SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh khối 11 trường THPT Quan Sơn 2 rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận trên con đường chinh phục kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2018

SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh khối 11 trường THPT Quan Sơn 2 rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận trên con đường chinh phục kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2018

Trong trường học, Ngữ Văn là môn học rất quan trọng vì là môn học góp phần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng hoàn thiện nhân cách học sinh. Mỗi bài thơ, bài văn, mỗi tác phẩm văn học trong chương trình học phổ thông là một bài học đạo đức dành cho học sinh. Nếu không học môn Ngữ Văn thì làm sao thế hệ trẻ ngày nay hiểu được những tấm gương chiến đấu ngoan cường của những chiến sĩ cách mạng, những người đã hy sinh xương máu nhằm giành lại độc lập, tự do để bao thế hệ ngày sau được sống yên vui, hạnh phúc? Nếu không học môn Ngữ văn thì làm sao học sinh hiểu rõ cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một bậc vĩ nhân tài đức vẹn toàn được cả thế giới kính phục? Học Văn chính là cách học làm người. Môn Văn thật sự là môn học quan trọng giúp cho học sinh học tốt các môn học khác.

Trong đó, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THPT là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc học văn nói chung và việc rèn luyện kĩ năng làm văn nói riêng. Đoạn văn là một phần của văn bản, hay nói cách khác, nó là đơn vị ngôn ngữ lớn thứ hai sau văn bản, góp phần cấu tạo nên văn bản. Chính bởi vậy mà đoạn văn rời rạc, mắc nhiều lỗi, thì không thể có một văn bản hay; ngược lại, học sinh có kĩ năng viết đoạn văn chặt chẽ, mạch lạc. thì hiển nhiên văn bản các em tạo lập được sẽ là một văn bản đáp ứng tốt mọi yêu cầu.

Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn giúp các em biết vận dụng các loại văn bản để phục vụ cho học tập và trong đời sống. Qua việc tiếp thu những kiến thức của môn Ngữ văn, HS vận dụng sáng tạo, tổng hợp để có thể nói hoặc viết theo những yêu cầu, những đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, các em đồng thời được ôn luyện, củng cố về kiến thức văn học, được rèn luyện các nội dung về Từ ngữ, Ngữ pháp như: từ loại, cụm từ, các biện pháp tu từ, các kiểu câu. Từ đó có thể đạt kết quả cao trong khi làm bài kiểm tra hay bài thi.

Vậy mà những năm gần đây hiện tượng giáo viên và cả học sinh xem nhẹ môn Văn ngày càng trở nên phổ biến. Có nhiều lý do khiến cho học sinh ngày nay xem nhẹ môn Ngữ văn. Phần lớn các em nghĩ học giỏi môn Ngữ văn khó chọn ngành nghề sau này. Đa số học sinh thường tập trung học các môn khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa, với suy nghĩ rằng học giỏi các môn này dễ thi vào trường đại học để với tương lai xán lạn và dễ có thu nhập cao. Thậm chí nhiều người còn cho rằng thời đại bùng nổ thông tin này thì có thời giờ đâu để đọc truyện, đọc văn. Cho nên tình trạng học sinh không thích học môn này ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đây là nỗi băn khoăn của nhiều thầy cô giáo trong khi môn Ngữ văn có một giá trị đích thực mà học sinh chưa hiểu được nên còn học với tinh thần gượng ép, ngại học, thậm chí chán học.

 

doc 21 trang thuychi01 5080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh khối 11 trường THPT Quan Sơn 2 rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận trên con đường chinh phục kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2018", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I: Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong trường học, Ngữ Văn là môn học rất quan trọng vì là môn học góp phần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng hoàn thiện nhân cách học sinh. Mỗi bài thơ, bài văn, mỗi tác phẩm văn học trong chương trình học phổ thông là một bài học đạo đức dành cho học sinh. Nếu không học môn Ngữ Văn thì làm sao thế hệ trẻ ngày nay hiểu được những tấm gương chiến đấu ngoan cường của những chiến sĩ cách mạng, những người đã hy sinh xương máu nhằm giành lại độc lập, tự do để bao thế hệ ngày sau được sống yên vui, hạnh phúc? Nếu không học môn Ngữ văn thì làm sao học sinh hiểu rõ cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một bậc vĩ nhân tài đức vẹn toàn được cả thế giới kính phục? Học Văn chính là cách học làm người. Môn Văn thật sự là môn học quan trọng giúp cho học sinh học tốt các môn học khác.
Trong đó, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THPT là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc học văn nói chung và việc rèn luyện kĩ năng làm văn nói riêng. Đoạn văn là một phần của văn bản, hay nói cách khác, nó là đơn vị ngôn ngữ lớn thứ hai sau văn bản, góp phần cấu tạo nên văn bản. Chính bởi vậy mà đoạn văn rời rạc, mắc nhiều lỗi, thì không thể có một văn bản hay; ngược lại, học sinh có kĩ năng viết đoạn văn chặt chẽ, mạch lạc... thì hiển nhiên văn bản các em tạo lập được sẽ là một văn bản đáp ứng tốt mọi yêu cầu.
Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn giúp các em biết vận dụng các loại văn bản để phục vụ cho học tập và trong đời sống. Qua việc tiếp thu những kiến thức của môn Ngữ văn, HS vận dụng sáng tạo, tổng hợp để có thể nói hoặc viết theo những yêu cầu, những đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, các em đồng thời được ôn luyện, củng cố về kiến thức văn học, được rèn luyện các nội dung về Từ ngữ, Ngữ pháp như: từ loại, cụm từ, các biện pháp tu từ, các kiểu câu... Từ đó có thể đạt kết quả cao trong khi làm bài kiểm tra hay bài thi.
Vậy mà những năm gần đây hiện tượng giáo viên và cả học sinh xem nhẹ môn Văn ngày càng trở nên phổ biến. Có nhiều lý do khiến cho học sinh ngày nay xem nhẹ môn Ngữ văn. Phần lớn các em nghĩ học giỏi môn Ngữ văn khó chọn ngành nghề sau này. Đa số học sinh thường tập trung học các môn khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa,  với suy nghĩ rằng học giỏi các môn này dễ thi vào trường đại học để với tương lai xán lạn và dễ có thu nhập cao. Thậm chí nhiều người còn cho rằng thời đại bùng nổ thông tin này thì có thời giờ đâu để đọc truyện, đọc văn. Cho nên tình trạng học sinh không thích học môn này ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đây là nỗi băn khoăn của nhiều thầy cô giáo trong khi môn Ngữ văn có một giá trị đích thực mà học sinh chưa hiểu được nên còn học với tinh thần gượng ép, ngại học, thậm chí chán học.
Bên cạnh đó, học sinh còn thiếu hụt kiến thức nền, các thầy cô chưa khơi gợi được ở các em niềm đam mê, hứng thú với môn Ngữ văn. Cho nên, mỗi khi làm bài viết, các em có làm bài nhưng viết theo kiểu nghĩ đến đâu viết đến đó mà bỏ qua các bước quan trọng như: tìm hiểu đề, lập dàn ý, viết bài, đọc lại bài viết để sửa những lỗi sai Đã thế, nhiều giáo viên cứ cho học sinh học rập khuôn những bài văn mẫu rồi làm theo vì vậy xảy ra các trường hợp buồn cười là học sinh làm bài, viết nhiều đoạn văn giống nhau, mắc nhiều lỗi khá giống nhau, thậm chí nhiều em còn chưa có kĩ năng viết đoạn văn nghị luận.
Chính vì thế mà môn Văn của các em điểm thường không cao. Trong quá trình viết bài văn nghị luận, học sinh thường mắc phải những lỗi về viết đoạn văn, bài văn như: lạc ý, loãng ý, thiếu liên kết giữa các đoạn, các ý trong đoạn phủ định nhau, dẫn từ ý này sang ý kia không phù hợp, cả bài không tách đoạn nhưng các em học sinh không biết cách để sửa chữa những lỗi đó, thậm chí có em còn không biết rằng mình mắc lỗi. Qua giảng dạy, đặc biệt khi chấm bài kiểm tra, bài thi cuối kì, cuối năm ở trường THPT Quan Sơn 2, tôi nhận thấy kĩ năng viết đoạn văn nghị luận của học sinh còn yếu, chưa đạt yêu cầu.
Nhất là khi, cấu trúc đề thi môn Ngữ văn trong kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2017 có nhiều thay đổi. Thời gian thi từ 180 phút giảm xuống còn vẻn vẹn 120 phút, dung lượng bài viết nghị luận xã hội rút gọn từ 600 chữ còn 200 chữ viết sao cho đủ ý, bố cục rõ ràng không lan man tránh mất điểm. Đề đọc hiểu và nghị luận xã hội có sự tích hợp theo hướng vận dụng cao. Điều này gây ra không ít lo lắng băn khoăn trong khi làm bài của các em học sinh.
Đặc biệt, căn cứ vào đề thi minh họa môn Ngữ văn của Bộ GD và ĐT, giáo viên và học sinh đều không khó nhận ra vai trò của việc viết đoạn văn nghị luận. Phần Đọc hiểu sẽ kiểm tra, đánh giá học sinh ở các cấp độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp và vận dụng cao. Trong đó, mức độ kiểm tra từ dễ đến khó, có một câu yêu cầu học sinh viết một đoạn văn ngắn nhằm đưa ra cảm nhận về tác dụng của biện pháp tu từ, thao tác lập luận; hoặc ý nghĩa của một hình ảnh, từ ngữ; hoặc thông điệp, bài học từ ngữ liệu đã cho;
Trong phần Làm văn sẽ có hai câu. Câu 1(nghị luận xã hội) yêu cầu viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) có sự tích hợp nội dung với văn bản đọc. Câu 2 (nghị luận văn học) yêu cầu học sinh có kĩ năng làm bài văn nghị luận văn học. Bài văn hay, đạt điểm cao chỉ khi lập luận chặt chẽ, hành văn trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi. Để đạt được điều đó học sinh cần rèn luyện từ chính tả, từ câu,... đặc biệt là đoạn. Bửi đoạn là đơn vị lớn thứ hai sau văn bản. Sẽ không có văn bản hay nếu đoạn văn nghị luận rời rạc, lộn xộn, không có sự liên kết, không đảm bảo về nội dung và hình thức.
Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh cách viết đoạn văn là điều rất cần thiết để sở hữu kỹ năng viết tốt, chinh phục những điểm số cao trong các bài thi nhất là trong kì thi tốt nghiệp THPT Quốc gia. Để đạt được điều đó, các em không chỉ rèn luyện, ôn thi cấp tốc khi học lớp 12 hay mấy tháng cuối trước khi thi mà là kết quả của cả quá trình “văn ôn, võ luyện”. Với những băn khoăn, trăn trở nảy sinh trong quá trình giảng dạy và ôn thi tốt nghiệp THPT Quốc gia, tôi viết SKKN: “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh khối 11 trường THPT Quan Sơn 2 rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận trên con đường chinh phục kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2018”. 
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tôi khi thực hiện đề tài này nhằm giúp các em học sinh củng cố kiến thức về đoạn văn nghị luận, rèn luyện kĩ năng phát hiện lỗi, biết cách sửa lỗi trong đoạn văn, từ đó tạo lập đoạn văn, văn bản nghị luận hay. Từ đó tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn, góp phần nâng cao chất lượng học tập cũng như kết quả thi tốt nghiệp THPT Quốc gia và thi học sinh giỏi môn Ngữ văn của trường THPT Quan Sơn 2 trong những năm học tiếp theo .
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu: đoạn văn, kĩ năng viết đoạn văn nghị luận.
Đối tượng khảo sát và thực nghiệm: học sinh lớp 11A1 và 11A2 trường THPT Quan Sơn 2 - Quan Sơn - Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, tôi vận dụng sáng tạo một số phương pháp sau:
Phương pháp đàm thoại
Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp lấy ý kiến của học sinh
Từ thực tế giảng dạy và học tập môn Ngữ Văn
Tổng kết và đánh giá rút kinh nghiệm.
II: Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài.
 Như chúng ta đã biết: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.
 Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần ( thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đúng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ chủ đề của đoạn. 
Có thể thấy về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản (các đoạn này triển khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định.
Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở những điểm sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với các dòng chữ khác trong đoạn.
Để trình bày một đoạn văn cần phải sử dụng các phương pháp lập luận. Lập luận là cách trình bày luận cứ dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ hợp lí thì đoạn văn, bài văn mới có sức thuyết phục.
	Trong văn bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết cấu (cách lập luận) phổ biến: diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp... bên cạnh đó là cách lập luận suy luận nhân quả, suy luận tương đồng, suy luận tương phản, đòn bẩy, nêu giả thiết
Đoạn diễn dịch là cách trình bày ý đi từ khái quát đến cụ thể. Câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai những nội dung chi tiết cụ thể ý tưởng của chủ đề đó. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.
Đoạn quy nạp là cách trình bày ý ngược lại với diễn dịch - đi từ các ý chi tiết, cụ thể đến ý khái quát. Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng thao tác minh họa, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung.
Đoạn tổng - phân - hợp là sự phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề. Khi viết đoạn văn tổng - phân - hợp, cần biết cách khái quát, nâng cao để tránh sự trùng lặp của hai câu chốt trong đoạn.
Đoạn lập luận tương đồng là cách trình bày đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng: so sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn văn, có nội dung tương tự nội dung đang nói đến.
Đoạn so sánh tương phản là đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung ý tưởng: những hình ảnh thơ văn, phong cách tác giả, hiện thực cuộc sống,tương phản nhau.
 Đoạn lập luận theo suy luận nhân quả: Có 2 cách: Trình bày nguyên nhân trước, chỉ ra kết quả sau. Hoặc ngược lại chỉ ra kết quả trước, trình bày nguyên nhân sau.
Đoạn lập luận đòn bẩy là cách trình bày đoạn văn mở đầu nêu một nhận định, dẫn một câu chuyện hoặc những đoạn thơ văn có nội dung gần giống hoặc trái với ý tưởng ( chủ đề của đoạn) tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra.
Các câu trong đoạn văn cũng như các đoạn trong bài phải có sự liên kết chặt chẽ với nhau về nội dung cũng như hình thức:
Về nội dung: Các đoạn văn phải phục vụ chủ đề chung của văn bản, các câu phải phục vụ chủ đề chung của đoạn văn (Liên kết chủ đề). Các đoạn văn và các câu phải được sắp xếp theo trình tự hợp lí (Liên kết lôgic).
Về hình thức: Các câu, các đoạn văn phải được liên kết với nhau bằng một số biện pháp chính như: Phép lặp (Lặp lại ở đầu câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu trước). Phép thế (Sử dụng ở câu đứng sau từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã có ở câu trước). Phép nối (Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước). Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng (Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã cho ở câu trước).
 Tất cả những kiến thức lí thuyết trên là cơ sở để tôi thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm này. Bên cạnh đó tôi cũng khảo sát thực trạng kĩ năng viết đoạn văn nghị luận của học sinh lớp 11 ở trường THPT Quan Sơn 2 để có giải pháp thực hiện hợp lí, hiệu quả.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
Vào đầu các năm học, nhà trường bao giờ cũng khảo sát chất luợng học tập các môn Toán, Ngữ văn để phân loại học sinh, có kế hoạch bồi dưõng học sinh khá giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém. Kết hợp với kết quả khảo sát chất luợng, trong các giờ học đầu năm học, tôi thường kiểm tra kĩ năng viết đoạn của học sinh qua các bài tập nhỏ sau các tiết văn học bằng cách cho học sinh viết đoạn văn nêu cảm nhận về tác phẩm, nhân vật, chi tiết trong tác phẩm.
Một số bài tập tôi dùng để kiểm tra: 
+ Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em sau khi học đoạn trích Chí khí anh hùng của Nguyễn Du?
+ Em hãy viết đoạn văn diễn dịch trình bày cảm nhận của em về nhân vật Ngô Tử Văn trong tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản viên” của Nguyễn Dữ?
+ Đoạn trích Trao duyên là minh chứng rõ rệt cho nghệ thuật bậc thầy về ngôn ngữ của Nguyễn Du. Hãy lựa chọn một số từ ngữ, viết đoạn văn khoảng 10 câu theo lối diễn dịch trình bày cảm nhận của em?
 KẾT QUẢ KHẢO SÁT CỤ THỂ TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Ở LỚP 11 TRƯỜNG THPT QUAN SƠN 2. NĂM HỌC 2016 - 2017
Khối lớp
Tổng số học sinh
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
11A1
42
0
0%
12
28,6%
20
47,6%
10
23,8%
11A2
35
0
0%
10
28,6%
18
51,4%
7
20%
Qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy số học sinh không có kĩ năng viết đoạn còn nhiều, số học sinh có kĩ năng viết đoạn thành thạo còn ít. Trên bài làm của hầu hết các em thể hiện việc nắm khái niệm đoạn văn, từ ngữ chủ đề, câu chủ đề trong đoạn văn, cách trình bày đoạn văn còn lơ mơ. 
Các em không biết trình bày đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về nội dung cũng như hình thức. Nhiều bài viết lủng củng sơ sài, lập luận không mạch lạc chặt chẽ. Các ý lộn xộn, không có lớp có lang, ý lớn ý nhỏ không theo trình tự hợp lí. Đầu đoạn văn không viết hoa , không lùi đầu dòng, các dòng khác thò ra thụt vào tuỳ tiện 
Có thể nói kĩ năng làm văn, đặc biệt là kĩ năng viết đoạn của học sinh còn nhiều hạn chế. Do vậy để khắc phục hạn chế của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học đòi hỏi giáo viên phải có những giải pháp hợp lí.
2.3. Một số biện pháp giải quyết thực trạng.
2.3.1. Giải pháp 1: Củng cố kiến thức về đoạn văn cho học sinh:
2.3.1.1. Khái niệm: 
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.
Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần ( thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đúng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ chủ đề của đoạn.
2.3.1.2. Các cách trình bày nội dung trong đoạn văn.
Cách diễn dịch: là cách trình bày ý đi từ khái quát đến cụ thể. Câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai những nội dung chi tiết cụ thể ý tưởng của chủ đề đó. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết. 
Cách qui nạp: là cách trình bày ý ngược lại với diễn dịch - đi từ các ý chi tiết, cụ thể đến ý khái quát. Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng thao tác minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung.
Cách tổng phân hợp: là sự phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
Đó là những kiến thức cơ bản học sinh đã học từ THCS. Tôi đã củng cố ngay cho học sinh sau khi vào lớp 10 và đầu lớp 11 qua các buổi học phụ đạo buổi chiều. Ngoài ra, tôi cũng mở rộng hơn một số cách trình bày đoạn khác cho học sinh khá giỏi qua các giờ bồi dưỡng học sinh giỏi như cách suy luận nhân quả, tương đồng, tương phản, đòn bẩy...
2.3.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn:
Để viết đoạn văn thành công, cần chú ý tuân thủ các bước:
Bước 1: Xác định và đáp ứng các yêu cầu của đề: 
Về nội dung: Đề bài có thể trích dẫn hoặc không trích dẫn câu văn trong phần đọc hiểu. Điều quan trọng là các em cần hiểu yêu cầu của đề và xác định hướng đi đúng đắn. 
Thứ nhất: Phải xác định được Đề bài yêu cầu viết về vấn đề gì? (nội dung của đoạn văn). Đây là yêu cầu quan trọng nhất, đòi hỏi người viết phải bày tỏ quan điểm cá nhân rõ ràng. Cụ thể: Người viết hiểu vấn đề đó là gì (giải thích), tại sao lại nói như thế (phân tích). 
Thứ hai: Cần phải có dẫn chứng thuyết phục bằng các ví dụ cụ thể trong đời sống.
Thứ ba: Phải đánh giá và nêu thái độ của người viết trước vấn đề đang bàn luận. Cần nêu ra những bài học nhận thức sau khi bàn luận. Từ đó, đề xuất những giải pháp thiết thực và khả thi cho bản thân mình và tất cả mọi người.
Đối với dạng “đề nổi” , học sinh có thể dễ dàng nhận ra phạm vi nội dung và phương pháp lập luận.
Đối với dạng đề chìm, học sinh phải tự mày mò hướng đi.
Ví dụ 1: Viết 1 đoạn văn 200 chữ về sự hi sinh thầm lặng của mẹ trong cuộc sống ngày hôm nay (đề nổi). Học sinh dễ dàng xác định phạm vi nội dung : Thế nào là sự hi sinh thầm lặng ? biểu hiện của sự hi sinh thầm lặng ? tác dụng ? phê phán những người con bất hiếu, bài học rút ra cho bản thân, 
Ví dụ 2: Viết 1 đoạn văn 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh chị về ý nghĩa câu chuyện được trích dẫn ở phần đọc hiểu : NGƯỜI ĂN XIN
Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái nhợt áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi. Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết. Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy bàn tanóng hổi của ông: – Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả. Ông nhìn tôi chăm chăm đôi môi nở nụ cười: Cháu ơi,cảm ơn cháu!Như vậy là cháu đã cho lão rồi. Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa tôi cũng vừa nhận được một cái gì đó của ông. (Theo Tuốc- ghê- nhép)
Với đề bài này, học sinh cần hiểu ý nghĩa câu chuyện, xác định vấn đề nghị luận và thao tác lập luận chủ yếu: HS tự do bày tỏ cảm nhận của bản thân:
- Có thể HS trình bày về giá trị của tình yêu thương, sự đồng cảm trong cuộc sống.
- Có thể HS trình bày bài học về một thái độ, cách ứng xử, ý thức cho và nhận của con người trong cuộc sống
- Có thể HS trình bày lời chia sẻ với những số phận bất hạnh
Về hình thức:
Thứ nhất : Đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, học sinh cần trình bày trong 1 đoạn văn ( không được ngắt xuống dòng ), dung lượng an toàn khoảng 2/3 tờ giấy thi ( khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), có thể nhiều hơn 1 vài dòng cũng không bị trừ điểm. Đoạn văn cần diễn dạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
Thứ hai: Đoạn văn phải đảm bảo bố cục ba phần: Đặt vấn đề - Giải quyết vấn đề - Kết thúc vấn đề.
Thứ ba: Đoạn văn sử dụng các thao tác lập luận: Giải thích - Phân tích - Chứng minh - Bình luận - Bác bỏ - Bình luận mở rộng. Diễn đạt phải trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
Bước 2: Xác định câu chủ đề cho đoạn văn:
Câu chủ đề là câu nêu ý của cả đoạn văn, vì vậy đó là câu đặc biệt quan trọng. Khi viết đoạn cần chú ý đọc kĩ đề, xác định yêu cầu của đề, từ đó xác định câu chủ đề.
Có những đề không cho sẵn câu chủ đề, có đề cho sẵn câu c

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_huong_dan_hoc_sinh_khoi_11_truong_thpt.doc