giới, nằm phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa, có vị trí địa lý: Từ 21006’15”-20024’30” vĩ độ Bắc; và 104015’30”-105008’25” kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Quan Hóa. Phía Tây và Nam giáp nước CHDCND Lào. Phía Đông giáp huyện: Lang Chánh, Bá Thước. Huyện có diện tích tự nhiên 93.017,03ha; Dân số là hơn 36.636 người; Mật độ dân số trung bình là 38,4 người/km2; Trên địa bàn huyện có 13 đơn vị hành chính, bao gồm 12 xã và 1 thị trấn. Quan Sơn có Trung tâm huyện lỵ tại Km 35- Quốc Lộ 217, là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của huyện tuy nhiên kết cấu hạ tầng còn nhiều hạn chế và cách thành phố thanh hóa khoảng 150km. * Vị trí địa lý kinh tế. Huyện có vị trí địa lý chiến lược quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của khu vực miền núi và tỉnh Thanh Hóa; Là vùng đầu nguồn của hệ thống sông Mã, có ý nghĩa rất lớn về vị trí phòng hộ, tạo nguồn sinh thủy dự trữ nguồn nước, giảm tác động thiên tai và bảo vệ môi trường, tạo cân bằng hệ sinh thái đối với cả tỉnh; Trên địa bàn huyện có mạng lưới giao thông đường bộ đi qua như Quốc lộ 217, là tuyến đường nối với đường 1A, cắt đường Hồ Chí Minh qua các trung tâm phát triển của các huyện với nước bạn Lào. Là yếu tố thuận lợi cho việc giao lưu hợp tác và phát triển; Gồm 6 xã giáp biên giới với 64 km đường biên với nước bạn Lào; có cửa khẩu quốc tế Na Mèo và cửa khẩu tiểu ngạch Tam Thanh - Sầm Tớ, thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng biên, giao thương với nước bạn Lào, xây dựng biên giới hòa bình, hợp tác hữu nghị. * Địa hình địa mạo Là huyện vùng cao, địa hình hiểm trở, diện tích bề mặt bị chia cắt mạnh bởi sông Luồng và sông Lò, có các dãy núi cao kéo dài thành dải theo hướng Tây Bắc - Đông Nam như: Pù Mằn - Sơn Hà cao 1247m; Pa Panh - Sơn Điện - Sơn Lư, cao 1146-1346m; hướng núi thấp dần từ tây sang đông, trên 91% diện tích là đồi núi, với độ dốc cụ thể như sau: Đất có độ dốc cấp I (< 3o): 4,48ha; chiếm gần 0,005% diện tích tự nhiên; Có độ dốc cấp II (4-8o): 214,86 ha; chiếm 0,23%; Có Độ dốc cấp III (9-15o): 2.285,21 ha; chiếm 2,46%; Có độ dốc cấp IV, V,VI(> 15o): 90.512,48 ha; chiếm 97,31%. * Khí hậu Khí hậu thời tiết: Huyện Quan Sơn thuộc vùng khí hậu núi cao phía Tây Bắc của tỉnh Thanh Hóa. Nhiệt độ không khí trung bình năm 23oC, nhiệt độ không khí tối cao tuyệt đối 39- 40oC vào tháng 5, tháng 7; tối thấp tuyệt đối 2,6oC vào tháng 12, tháng 1. Lượng mưa trung bình năm trên 1900 mm, mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 10 (tháng có lượng mưa trên 100 mm). Tháng có lượng mưa < 100 mm là tháng 12; 1; 2; 3 và tháng 4. Số ngày mưa 194 ngày/năm, tháng có số ngày mưa nhiều nhất là tháng 6,7,8 Độ ẩm không khí tương đối trung bình năm 87%, thấp nhất 84% vào tháng 5, cao nhất 88% vào tháng 8, tháng 9; Lượng bốc hơi trung bình năm 628,9 mm/năm, cao nhất vào tháng 7 là 78 mm, thấp nhất vào tháng 1 là 40,3 mm; Tổng số giờ nắng trong năm trung bình là 1.684 giờ; Bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng từ tháng 7 đến tháng 10, trung bình 2 cơn/năm, thường mang theo mưa lớn gây lũ lụt. Gió Tây Nam khô nóng trung bình 21,5 ngày/năm (từ tháng 4 - tháng 7); Giông tố trung bình 99,5 ngày/năm; Gió mùa Đông Bắc trung bình 18 đợt/năm (từ tháng 10 - tháng 3); Số ngày rét đậm có sương giá trung bình 5,4 ngày/năm; Số ngày có khả năng sương muối 1,2 ngày/năm (vào tháng 12 và tháng 1); Số ngày mưa phùn trung bình 48,2 ngày/năm (vào tháng 1-3); Số ngày hanh heo trung bình 11,4 ngày/năm (vào tháng 11-12); Thuận lợi của khí hậu thời tiết là tổng nhiệt độ năm cao, nhiệt độ không khí trung bình năm cao, số giờ nắng cao, lượng mưa, ẩm độ lớn thích hợp cho thực vật, cây trồng sinh trưởng và phát triển. Nhưng bất lợi của thời tiết là luợng mưa phân bố không đều, tập trung vào mùa mưa nên dễ gây ra hiện tượng lũ quét, lũ ống, sạt lở đất, đá lăn. Mùa đông ít mưa, khô hanh, rét đậm, có xuất hiện sương giá và dễ gây nên hạn hán, cháy rừng. Mùa hè có gió Tây Nam khô nóng, giông tố, mưa đá, bão, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân. * Thủy văn Hệ thống sông suối của Quan Sơn được phân bố như sau. Sông Luồng bắt nguồn từ Lào chảy qua các xã Na Mèo, Mường Mìn, Sơn Thủy chảy ra Nam Động huyện Quan Hóa. Sông Lò Bắt nguồn từ Lào chảy qua các xã Tam Thanh, Tam lư, Sơn Lư,Thị Trấn, Trung Thượng, Trung Tiến, Trung Hạ, Trung Xuân, đổ về sông Mã và nhiều suối khác chảy về sông Lò, sông Luồng. Sông suối dốc, tốc độ dòng chảy lớn về mùa mưa lũ, là nguy cơ gây lũ quét, lũ ống, sạt lở đất 2 bên bờ sông, suối ảnh hưởng trực tiếp đến nhà ở và hoa mầu của nhân dân Tuy nhiên Các xã phân bố ở vùng cao đã được quan tâm làm bể chứa nước nhưng hiện nay nước cấp sinh hoạt còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cũng như sản xuất của nhân dân.. 1.2.Các nguồn tài nguyên * Tài nguyên đất Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 93.017,03 ha, bao gồm những loại đất sau: + Đất nông nghiệp: 82.273,11 ha; chiếm 88,45% diện tích tự nhiên toàn huyện - Đất sản xuất nông nghiệp: 2.521,16 ha; chiếm 2,71%; - Đất cho sản xuất lâm nghiệp: 79.682,21 ha; chiếm 85,66%; + Đất phi nông nghiệp: 2.688,84 ha; chiếm 2,89%; + Đất chưa sử dụng: 8.055,08 ha; 8,66%. Đất chưa sử dụng hiện nay là 8.055,08 ha (chiếm 8,66% DTTN) có thể khai thác cho phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp và sử dụng vào các mục đích khác. * Tài nguyên rừng Tổng diện tích đất lâm nghiệp của huyện nhiều chiếm phần lớn tổng diện tích tự nhiên của huyện, với thảm thực vật rừng khá phong phú tạo thành quần thể tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc phòng hộ và cũng có một vai trò kinh tế nhất định, tuy nhiên trong thời gian qua vẫn có một số diện tích đất rừng bị cháy. Rừng là nơi cung cấp nguyên liệu phục vụ đời sống và góp phần chống xí mòn đất rất tốt.. Trong tương lai cần chú ý tăng diện tích rừng khoanh nuôi bảo vệ rừng tăng độ che phủ rừng trong toàn huyện đảm bảo cân bằng sinh thái và bảo vệ tài nguyên đất, chống xói mòn, bảo vệ sự đa dạng sinh học và điều hòa nguồn nước. Bên cạnh đó rừng và sản xuất ngành lâm nghiệp là thế mạnh của huyện Quan Sơn được thể hiện trong các Nghị quyết và kế hoạch phát triển kinh tế của huyện. Theo kết quả rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng tại Quyết định 2755/2007/QĐ-UBND ngày 12-9-2007 của UBND tỉnh Thanh Hóa; Quyết định 346/QĐ-UBND ngày 26/01/2011 của UBDN tỉnh Thanh Hoá. Diện tích đất sử dụng vào mục đích lâm nghiệp đến là 79.682,21 ha chiếm 85,66% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện; trong đó rừng phòng hộ 31.058,22 ha; rừng sản xuất 48.623,99 ha. Hệ thực vật rừng phong phú, đa dạng; các loài gỗ quý như Sến, Táu mật, Dổi, De, Vàng Tâm đang suy giảm nhanh do khai thác chọn gỗ tốt. Họ tre nứa có rừng Luồng trồng, Nứa, Vầu, Giang tự nhiên. Rừng trồng chủ yếu là rừng Luồng, trữ lượng không cao do khai thác mạnh hàng năm. Luồng là nguồn nguyên liệu cho sản xuất bột giấy trong Dự án vùng nguyên liệu giấy của nhà máy giấy Châu Lộc đang thi công. Do khai thác nhiều năm rừng Luồng đang bị thoái hóa, cần được cải tạo, trồng lại, bảo vệ và tổ chức khai thác sử dụng hợp lý có hiệu quả. * Tài nguyên nước Nước được phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong huyện được lấy từ nguồn nước mặt chủ yếu của huyện là nguồn nội sinh của các sông, suối thuộc hệ thống sông Mã; trên địa bàn huyện có trên 300 khe, suối lớn, nhỏ thường xuyên có nước. Việc trữ nước cho sản xuất chủ yếu bằng các đập ngăn nhỏ, hiện trên địa bàn huyện có trên 40 đập ngăn giữ nước phục vụ phát triển sản xuất và cấp nuớc sinh hoạt cho nhân dân. Có 2 sông lớn là Sông Luồng và Sông Lò; Sông Luồng là một nhánh lớn bên hữu ngạn sông Mã có tổng chiều dài 102 km; diện tích lưu vực là 1.590km2, đoạn chảy qua huyện dài 48km. Sông Lò tổng chiều dài sông là: 74,5 km, diện tích lưu vực 792 km2. Đoạn chảy trên địa bàn huyện dài trên 38 km. Hệ thống sông suối của Quan Sơn có nhiều tiềm năng cho xây dựng các hồ, đập phục vụ tưới thuỷ lợi; có nhiều vị trí có thể xây dựng các công trình thuỷ điện vừa và nhỏ, bổ sung điện năng cho lưới điện Quốc gia và phục vụ phát triển sản xuất như: Na Mèo (trên sông Luồng); Trung Thượng, Tam Lư, Trung Xuân (trên sông Lò)... * Nguồn nhân lực Theo thống kê đến 31/12/2015, toàn huyện có 18.804 người nằm trong độ tuổi lao động (chiếm 63,7% dân số), trong đó: lao động nông, lâm, thủy sản 14.816 người chếm 78,8%; Lao động tham gia trong công nghiệp - xây dựng 740 người chiếm 3,9%; Lao động dịch vụ thương mại 3.248 người chiếm 17,3%. Tỷ lệ lao động có trình độ qua đào tạo chiếm 14%, trong đó đào tạo nghề chiếm 6,5%. Đến nay, mặc dù trình độ lực lượng lao động đã có nhiều biến chuyển, song một bộ phận nhỏ trong dân cư còn giữ tập quán canh tác lạc hậu, trình độ sản xuất thấp, nên năng suất và hiệu quả lao động chưa cao. 1.3. Điều kiện kinh tế xã hội Huyện Quan Sơn có nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông lâm nghiệp gần như cuộc sống của người dân phụ thuộc vào cây vầu, nứa, luông. Người dân nơi này mới biết khai thác trứ chưa biết khoanh nuôi và bảo về rừng. Về nông nghiệp cây trồng chủ yếu là cây lương thực như: Lúa, ngô, sắncây công nghiệp ngắn ngày có lạc, đỗ tương, ngoài ra còn trồng rau, đậu các loại cung cấp cho thị trường. Chăn nuôi phát triển chăn nuôi ở huyện có chăn nuôi gia suc như: Trâu, bò, lợn, dê và chăn nuôi gia cầm: Gà, vịt ngoài ra còn có một số hộ nuôi thả cá, góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập. Về lâm nghiệp sản xuất hiện nay ở huyện chủ yếu rừng luồng, vầu, nứa và khoanh nuôi bảo vệ rừng tự nhiên phòng hộ, vì rừng hiện nay trên địa bàn huyện đang kì khai thác nên cũng có thu nhập kinh tế về rừng. Các ngành kinh tế khác: Hiện nay ngành kinh tế của huyện vẫn tập trung vào sản xuất nông lâm là chủ yếu, các ngành nghề dịch vụ, chế biến lâm sản đã có nhưng còn ở quy mô nhỏ. 2.Thực trạng phát triển một số hình thức NLKH tại huyện Quan Sơn. 2. 1. Thực trạng sản xuất nông nghiệp Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và ngành trồng trọt nói riêng của huyện vẫn là ngành sản xuất quan trọng và là ngành kinh tế chính của huyện trong những năm qua, sản xuất của ngành trồng trọt tương đối ổn định, năng suất cây trồng được cải thiện rõ rệt nhờ việc áp dụng tốt khoa học, kỹ thuật trong sản xuất, đưa các giống cây trồng có năng suất chất lượng cao và áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng đang được chuyển đổi một cách phù hợp, nhiều mô hình sản xuất áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến đang được mở rộng về quy mô, bên cạnh đó, hệ thống khuyến nông huyện hoạt động rất tích cực trong triển khai các mô hình trình diễn, phổ biến kiến thức kỹ thuật canh tác, hỗ trợ giống mới... Vì vậy sản xuất nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả khả quan Cụ thể như sau: Cây lúa: Diện tích gieo trồng lúa 1.986 ha. Các giống lúa lai có năng suất cao đang dần thay thế các giống lúa năng suất thấp của địa phương Nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đưa các giống lúa lai năng suất cao vào gieo trồng; nên năng suất lúa hàng năm của huyện đều tăng. Về cơ cấu giống lúa, chủ yếu là các giống lúa lai có chất lượng, hiệu quả kinh tế cao như: Lúa lai Đ.Ưu 527, Nhị Ưu 63, Nhị Ưu 838, Nhị Ưu 69; TH3 - 3, TH3-4; các giống lúa thuần Khang dân 18, Q5, Xi21, Xi23...; các giống lúa chất lượng cao như: Hương thơm, Bắc thơm số 7... Cây ngô: Trong những năm qua, ngô là cây lương thực rất được người dân quan tâm. Diện tích ngô 1.843 ha. Năng suất ngô ổn định năm sau cao hơn năm trước. Đóng góp đáng kể vào tổng sản lượng lương thực toàn huyện, góp phần gia tăng giá trị sản xuất cũng như hiệu quả sử dụng đất. Cơ cấu giống ngô chủ yếu được đưa vào gieo trồng trong thời gian qua như: CP888, CP999, CP919, NK4300, NK67, NK6654, NK54, NK66, LVN10, LVN855, VN8960, LCH... (thời gian sinh trưởng vào khoảng 95-100 ngày), là các giống có khả năng chống đỡ, chịu hạn tốt phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của huyện. Sản xuất lương thực huyện Quan Sơn, qua các năm 2005-2015 TT Chỉ tiêu Thực hiện qua các năm So sánh tăng (+), giãm(-) 2005 2010 2015 2005 -2010 2010-2015 Tổng SLLT có hạt (tấn) 5.911,0 8.225,0 10.397,0 2.314,0 2.172,0 1 Lúa cả năm (ha) 1.786,0 2.060,0 1.986,0 274,0 -74,0 Năng suất (tạ/ha) 25,0 29,0 34,8 4,0 5,8 Sản lượng (tấn) 4.463,0 5.965,1 6.905,0 1.502,1 939,9 a Lúa chiêm xuân (ha) 559,0 631,0 668,0 72,0 37,0 Năng suất (tạ/ha) 26,5 35,2 40,2 8,7 5,0 Sản lượng (tấn) 1.481,4 2.221,1 2.686,7 739,7 465,6 b Lúa mùa (ha) 1.227,0 1.429,0 1.318,0 202,0 -111,0 Năng suất (tạ/ha) 24,3 26,2 32,0 1,9 5,8 Sản lượng (tấn) 2.981,6 3.744,0 4.217,6 762,4 473,6 2 Ngô cả năm (ha) 959,0 1.381,0 1.843,0 422,0 462,0 Năng suất (tạ/ha) 13,6 16,4 18,9 2,8 2,5 Sản lượng (tấn) 1.148,0 2.260,0 3.492,0 1.112,0 1.232,0 Trên địa bàn toàn huyện cây lấy bột có củ chủ yếu là sắn. Những năm gần đây do nhu cầu phát triển của thị trường, đặc biệt là nhu cầu nguyên liệu của nhà máy chế biến tinh bột sắn. Diện tích gieo trồng sắn của huyện không ngừng được tăng lên và trở thành cây trồng quan trọng góp phần xoá đói giảm nghèo của huyện trong thời gian qua. Vùng nguyên liệu sắn cung cấp cho nhà máy chế biến tinh bột sắn Bá Thước. Tuy nhiên, sắn là cây hàng năm được trồng chủ yếu trên đất dốc, nên đất bị sói mòn và rửa trôi mạnh lại trồng độc canh nên năng suất không cao. Thực tế vùng nguyên liệu sắn chưa năm nào cung cấp đủ nguyên liệu cho nhà máy hoạt động hết công suất. Sản xuất cây lấy bột huyện Quan Sơn, giai đoạn 2005-2015 TT Chỉ tiêu Thực hiện qua các năm So sánh tăng (+), giảm (-) 2005 2010 2015 2005-2010 2010-2015 Tổng diện tích (ha) 910 898 1300 -12 402 Năng suất (tạ/ha) 90 97 110 7 13 Sản lượng (tấn) 8191 8702 14300 511 5598 Trong năm 2014 huyện có trồng thí điểm giống khoai sọ mán với diện tích là 4ha được trồng thí điểm ở các xã Trung Hạ, Sơn Lư, Sơn điện Tam Lư, năng suất đạt: 80tạ/ha. Khoai mán sọ là loại cây trồng rất phù hợp điều kiện khí hậu và đất đai của huyện ta, cho năng suất cao dễ trồng. Nhưng vẫn chưa được bà con lựa chọn trồng nhiều trong sản xuất nông nghiệp, là do chưa có thị trường tiêu thụ. Cây công nghiệp ngắn ngày của huyện chủ yế
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_hinh_thuc_nong_lam_ket_hop_tai_huyen_quan_son_ti.doc