SKKN Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp một áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực

SKKN Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp một áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực

Ở Tiểu học môn Toán có vị trí vô cùng quan trọng, nó trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, nền tảng về toán học, góp phần giáo dục học sinh trở thành con người mới phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo. Bên cạnh đó, việc dạy học toán còn giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận và những phẩm chất của con người lao động mới.

Trong chương trình Toán Tiểu học các em được học năm mạch kiến thức.Trong đó, giải toán có lời văn là một trong những mạch kiến thức cơ bản, tổng hợp của các mạch kiến thức toán học và xuyên suốt cả chương trình Toán cấp Tiểu học. Thông qua giải toán các em được rèn luyện kĩ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán

Tuy nhiên, trong dạy học toán thì giải toán có lời văn đối với học sinh lớp Một là một nội dung khó. Chính vì thế mà trong thực tế giảng dạy, giáo viên cũng đã vận dụng rất nhiều phương pháp trong đó dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Nhưng để vận dụng phương pháp này cùng với các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm mang lại hiệu quả trong dạy học toán cho học sinh lớp Một cũng là việc vô cùng khó khăn. Bởi vì, ở độ tuổi này các em mới chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập nên nhiều em chưa làm quen, chưa bắt nhịp được với việc học tập, ngôn ngữ nói của các em chưa mạch lạc, có khi vừa đọc vừa đánh vần. Vì vậy mà để đọc được một đề toán giáo viên phải đọc hoặc 1- 2 em học tốt đọc trước rồi sau đó học sinh khác mới đọc. Bên cạnh đó, vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng tư duy logic của các em còn hạn chế. Các em mới làm quen với các phép tính cộng trừ lại tiếp xúc với giải toán có lời văn, tự tìm tòi nắm bắt kiến thức là việc làm khó đối với rất nhiều học sinh. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng sao cho phù hợp với từng đối tượng, từng dạng bài học và từng hoạt động học tập của học sinh.

Là một giáo viên trực tiếp dạy lớp Một đã nhiều năm, tôi luôn trăn trở và suy nghĩ là trong dạy học phải làm thế nào để học sinh hiểu bài, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức, làm thành thạo các phép tính cộng, trừ và vận dụng vào giải toán có lời văn đạt hiệu quả cao nhất. Xuất phát từ đó tôi đã mạnh dạn nghiên cứu về: “ Một số biện pháp dạy Giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực”.

 

doc 22 trang thuychi01 13580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp một áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA 
PHÒNG GD & ĐT THỌ XUÂN 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
CHO HỌC SINH LỚP MỘT ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT
DẠY HỌC TÍCH CỰC
Người thực hiện: Lê Thị Thể
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học TT Lam Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán
THANH HÓA NĂM 2019
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lý do chọn đề tài: 
1
 1.2. Mục đích nghiên cứu 
1
 1.3. Đối tượng nghiên cứu 
2
 1.4. Phương pháp nghiên cứu 
2
 1.5.Những điểm mới của SKKN
2
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận: 
2
2.2. Thực trạng việc dạy giải toán có lời văn ở trường Tiểu học B và ở lớp 1A1.
3
2.3. Một số kinh nghiệm đã áp dụng trong thực tế giảng dạy. 
5
2.4. Hiệu quả 
18
3. Kết luận và kiến nghị
19
3.1. Kết luận: 
19
3.2. Kiến nghị 
19
1. MỞ ĐẦU
	1.1. Lí do chọn đề tài.
Ở Tiểu học môn Toán có vị trí vô cùng quan trọng, nó trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, nền tảng về toán học, góp phần giáo dục học sinh trở thành con người mới phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo. Bên cạnh đó, việc dạy học toán còn giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận và những phẩm chất của con người lao động mới.
Trong chương trình Toán Tiểu học các em được học năm mạch kiến thức.Trong đó, giải toán có lời văn là một trong những mạch kiến thức cơ bản, tổng hợp của các mạch kiến thức toán học và xuyên suốt cả chương trình Toán cấp Tiểu học. Thông qua giải toán các em được rèn luyện kĩ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán 
Tuy nhiên, trong dạy học toán thì giải toán có lời văn đối với học sinh lớp Một là một nội dung khó. Chính vì thế mà trong thực tế giảng dạy, giáo viên cũng đã vận dụng rất nhiều phương pháp trong đó dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Nhưng để vận dụng phương pháp này cùng với các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm mang lại hiệu quả trong dạy học toán cho học sinh lớp Một cũng là việc vô cùng khó khăn. Bởi vì, ở độ tuổi này các em mới chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập nên nhiều em chưa làm quen, chưa bắt nhịp được với việc học tập, ngôn ngữ nói của các em chưa mạch lạc, có khi vừa đọc vừa đánh vần. Vì vậy mà để đọc được một đề toán giáo viên phải đọc hoặc 1- 2 em học tốt đọc trước rồi sau đó học sinh khác mới đọc. Bên cạnh đó, vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng tư duy logic của các em còn hạn chế. Các em mới làm quen với các phép tính cộng trừ lại tiếp xúc với giải toán có lời văn, tự tìm tòi nắm bắt kiến thức là việc làm khó đối với rất nhiều học sinh. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng sao cho phù hợp với từng đối tượng, từng dạng bài học và từng hoạt động học tập của học sinh.
Là một giáo viên trực tiếp dạy lớp Một đã nhiều năm, tôi luôn trăn trở và suy nghĩ là trong dạy học phải làm thế nào để học sinh hiểu bài, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức, làm thành thạo các phép tính cộng, trừ và vận dụng vào giải toán có lời văn đạt hiệu quả cao nhất. Xuất phát từ đó tôi đã mạnh dạn nghiên cứu về: “ Một số biện pháp dạy Giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn.
- Phân tích - tóm tắt bài toán.
- Giải toán đơn về thêm (bớt ) bằng một phép tính cộng ( trừ).
- Trình bày bài giải gồm câu lời giải, phép tính, đáp số.
- Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau. 
- Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ trải nghiệm thực tế.
- Vận dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nâng cao hiệu quả học giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
	- Các bài tập thuộc mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” trong chương
trình Toán 1
- Học sinh lớp 1A1 trường Tiểu học B.
	1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:Thu thập những thông tin lý luận về thuận lợi và khó khăn của Giáo viên và học sinh trong dạy – học Giải toán có lời văn.
- Phương pháp quan sát: Quan sát tinh thần, thái độ tham gia hoạt động học tập, các kĩ năng hợp tác, chia sẻ, tự học  của học sinh khi học giải toán có lời văn.
- Phương pháp vấn đáp: Phỏng vấn đối tượng học sinh trong lớp về kiến thức của bài học, những điều các em muốn biết trong giờ học toán. Phát hiện những kĩ năng đã có hoặc chưa có của học sinh về Giải toán có lời văn.
- Phương pháp điều tra: 
+ Trò chuyện, trao đổi với phụ huynh HS để biết thêm về khả năng tự học ở nhà của học sinh và phương pháp dạy giải toán của phụ huynh cho con mình.
+ Tìm hiểu, tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên khác trong trường mình.
- Phương pháp thử nghiệm:
+ Thử áp dụng các giải pháp vào việc dạy giải toán có lời văn. Hiệu quả và những điều cần rút kinh nghiệm.
	1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
- Áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy Giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một.
2. NỘI DUNG
	2.1.Cơ sở lý luận:	
Trong các mạch kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức mà khi học các em gặp nhiều khó khăn và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Do đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp Một là khả năng tư duy trừu tượng hạn chế, sự tập trung chú ý chưa cao. Các em chưa biết cách tự học, chưa tự giác và tích cực trong học tập. Nhiều em còn chưa hiểu rằng đi học là gì, học để làm gì? Để giúp các em có mục tiêu học tập tích cực, người giáo viên cần phải có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. 
 Giải toán có lời văn tốt hay chưa tốt chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học, kết hợp với kíến thức Tiếng Việt để vận dụng vào giải toán, giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc, hiểu rồi biết hướng giải, lựa chọn phép tính kèm câu lời giải và đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức môn Toán, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học. 
Với học sinh lớp Một, để học sinh đọc và hiểu bài toán có lời văn quả
 không dễ dàng. Việc viết lên một câu lời giải phù hợp với câu hỏi của bài toán cũng là vấn đề không đơn giản. Vậy làm thế nào để học sinh hiểu, học sinh thực hành, diễn đạt đúng yêu cầu của bài toán?	
 2.2. Thực trạng dạy - học Giải toán có lời văn tại trường Tiểu học B và lớp 1A1. 
 2.2.1. Thuận lợi:
 a. Giáo viên
 Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác giảng dạy đạt kết quả tốt. Đội ngũ giáo viên có ý thức học tập, bồi dưỡng nâng cao năng lực giảng dạy. Giáo viên có đầy đủ SGK, tài liệu tham khảo, sách hướng dẫn, được tiếp cận với các phương tiện dạy học hiện đại và luôn yêu nghề, nhiệt tình trong công tác giảng dạy. 
 b. Học sinh
 Tất cả các em được trang bị đầy đủ đồ dùng học tập và đều được học hai buổi/ ngày, buổi sáng học kiến thức mới và thường được luyện tập củng cố để khắc sâu kiến thức vào tiết luyện của buổi chiều. 
2.2.2. Khó khăn:
 a. Giáo viên: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên chưa đồng đều, giáo viên chưa mạnh dạn sáng tạo trong việc lựa chọn, tìm và vận dụng phương pháp mới, việc phân chia thời lượng lên lớp ở mỗi môn dạy đôi khi còn dàn trải, hoạt động của cô - trò có lúc thiếu nhịp nhàng. 
 b. Học sinh: Năm học 2017 - 2018, tôi được phân công dạy lớp 1A1. Lớp có 40 học sinh, trong đó số học sinh nữ là 18, học sinh nam là 22 em.
 Sau khi nhận lớp, tôi thấy học sinh lớp mình khả năng diễn đạt, tư duy còn nhiều hạn chế, vốn từ lại ít ỏi, nghĩa của nhiều từ học sinh chưa hiểu. Khi các em học Bài toán có lời văn thì môn Tiếng Việt đang học phần vần, có nghĩa là các em chưa học hoàn chỉnh Phần vần Tiếng Việt. Làm quen với Bài toán có lời văn khi các em còn chưa đọc thông, viết thạo.
Cũng vì lí do đó mà học sinh rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên học Bải toán có lời văn chỉ có khoảng 25 % đến 30 % số học sinh biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ có thể làm miệng, làm theo mẫu. Khi viết các em lại rất lúng túng, làm sai. Kể cả cách trình bày bài giải, giáo viên cũng gặp không ít khó khăn khi hướng dẫn học sinh vì các em chưa hiểu thấu đáo, nắm một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. 
	Khi áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực đối với học sinh lớp Một thì vô cùng khó khăn. Các em còn nhỏ, việc trao đổi nhóm, tự tìm tòi kiến thức, giúp đỡ bạn trong nhóm là việc làm mới mẻ và khó khăn đối với đa số học sinh trong lớp. Để các em biết đặt câu hỏi và trả lời đúng nội dung bài tập cũng cần có thời gian tương đối dài. Trong khi đó, phần Giải toán có lời văn lớp Một được học vào tuần thứ 22 của năm học cũng là khó khăn cho giáo viên và học sinh.
	 Lứa tuổi này, mới đến trường tiểu học tiếp xúc với các bài học, các em
 thường nhút nhát, kém tự tin, nói lí nhí, nói không rõ ràng. Các em đang cần rất nhiều sự hỗ trợ từ giáo viên.Vì vậy việc tự giải đáp những điều các em cần biết và muốn biết hay việc học sinh tự điều hành nhóm làm việc cũng gặp không ít khó khăn. 
	Bên cạnh đó, một số em có cha mẹ đi làm ăn xa, các em phải sống với ông bà, điều kiện học tập không tốt cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập hoặc là phụ huynh không biết cách hướng dẫn con Giải toán có lời văn, thường thì hướng dẫn con làm bài theo cách hiểu riêng của mình. Vì vậy học sinh không hiểu bài, có khi còn làm sai. 
 Chẳng hạn: Để giải bài toán có liên quan đến tìm số đo độ dài (cm) thì phụ huynh thường hướng dẫn con ghi phép tính là: 5cm + 4cm = 9cm, mà lẽ ra HS phải trình bày là: 5 + 4 = 9 (cm). Bố mẹ hướng dẫn con như vậy nên các con làm thành thói quen, khi đến lớp giáo viên sửa lại rất khó.
 Một số phụ huynh không quan tâm đến việc hỗ trợ cho con học, phó thác hết việc dạy con cho cô giáo bằng câu nói trăm sự nhờ cô và cho rằng lớp Một chưa cần thiết, để các con vui chơi thoải mái.
Một số sai sót còn mắc phải của học sinh lớp tôi chủ nhiệm, đó là:
	- Đọc đề toán chưa rõ ràng, chưa biết phân tích đề tìm cách giải.
- Không biết viết câu lời giải hoặc viết câu lời giải giống hệt câu hỏi của bài toán.
- Viết câu lời giải không phù hợp với phép tính.
- Ghi tên đơn vị tính không phù hợp hoặc chỉ ghi phép tính mà không có tên đơn vị.
- Trình bày bài giải chưa đẹp, chưa khoa học.
 Kết quả khảo sát khả năng học tập tích cực của học sinh
Sau khi khảo sát khả năng học tập tích cực của học sinh, tôi đã thu được kết quả:
Số HS
KS
Tinh thần thái độ
 tham gia hoạt động
Năng lực tổ chức và tham gia
 hoạt động nhóm
40
HS còn nhút nhát, chưa tích cực tham gia hoạt động
HS thích tham gia các hoạt động
HS chưa linh hoạt trong điều hành nhóm
HS biết điều hành nhóm tốt
HS tự giác chia sẻ, giúp đỡ bạn trong nhóm
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
22
55 %
18
45%
30
75%
7
17,5%
3
7,5%
Kết quả khảo sát khảo sát chất lượng học sinh
 Sau khi học tiết 85 bài Giải toán có lời văn, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng HS trong lớp, kết quả đạt được như sau:
Số HS khảo sát
HS viết đúng câu lời giải, còn sai phép tính và đáp số
HS viết đúng phép tính và đáp số nhưng còn sai câu lời giải
HS viết đúng câu lời giải và phép tính nhưng còn sai đáp số
HS làm đúng
cả lời giải, phép tính và đáp số
40
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
5 
12,5 %
18
45,0 %
 7
17,5 %
10
25,0 %
	 Qua kết quả khảo sát trên cho thấy tỉ lệ học sinh viết được câu lời giải còn thấp, dẫn đến việc học sinh hoàn thành bài giải còn ít. Tôi đã xác định một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Do học sinh mới bắt đầu làm quen với dạng toán này.
-Tư duy của học sinh lớp Một còn mang tính trực quan là chủ yếu. 
- Giai đoạn này các em chưa đọc thông viết thạo, có nhiều từ ngữ các em chưa hiểu nghĩa hoặc chưa đọc được, các em đọc còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán rồi nhưng các em không hiểu bài toán nói gì.
- Khi chưa đọc thông, viết thạo thì việc tự tìm tòi cách giải là rất khó đối với các em. 
- Học sinh chưa tự tin trình bày ý kiến cá nhân, việc chia sẻ với bạn còn rụt rè.
	Trước thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu, lựa chọn, áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng Giải toán có lời văn cho học sinh trong lớp mình phụ trách.
	2.3. Một số kinh nghiệm dạy Giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một áp dụng phương pháp và kĩ thuât dạy học tích cực.
Dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một được phát triển nâng cao dần theo 2 giai đoạn. 
- Giai đoạn 1: Viết phép tính thích hợp (qua quan sát tranh vẽ)
- Giai đoạn 2: Giải toán có lời văn (dạng toán đơn có 1 phép cộng hoặc 1 phép trừ) 
 Trong giới hạn bài viết này, tôi nghiên cứu, trình bày một số kinh nghiệm dạy giải toán có lời văn dưới dạng các mức độ trong giải toán có lời văn ở lớp Một.
	Mức độ 1: Ngay từ đầu học kỳ I, giới thiệu bài toán ở mức độ nhìn hình vẽ, viết phép tính. 
Mục đích là cho học sinh hiểu bài toán qua hình vẽ, suy nghĩ chọn phép tính thích hợp.
Ở dạng bài này, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn tranh nêu thành lời bài toán, sau đó ghi phép tính thích hợp.
* Ví dụ 1: Bài tập1(trang 45): Yêu cầu HS nhìn tranh, nêu thành bài toán: Có 2 con thỏ, thêm 1 con thỏ. Hỏi có tất cả mấy con thỏ?(hoặc: Có1con thỏ, thêm 2 con thỏ. Hỏi có tất cả mấy con thỏ?)
 Sau đó GV giúp HS chọn số phù hợp ghi vào ô trống.
 + =	 
	+	=
Bài này đã cho sẵn dấu phép tính, chỉ cần học sinh điền được số phù hợp rồi nêu được phép cộng tương ứng với bài toán đã nêu.
 2 + 1 = 3 hoặc 1 + 2 = 3
	Tôi giúp học sinh lấy số con thỏ nhóm bên trái cộng số con thỏ nhóm bên phải hoặc lấy số con thỏ nhóm bên phải cộng với số con thỏ nhóm bên trái.
( Như vậy chủ yếu hướng dẫn học sinh dựa vào hình ảnh để viết được các số).
* Ví dụ 2: Bài 4 (trang 47): Viết phép tính thích hợp:
Giáo viên yêu cầu học sinh nhìn tranh nêu thành bài toán: Trên cành có 3 con chim đậu, 1 con chim bay tới. Hỏi trên cành có tất cả bao nhiêu con chim?
Với bài này, học sinh phải viết được phép tính tương ứng bao gồm cả số và dấu phép tính: 3 + 1 = 4 ( hoặc 1 + 3 = 4)
Tôi đã giúp học sinh nhận ra phép tính Cộng bằng cách nhìn vào hình vẽ có 1 con chim bay tới (tức là thêm vào). Bài toán có chữ Thêm thì làm tính cộng.
Học sinh lấy số con chim đậu trên cành cộng với số con chim đang bay tới để tìm ra kết quả.
 + Để làm quen với việc học tập tích cực, bước đầu tôi hướng dẫn học sinh 
(những em tiếp thu bài nhanh) cách hỏi – đáp về tìm hiểu nội dung hình vẽ để hình thành phép tính và bài toán như sau: 
+ Cho học sinh hỏi - đáp theo nhóm đôi (đổi vai cho nhau). Chẳng hạn:
HS1: Nhìn tranh vẽ bạn thấy có mấy con chim đậu trên cành?
HS2: Tôi thấy có 3 con đậu trên cành.
HS1: Có mấy con chim đang bay tới?
HS2: Tôi thấy có 1 con chim đang bay tới.
HS1: Tất cả có mấy con chim?
HS2: Tất cả có 4 con chim.
HS1: Mời bạn nêu phép tính để tìm tất cả số con chim.
HS2: 3 + 1 = 4 (con chim)
HS1: Bạn nêu bài toán như thế nào để có phép tính đó?
HS2: Trên cành có 3 con chim đậu, 1 con chim bay tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim?
	+ Giáo viên tổ chức cho nhiều cặp hỏi – đáp, đồng thời giúp đỡ những học sinh còn lúng túng. Tổ chức thường xuyên liên tục tạo thói quen cho HS trong mỗi giờ học.
* Ví dụ 3: Bài 3 (trang 54): HS nhìn hình vẽ, nêu bài toán rồi lựa chọn phép tính phù hợp điền vào ô trống. 
Bài này tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đôi, nhìn tranh nêu thành bài toán: Có tất cả 3 con chim, 2 con chim bay đi. Hỏi còn lại bao nhiêu con chim?
Học sinh phải viết được phép tính tương ứng: 3 - 2 = 1
Tôi đã giúp học sinh nhận ra phép tính Trừ bằng cách nhìn vào hình vẽ có 2 con chim bay ra (tức là bớt đi). Bài toán có chữ Bớt hoặc Bay đi thì làm tính trừ.
Học sinh lấy tất cả số con chim trừ đi số con chim đang bay đi để được số 
con chim còn lại.(Tức 3 – 2 = 1)
Sau bài này, giáo viên giúp học sinh nhận biết và phân biệt được phải lựa chọn phép tính cộng hay phép tính trừ khi giải bài toán qua các dấu hiệu đó là: Nội dung hình vẽ, các từ: thêm, cho thêm, bay tới, chạy tới, đi tới ..hoặc bớt, bay đi, chạy đi, cho đi, ăn đi, hái đi,...
*Ví dụ 4: Bài 3 (trang 85) 
Học sinh nhìn hình vẽ, nêu bài toán rồi lựa chọn phép tính phù hợp điền vào ô trống. 
a.Bài toán: Trong chuồng có 7 con vịt, thêm 3 con vịt nữa đang đi vào chuồng. Hỏi có tất cả bao nhiêu con vịt?
	Dưới sự điều hành của nhóm trưởng, học sinh quan sát hình vẽ, thảo luận trong nhóm, sau đó nêu bài toán rồi lựa chọn phép tính phù hợp: 7 + 3 = 10
	Bắt đầu từ bài này, tôi cho học sinh làm quen với việc trả lời dưới dạng lời giải. Tôi yêu cầu học sinh hỏi - đáp, chẳng hạn:
- Hỏi: Trong chuồng có mấy con vịt?
	 Trả lời: Trong chuồng có 7 con vịt.
- Hỏi: Bên ngoài chuồng có mấy con vịt đang đi vào? 
	 Trả lời: Bên ngoài chuồng có 3 con vịt đang đi vào.
- Hỏi: Có tất cả mấy con vịt?
 Trả lời: Có tất cả 10 con vịt.
- Hỏi: Bạn làm thế nào để biết có tất cả 10 con vịt?
	 Trả lời: Lấy 7 + 3 = 10.
 Sau khi làm xong bài, tôi yêu cầu học sinh suy nghĩ để có thể nêu ý kiến khác: Bên ngoài chuồng có 3 con vịt, trong chuồng có 7con vịt. Hỏi có tất cả bao nhiêu con vịt?
	Sau đó học sinh nói hoặc viết nhanh (trên bảng hoặc trên giấy nháp) phép tính tương ứng: 3 + 7 = 10.Trả lời: Có tất cả số con vịt là: 10 con.
 Việc trao đổi trong nhóm tìm cách giải Bài toán có lời văn và tự tìm ra cách giải khác được thực hiện thường xuyên trong suốt quá trình học Giải toán có lời văn của học sinh lớp mình, tạo thành thói quen học theo nhóm, tự tìm tòi kiến thức dưới sự hỗ trợ của giáo viên.
b. Học sinh thảo luận nhóm nêu được bài toán: Trên cành có tất cả 10 quả cam, bớt đi 2 quả cam. Hỏi trên cành còn bao nhiêu quả cam?
Sau đó hỏi - đáp lựa chọn phép tính phù hợp: 10 - 2 = 8
Yêu cầu học sinh trả lời: Số quả cam còn lại trên cành là: 8 quả
Giáo viên cũng hướng dẫn học sinh thực hiện các bước như bài toán a.
	 Khi dạy dạng bài này cần hướng dẫn học sinh nêu được nhiều bài toán khác nhau rồi viết được phép tính phù hợp với từng bài toán để tăng cường khả năng diễn đạt, khả năng tư duy cho học sinh. 
 Ngay từ bài: Phép cộng trong phạm vi 3 (tuần 7), giáo viên chủ động cho học sinh làm quen với Giải toán có lời văn và tiếp tục nâng cao dần ở các bài tiếp theo. Nhờ vậy, đến tuần 22, chính thức học sinh được học Giải toán có lời văn thì phần lớn các em đã nắm bắt được trình tự các bước giải toán có lời văn.
	Mức độ 2: Đến cuối học kì I, học sinh được làm quen với tóm tắt bằng hình ảnh và bằng lời: 
* Ví dụ : Bài 3 (trang 87)
	a) GV hướng dẫn học sinh nhìn hình vẽ nêu được bài toán.ỏi cả hai hàng có tất cả bao nhiêu caisthuyeenf?
	Để học sinh nêu được bài toán phù hợp, tôi hướng dẫn học sinh đếm số thuyền từng hàng, quan sát vị trí dấu ngoặc. Giải thích dấu ngoặc thay cho từ cả hai hàng hoặc có tất cả. Dấu chấm hỏi thay cho từ bao nhiêu rồi yêu cầu học sinh nêu bài toán:
	Bài toán: Hàng trên có 4 cái thuyền, hàng dưới có 3 cái thuyền. Hỏi cả hai hàng có bao nhiêu cái thuyền ?
Sau đó học sinh nêu được phép tính tương ứng: 4 + 3 = 7 
Trả lời: Hai hàng có tất cả số thuyền là: 7 cái thuyền.
- Học sinh thảo luận nhóm (Hỏi – đáp) để tìm cách giải khác.
b) Có : 10 quả bóng 
10
-
3
=
7
	 Cho : 3 quả bóng
	 Còn : ... quả bóng?
 Với dạng bài này, tôi thường giúp học sinh dựa vào tóm tắt, tự nghĩ ra đề bài, sau đó tự giải bài toán. Bằng những lời văn khác nhau, học sinh sẽ tự đặt được đề toán khác nhau. Đây là việc làm giúp học sinh vận dụng hết những hiểu biết của mình để thực hiện yêu cầu của cô giáo và cũng là cơ hội để các em tự giải đáp những yêu cầu về bài tập do mình đưa ra.
 Học sinh từng bước làm quen với lời văn thay cho hình vẽ, các em dần dần thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết câu lời giải.
 Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh nhưng có thể động viên những học sinh tiếp thu nhanh, có năng khiếu về môn Toán làm bằng nhiều cách,

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_day_giai_toan_co_loi_van_cho_hoc_sinh.doc