SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (thân nhân trung)

SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (thân nhân trung)

Xuất phát từ yêu cầu, mục đích, nguyên tắc đổi mới phương pháp dạy học: “Lấy người học làm trung tâm, phát huy tính chủ thể của học sinh”, “Dạy học là dạy học sinh cách học”, “Quá trình học là quá trình kiến tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động sáng tạo”. Thực hiện được hướng đi đó cùng với yêu cầu đổi mới về mọi mặt để nâng cao chất lượng giáo dục trong trường THPT, vai trò định hướng của người thầy quyết định đến việc tiếp thu, nắm vững kiến thức của từng học sinh. Vì vậy người thầy cần có phương pháp đúng đắn, phù hợp với từng phân môn, từng bài dạy, từng đối tượng cụ thể để giúp học sinh đạt kết quả tốt nhất trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.

Hơn nữa, đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực có chất lượng trong cơ chế thị trường và hội nhật quốc tế là vấn đề cần thiết. Do đó, vấn đề dạy học theo hướng hiện đại đang đòi hỏi người dạy học phải tìm tòi sáng tạo để định hướng tri thức cho người học, giúp người học đáp ứng nhu cầu xã hội. Vậy những biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cho bài dạy là việc làm cần thiết, nhưng để có được điều đó người giáo viên phải tìm hiểu đối tượng, lựa chọn các biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Muốn vậy người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, say mê nghề nghiệp và hơn nữa cần tìm hiểu lựa chọn những biện pháp để áp dụng cho từng bài dạy của mình từ đó phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh như: tự học, tự bồi dưỡng rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo hứng thú trong môn học, từ đó nâng cao chất lượng giờ học. Bởi trong thực tế, do hệ lụy của xã hội phần lớn học sinh chưa hứng thú với môn ngữ văn, đặc biệt là các văn bản đọc thêm. Mặt khác, tôi thiết nghĩ mỗi bài dạy đều có vị trí, vai trò quan trọng của nó song những văn bản nghị luận trung đại mới đưa vào chương trình lại khá khó đối với học sinh, thậm chí giáo viên cũng không dễ tiếp cận, giải mã. Trong khi đó kinh nghiệm giảng dạy tích lũy chưa nhiều, tư liệu tham khảo cũng hạn chế. Vấn đề đặt ra như một thách thức với người giáo viên là tiến hành dạy kiểu bài này như thế nào? Tổ chức các hoạt động dạy học ra sao để đúng với mục đích, tính chất một giờ “đọc thêm”?

 

doc 19 trang thuychi01 6110
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (thân nhân trung)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT ĐẶNG THAI MAI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀI DẠY “HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ CỦA QUỐC GIA” 
(THÂN NHÂN TRUNG)
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Nam
 	 Chức vụ: Giáo viên
 	 SKKN thuộc môn: Ngữ Văn
THANH HOÁ, NĂM 2016
A . MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 
Xuất phát từ yêu cầu, mục đích, nguyên tắc đổi mới phương pháp dạy học: “Lấy người học làm trung tâm, phát huy tính chủ thể của học sinh”, “Dạy học là dạy học sinh cách học”, “Quá trình học là quá trình kiến tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động sáng tạo”. Thực hiện được hướng đi đó cùng với yêu cầu đổi mới về mọi mặt để nâng cao chất lượng giáo dục trong trường THPT, vai trò định hướng của người thầy quyết định đến việc tiếp thu, nắm vững kiến thức của từng học sinh. Vì vậy người thầy cần có phương pháp đúng đắn, phù hợp với từng phân môn, từng bài dạy, từng đối tượng cụ thể để giúp học sinh đạt kết quả tốt nhất trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Hơn nữa, đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực có chất lượng trong cơ chế thị trường và hội nhật quốc tế là vấn đề cần thiết. Do đó, vấn đề dạy học theo hướng hiện đại đang đòi hỏi người dạy học phải tìm tòi sáng tạo để định hướng tri thức cho người học, giúp người học đáp ứng nhu cầu xã hội. Vậy những biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cho bài dạy là việc làm cần thiết, nhưng để có được điều đó người giáo viên phải tìm hiểu đối tượng, lựa chọn các biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Muốn vậy người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, say mê nghề nghiệp và hơn nữa cần tìm hiểu lựa chọn những biện pháp để áp dụng cho từng bài dạy của mình từ đó phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh như: tự học, tự bồi dưỡng rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo hứng thú trong môn học, từ đó nâng cao chất lượng giờ học. Bởi trong thực tế, do hệ lụy của xã hội phần lớn học sinh chưa hứng thú với môn ngữ văn, đặc biệt là các văn bản đọc thêm. Mặt khác, tôi thiết nghĩ mỗi bài dạy đều có vị trí, vai trò quan trọng của nó song những văn bản nghị luận trung đại mới đưa vào chương trình lại khá khó đối với học sinh, thậm chí giáo viên cũng không dễ tiếp cận, giải mã. Trong khi đó kinh nghiệm giảng dạy tích lũy chưa nhiều, tư liệu tham khảo cũng hạn chế. Vấn đề đặt ra như một thách thức với người giáo viên là tiến hành dạy kiểu bài này như thế nào? Tổ chức các hoạt động dạy học ra sao để đúng với mục đích, tính chất một giờ “đọc thêm”? 
Trước thực trạng trên, qua quá trình giảng dạy tôi thiết nghĩ mình phải tìm ra các biện pháp áp dụng cho từng bài dạy cụ thể là một việc làm cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. Vì vậy, với kinh nghiệm giảng dạy của mình tôi mạnh dạn đề xuất sáng kiến: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia”(Thân Nhân Trung). Mục đích cuối cùng của việc dạy tốt bài này là tác động trực tiếp đến việc rèn đức, luyện tài, nâng cao kĩ năng lập luận diễn đạt của học sinh, từ đó hình thành ở các em ý thức về vai trò của hiền tài, của bản thân trong công cuộc xây dựng đất nước. Mong rằng đề tài sẽ góp một phần nhỏ cho việc đổi mới phương pháp dạy học đem lại hiệu quả thiết thực cho bản thân và đồng nghiệp. 
Tuy nhiên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện, rất mong nhận được sự góp ý từ đồng nghiệp để đề tài tôi lựa chọn được hoàn thiện hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh và sự hứng thú trong tiết học.
- Góp phần bồi dưỡng năng lực tư duy, năng lực diễn đạt và cách thức lập luận trong bài văn nghị luận của học sinh.
- Giáo dục bồi dưỡng học sinh trau dồi đức và tài để sống tốt, sống đẹp, sống có ý nghĩa.
- Cung cấp những tri thức cơ bản về văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia”(Thân Nhân trung).
3. Đối tượng nghiên cứu 
- Đối tượng trực tiếp nghiên cứu của tôi là văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba).
- Để thử nghiệm đề tài tôi chọn 2 lớp 10: lớp 10A3 và lớp 10A2 Trường THPT Đặng Thai Mai, Năm học 2015-2016.
 4. Phương pháp nghiên cứu 
 Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau : 
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tổng kết lí luận, thực tiễn.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh. 
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại. 
B. NỘI DUNG
 1. Cơ sở lý luận
Trong những năm gần đây cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đã dấy lên phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong các trường phổ thông. Hướng đi mới có nhiều hứa hẹn, vừa đảm bảo tính cơ bản, tinh giản và hiện đại, sát thực tiễn Việt Nam, phù hợp với xu thế tiên tiến của thế giới; vừa phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tích cực của học sinh vừa đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên. Đặc biệt trong chương trình Ngữ văn lớp 10, phần Văn học trung đại. 
Văn học trung đại là khái niệm chỉ nền văn học viết từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, với những phương thức nhận thức, phản ánh và đặc điểm nghệ thuật đặc thù. Văn học Trung đại Việt Nam chia làm 4 giai đoạn và nổi bật nhất là giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, được đánh dấu bằng cuộc chiến thắng quân Minh xâm lược và xây dựng quốc gia Đại Việt thịnh trị. Ở giai đoạn này, nghệ thuật chính luận tiếp tục phát triển, tạo nên những bài văn hùng biện xuất sắc như “Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba”. Đây là những tiết văn bia, hơn nữa những văn bản này đa số là khô khan, khó tạo cảm xúc ở học sinh. Vậy làm thế nào để có một giờ dạy hay, học sinh tích cực, chủ động và hứng thú trong tiết học, đặc biệt là học sinh hiểu và cảm nhận được giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản? Đó là những băn khoăn, trăn trở không chỉ riêng tôi mà ở mỗi một giáo viên dạy môn Ngữ văn.
Dạy văn là dạy cho học sinh nhận ra trong tác phẩm văn học nguồn tri thức vô cùng phong phú, đa dạng, hấp dẫn và bổ ích để bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ giúp HS sống có ý nghĩa hơn, tinh tế hơn, hoàn thiện bản thân. 
Trong quá tình dạy văn cần xác định học sinh là trung tâm, là chủ thể cảm thụ, sáng tạo. Giáo viên không được cảm nhận thay mà chỉ là người định hướng, chỉ đường cho các em khám phá văn bản. Con đường đó bao giờ cũng bắt đầu từ công việc tri giác ngôn ngữ, trải qua nhiều chặng đường, người giáo viên đóng vai trò khơi nguồn, tạo cảm hứng để học sinh tích cực tự giác trong việc cảm thụ, chiếm lĩnh tri thức và chủ động thưởng thức tác phẩm văn chương. Như vậy, yêu cầu phát huy chủ thể học sinh gắn liền với tài năng sáng tạo của người giáo viên. Hay nói đúng hơn đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn tính nghệ thuật và tính sư phạm trong quá trình dạy văn.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 
2.1. Thuận lợi 
- Về phía văn bản : “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung) 
+ Đây là một trong 82 bài văn bia ở Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) - Trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Nhiều học sinh đã đến thăm quan nơi này và đã có được ấn tượng ban đầu về những bài văn bia.
+ Văn bản thuộc thể loại nghị luận - dạng văn bia - một dạng văn bản học sinh thường gặp trong cuộc sống hàng ngày ở các nghĩa trang, chùa chiền, bảo tàng, một số con đường có các tượng đài tưởng niệm  Do vậy, học sinh phần nào đã hiểu được vai trò, tác dụng của việc dựng văn bia.
- Về phía học sinh: Học sinh đều được trang bị một phần kiến thức nhất định về văn bản nhật dụng và đọc - hiểu một số văn bản nhật dụng viết bằng phương thức lập luận ở THCS.
- Về phía giáo viên: Bản thân tôi luôn yêu thích, say mê, tâm huyết với nghề. Trong mỗi bài giảng văn bản nhật dụng nói riêng và môn Ngữ văn nói chung, tôi luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu để có được những phương pháp dạy học đem lại hiệu quả cao cho học sinh.
2.2. Khó khăn 
- Về văn bản: văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung) là văn bản viết bằng chữ Hán, thuộc thời kỳ văn học trung đại, được xếp vào phần đọc thêm trong chương trình Ngữ văn 10. Chính vì vậy, học sinh thường mang tư tưởng học để biết, ít có sự tìm tòi nghiên cứu sâu sắc .
- Về phía nhà trường: chưa có phòng chức năng, quá trình dạy - học kết hợp các phương tiện hiện đại còn gặp nhiều khó khăn: Trong một tiết dạy việc kết hợp cả máy chiếu hắt và máy chiếu đa năng để phát huy tính tích cực ở học sinh còn hạn chế.
2.3. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên 
Năm học 2015 – 2016, tôi dạy lớp 10A3 (Sĩ số lớp 43 học sinh) Trường THTP Đặng Thai Mai. Sau khi dạy văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung), tôi tiến hành kiểm tra 15 phút. Kết quả cho thấy việc vận dụng của học sinh từ bài học vào thực tiễn chưa cao, số lượng bài điểm kém, yếu, điểm trung còn nhiều, điểm khá và giỏi còn khiêm tốn. 
 Kết quả cụ thể như sau : 
Lớp
Sĩ số
Hứng thú học tập
Kết quả bài kiểm tra
Hứng thú
Không hứng thú
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
10A3/43
35%
65%
3%
22%
55%
16%
4%
Từ thực trạng trên, để quá trình giảng dạy đạt hiệu quả hơn, tôi đã tìm tòi nghiên cứu, mạnh dạn đổi mới phương pháp Dạy - học văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung) theo đặc trưng thể loại để tạo hứng thú trong quá trình học tập, khơi gợi tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở học sinh.
 3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả bài dạy “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung)
Căn cứ vào thực trạng trên, để việc đọc - hiểu văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung) đạt hiệu quả. Tôi xin nêu ra một số biện pháp sau: 
3.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà. 
Xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ với sự bùng nổ của thông tin khoa học, kĩ thuật và công nghệ, lượng kiến thức cần cập nhật ngày càng nhiều. Do vậy, chúng ta cần phải dạy học sinh phương pháp học và chủ động lĩnh hội kiến thức. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Khi học sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen tự học thì sẽ tạo cho các em lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nâng lên.
Vấn đề phát triển ý thức tự học cho HS ở trường THPT là một quá trình liên tục từ việc tự học bài đã học trên lớp, tự học cả bài mới trước khi đến lớp, tự học cả trong tiết học có hướng dẫn của giáo viên .
Vì vậy đối với mỗi văn bản đọc thêm nói riêng, môn Ngữ văn nói chung, giáo viên cần hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà. Cách soạn có thể theo trình tự SGK kết hợp với mục đích dạy học của người thầy, chất lượng giờ dạy sẽ được nâng lên.
Trong mỗi tiết học về đọc văn, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh soạn bài theo các bước sau : 
Bước 1: Yêu cầu học sinh chuẩn bị một quyển vở ghi chung cả phần soạn bài và phần kiến thức học trên lớp .
 Bước 2: Hướng dẫn cho học sinh cách soạn bài: chia đôi vở, phần bên trái (hoặc bên phải) chuẩn bị bài soạn ở nhà theo câu hỏi sách giáo khoa (SGK), phần vở còn lại để bổ sung những thông tin cần thiết khi học trên lớp .
 Ví dụ: 
Đọc thêm. Tiết 62: Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia 
 (Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, Niên hiệu Đại Bảo thứ ba)
 Thân Nhân Trung
Phần soạn bài
Phần ghi bổ sung
Câu 1: Hiền tài có vai trò quan trọng đối với đất nước như thế nào? 
Câu 2: Ý nghĩa, tác dụng của việc khắc bia ghi tên tiến sĩ đối với đương thời và các thế hệ sau?
Câu 3: Bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia ghi tên tiến sĩ là gì?
Câu 4: Sơ đồ kết cấu của bài văn bia ?
......................................................................
......................................................................
.......................................................................
.......................................................................
.......................................................................
.......................................................................
.......................................................................
.......................................................................
 Cách làm này có nhiều ưu điểm: Học sinh đã nắm được phần nào nội dung cơ bản của bài học mới, tiết kiệm thời gian trên lớp bằng việc chỉ bổ sung những kiến thức cần thiết từ phía giáo viên và bạn bè, cùng một lúc kết hợp cả kiến thức ở nhà với kiến thức trên lớp, tiện ích cho việc học bài mới hay bài cũ, phát huy được tính tự học, tính tích tực của học sinh .
3. 2. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản theo hướng sáng tạo 
Trước khi tìm hiểu văn bản bao giờ giáo viên cũng cho học sinh đọc một vài lần nhưng chỉ với mức độ yêu cầu đơn giản: rõ ràng lưu loát là đủ. Trong quá trình nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học, chúng ta nhận thấy bản thân việc đọc có nhiều cấp độ: cấp độ thứ nhất là đọc thông thường (đọc trôi chảy không vấp về ngữ âm, ngữ nghĩa, biết ngừng giọng đúng chỗ). Cấp độ thứ hai là đọc kĩ, đọc sâu, biết đọc các hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu. Cấp độ thứ ba là đọc - hiểu được thông điệp mà văn bản gửi đến người đọc. Nhưng quan trọng hơn là đọc văn còn là để cảm, để thưởng thức để tự phát triển bản thân. Trong quá trình đọc học sinh phải tìm được ý nghĩa mà tác giả thể hiện kín đáo trong văn bản, tiến thêm một bước, tìm thấy điều mà người đọc trước chưa thấy, đó mới thực sự là đọc sáng tạo. Do đó, cần rèn luyện cho học sinh phương pháp đọc theo từng cấp độ nhận thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp thì mới có kết quả. 
 Từ việc nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của khâu đọc văn bản, chúng ta cần giúp học sinh đọc hiểu văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung) theo đúng đặc trưng thể loại, nhận thấy được tính chất nhật dụng của nó để có những định hướng tốt cho bản thân và xã hội.
*Yêu cầu chung 
- Cần định hướng ngay từ đầu cho học sinh về việc tìm hiểu văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung): chỉ tìm hiểu những nét đặc trưng nhất trên cơ sở của SGK vì đây là tiết đọc thêm.
- Trong phần tiểu dẫn học sinh phải nắm được những nét chính về tác giả và văn bản (vị trí, thời gian sáng tác, thể loại).
 	- Học sinh không chỉ đọc đúng từ ngữ, giọng điệu mà còn phải làm toát lên được cảm xúc, tâm tư tình cảm của tác giả thể hiện qua văn bản, phải nghiền ngẫm để bước đầu nắm được ý nghĩa của văn bản.
* Yêu cầu cụ thể
Bước 1: Tạo tâm thế, tình huống cho học sinh ngay từ lời dẫn vào bài mới
 	Đây là văn bản mang tính nhật dụng nên giáo viên cần có lời dẫn vào bài sao cho khơi gợi được những tri thức mà học sinh đã lĩnh hội từ đời sống thực tế.
Ví dụ : Giáo viên có thể dẫn vào bài mới như sau:
 	Câu hỏi: Ở nơi em đang sinh sống, em đã từng quan sát những địa điểm nào có đặt bia đá? Em hiểu văn bia (bia kí) là gì? 
 	Định hướng trả lời: Những địa điểm có đặt bia đá như Nghã ba bia, nghĩa trang liệt sĩ, nghĩa trang nhân dân ... văn bia (bia kí) là văn kí khắc trên bia đá nhằm ghi chép những công việc trọng đại hoặc tên tuổi, cuộc đời của những người có công đức lớn để lưu truyền đời sau.
Giáo viên dẫn cụ thể vào bài mới: Văn bia có ba loại chính: Bia ghi công đức, bia ghi việc xây dựng các công trình kiến trúc, bia lăng mộ. Bài học hôm nay không chỉ có ý nghĩa về mặt văn hoá mà còn mang giá trị văn học: “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) của Thân Nhân Trung.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh đọc - tìm hiểu chung về văn bản
Các bước tiến hành: 
Hoạt động của giáo viên
Nội dung cần đạt
Câu hỏi 1: Trường Đại học đầu tiên của nước ta có tên gọi là gì, đặt ở đâu ? - GV cho học sinh xem hình ảnh Văn Miếu Quốc Tử Giám, hàng văn bia tiến sĩ .
- GV gọi học sinh đọc phần tiểu dẫn SGK trang 31.
Câu hỏi 2: Trình bày nội dung chính trong phần tiểu dẫn? 
GV: nhấn mạnh, mở rộng một số từ ngữ: văn chương, thời Hồng Đức và khẳng định đây là văn bản mang tính nhật dụng cao (hay còn gọi là văn bản nhật dụng) 
GV mở rộng kiến thức: Bia ghi công đức thường có 3 phần : 
+ Tự (kể): nêu lí do, quá trình làm bia, sự tích nhân vật được khắc bia (phần quan trọng nhất) 
+ Minh (phần ghi nhớ): viết bằng văn vần tóm lược nội dung tự sự ở trên để người đọc dễ ghi nhớ. 
+ Phần ghi ngày tháng, họ tên người làm bia được viết bằng văn xuôi. 
Câu hỏi 3: Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba thuộc loại bia ghi công đức, theo em đoạn trích trong SGK thuộc phần thứ mấy của tác phẩm? 
GV gọi hs đọc 
Câu hỏi 4: Văn bản cần đọc với giọng như thế nào ? 
Giọng bình tĩnh, đĩnh đạc, trang trọng .
- GV hướng dẫn học sinh xem chú thích từ khó. Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba viết bằng chữ Hán, đây là bản dịch.
Câu hỏi 5: xác định hệ thống luận điểm trong văn bản? Luận điểm nào quan trọng nhất? Vì sao? 
I/ Đọc tìm hiểu chung 
1. Tác giả 
- Thân Nhân Trung (1418-1499), Tự là Hậu Phủ. 
- Quê làng Yên Ninh, huyện Yên Dũng, Tỉnh Bắc Giang. 
- Đỗ tiến sĩ năm 1469, nổi tiếng về văn chương. 
- Là phó nguyên soái trong hội Tao đàn do Lê Thánh Tông sáng lập .
 2. Văn bản
- Vị trí: thuộc phần thứ hai của Bài kí đề danh tiến sĩ Khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442), là một trong 82 bài văn bia ở ở Văn Miếu (Hà Nội) 
(Trước phần trích: có một đoạn văn dài kể việc từ khi Lê Thái Tổ dựng nước (1428) đến năm 1484, các vua Lê tuy đều chú ý bồi dưỡng hiền tài nhưng chưa có điều kiện dựng bia tiến sĩ .
(Cuối phần trích: là danh sách 33 vị đỗ tiến khoa Nhâm Tuất 1442) 
- Thời gian sáng tác: năm 1484 thời Hồng Đức. 
- Thể loại : nghị luận -> bia kí (văn bia), một thể loại văn học trung đại. 
- Chú ý một số từ cần ghi nhớ như : Hiền tài , nguyên khí, thánh đế, minh vương, khoa danh 
- Hệ thống luận điểm :
+ Hiền tài là nhuyên khí của quốc gia ( tầm quan trọng và ý nghĩa của hiền tài đối với đất nước ) 
+ Những việc làm thể hiện sự quan tâm của các thánh đế minh vương đối với hiền tài .
+ Ý nghĩa việc khắc bia tiến sĩ. Trong đó, luận điểm 1 là gốc, là cơ sở, luận điểm 3 có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhất . 
 3. 3 . Phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học 
Theo chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, SGK Ngữ văn THPT biên soạn trên nguyên tắc dạy học tích hợp và phát huy tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động học tập. Như vậy trong quá trình dạy học, giáo viên phải lấy học sinh làm trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò định hướng học sinh chiếm lĩnh các đơn vị kiến thức. Để giờ dạy trên lớp thực sự có hiệu quả, trước hết giáo viên gợi cho học sinh có thể vận dụng những hiểu biết, những kiến thức đã được trang bị ở cấp dưới để làm cơ sở cần thiết trong việc tìm hiểu tác phẩm. Thứ hai, là sử dụng phương pháp đàm thoại, nêu câu hỏi có tính chất gợi mở, đặt học sinh vào các tình huống có vấn đề để phát huy tính sáng tạo và khả năng phát hiện của học sinh vừa nhằm phát triển năng lực tư duy,vừa tạo hứng thú trong học tập cho học sinh. Thứ ba, cần có sự liên hệ giữa bài học với thực tế để học sinh thấy được tính nhật dụng của văn bản và vai trò quan trọng của nó đối với cuộc sống.
Giáo viên tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh kiến thức thông qua việc tăng cường kết hợp hình thức học tập cá thể với học tập hợp tác.
Tùy từng đơn vị kiến thức và mục đích dạy học, giáo viên tổ chức học sinh hoạt động độc lập hay hoạt động hợp tác (theo tổ, nhóm). Hoạt động độc lập giúp học sinh được bộc lộ, khẳng định ý kiến, qua đó người đọc nâng mình lên một trình độ mới. Hoạt động hợp tác (mỗi tổ, nhóm từ 6 đến 8 người) làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Với các hoạt động này giúp học sinh quen dần với sự phân công hợp tác trong hoạt động xã hội.
*Yêu cầu chung 
- Với tinh thần “lấy học sinh làm trung tâm”, người thầy đóng vai trò tổ chức cho học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức đồng thời tạo không khí học tập sôi nổi, thoải mái, khơi dậy tính tích cực chủ động học tập của học sinh trong quá trình đọc - hiểu văn bản.
- Tổ chức hệ thống câu hỏi đi từ nhận biết đến vận dụng mức độ cao, vừa đảm bảo kiểm tra được kiến thức cơ bản của học sinh vừa kích thích được tính sáng tạo và khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh .
* Yêu cầu c

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_bai_day_hien_ta.doc