SKKN Kinh nghiệm xây dựng hệ thống ví dụ thực tế minh họa bài học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lí ở trường THPT Hà Văn Mao

SKKN Kinh nghiệm xây dựng hệ thống ví dụ thực tế minh họa bài học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lí ở trường THPT Hà Văn Mao

Vật lí là một trong những môn học khó trong trường phổ thông, nếu không có bài giảng, phương pháp phù hợp dễ làm cho học sinh thụ động tiếp thu. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học vật lí, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của môn Vật lí.

Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, nguyên nhân đầu tiên là do chương trình hiện nay vẫn còn nặng về mặt kiến thức. Trong một tiết học, với nội dung kiến thức tương đối nhiều, giáo viên cố gắng để chuyển tải kiến thức cho học sinh, nên thời gian để liên hệ thực tế hoặc mở rộng, thực hiện các thí nghiệm, nâng cao kiến thức là rất hạn chế. Hơn nữa, cơ sở vật chất dành cho phòng học bộ môn Vật lí ở nhiều trường còn hạn chế nên thực hiện các thí nghiệm cũng gặp nhiều khó khăn; học sinh ít có điều kiện tiếp xúc với thí nghiệm thực hành để hiểu hơn về các hiện tượng thực tế của bài học. Đó là chưa kể đến việc xét tổ hợp bộ môn vào ĐH, CĐ một số ngành học không có môn Vật lí nên học sinh ít đầu tư vào môn học này.

Nguyên nhân thứ hai, chính là từ những người trực tiếp giảng dạy môn học. Theo đó, còn giáo viên chưa quan tâm đúng mức tới đối tượng giáo dục; chưa đặt ra cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt cùng một cách dạy, một bài giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò. Giáo viên dạy "chay" nhiều, mô tả hiện tượng vật lí bằng các thuật ngữ khoa học trừu tượng và khó hiểu với học sinh. Giáo viên dạy vật lí nhưng xa rời kiến thức thực tế trong khi đó vật lí lại là môn học gắn liền với thực nghiệm và thực tế. Một số thầy, cô bước chân vào lớp, cầm viên phấn viết ngay đề bài và cứ thế "độc diễn" tới cuối giờ học, không quan tâm tới phải đặt vấn đề vào bài và gắn các ví dụ thực tế xung quanh cuộc sống học sinh vào bài học cho sinh động và tăng hứng thú, hấp dẫn học sinh. Có giáo viên lại sợ mất thời gian, ngại phải chuẩn bị Việc chưa chú trọng đến thí nghiệm trong phòng học bộ môn cũng là nguyên nhân khiến học sinh không hiểu rõ được hiện tượng thực tế, không quan sát được hiện tượng, không được trực tiếp tiến hành thí nghiệm, từ đó kém hứng thú, ghi nhớ bài học máy móc, nhanh quên kiến thức và vận dụng kiến thức vào

doc 16 trang thuychi01 5504
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm xây dựng hệ thống ví dụ thực tế minh họa bài học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lí ở trường THPT Hà Văn Mao", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Vật lí là một trong những môn học khó trong trường phổ thông, nếu không có bài giảng, phương pháp phù hợp dễ làm cho học sinh thụ động tiếp thu. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học vật lí, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của môn Vật lí.
Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, nguyên nhân đầu tiên là do chương trình hiện nay vẫn còn nặng về mặt kiến thức. Trong một tiết học, với nội dung kiến thức tương đối nhiều, giáo viên cố gắng để chuyển tải kiến thức cho học sinh, nên thời gian để liên hệ thực tế hoặc mở rộng, thực hiện các thí nghiệm, nâng cao kiến thức là rất hạn chế. Hơn nữa, cơ sở vật chất dành cho phòng học bộ môn Vật lí ở nhiều trường còn hạn chế nên thực hiện các thí nghiệm cũng gặp nhiều khó khăn; học sinh ít có điều kiện tiếp xúc với thí nghiệm thực hành để hiểu hơn về các hiện tượng thực tế của bài học. Đó là chưa kể đến việc xét tổ hợp bộ môn vào ĐH, CĐ một số ngành học không có môn Vật lí nên học sinh ít đầu tư vào môn học này.
Nguyên nhân thứ hai, chính là từ những người trực tiếp giảng dạy môn học. Theo đó, còn giáo viên chưa quan tâm đúng mức tới đối tượng giáo dục; chưa đặt ra cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt cùng một cách dạy, một bài giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò. Giáo viên dạy "chay" nhiều, mô tả hiện tượng vật lí bằng các thuật ngữ khoa học trừu tượng và khó hiểu với học sinh. Giáo viên dạy vật lí nhưng xa rời kiến thức thực tế trong khi đó vật lí lại là môn học gắn liền với thực nghiệm và thực tế. Một số thầy, cô bước chân vào lớp, cầm viên phấn viết ngay đề bài và cứ thế "độc diễn" tới cuối giờ học, không quan tâm tới phải đặt vấn đề vào bài và gắn các ví dụ thực tế xung quanh cuộc sống học sinh vào bài học cho sinh động và tăng hứng thú, hấp dẫn học sinh. Có giáo viên lại sợ mất thời gian, ngại phải chuẩn bịViệc chưa chú trọng đến thí nghiệm trong phòng học bộ môn cũng là nguyên nhân khiến học sinh không hiểu rõ được hiện tượng thực tế, không quan sát được hiện tượng, không được trực tiếp tiến hành thí nghiệm, từ đó kém hứng thú, ghi nhớ bài học máy móc, nhanh quên kiến thức và vận dụng kiến thức vào thực tiễn rất yếu.
Nguyên nhân thứ ba, do cách ra đề kiểm tra đánh giá học sinh theo một lối mòn đã rất cũ là hỏi lí thuyết học thuộc từ sách giáo khoa; bài tập dùng để kiểm tra đánh giá phần lớn chỉ áp dụng công thức để tính toán đơn thuần; đề kiểm tra chưa gắn liền kiến thức với thực tiễn và thí nghiệm thực hành; điều đó khiến học sinh học theo xu hướng ra đề của giáo viên...
Để khơi dậy niềm đam mê của học sinh với môn Vật lí, nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lí, nhất là đối với các em học sinh vùng sâu, vùng xa, các em học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần phải thay đổi phương pháp dạy của giáo viên, phải có tư duy đổi mới, hiểu đối tượng, gắn kiến thức vật lí với thực tế cuộc sống của các em và các thí nghiệm thực hành trong môn Vật lí. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống các ví dụ thực tế minh họa cho kiến thức bài học là một trong những cách làm hiệu quả trong dạy học vật lí, góp phần khắc phục những hạn chế trong dạy học vật lí như ví dụ minh họa trong SGK còn khó hiểu, không phù hợp nhận thức học sinh, thiếu thí nghiệm vật lí
Hiện nay có nhiều đề tài nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí, tuy nhiên chưa có tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về việc xây dựng hệ thống ví dụ thực tế minh họa cho bài học trong giảng dạy bộ môn Vật lí.
Từ những lí do trên tôi chọn đề tài "Kinh nghiệm xây dựng hệ thống ví dụ thực tế minh họa bài học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lí ở trường THPT Hà Văn Mao" làm đề tài nghiên cứu của mình trong hai năm học 2016 - 2017 và 2017 - 2018. 
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu việc xây dựng hệ thống ví dụ thực tế minh họa cho bài học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường THPT Hà Văn Mao. 
Qua thực tế giảng dạy môn vật lí ở trường THPT Hà Văn Mao tôi nhận thấy đa số học sinh ngại học môn vật lí vì có nhiều vấn đề trừu tượng, khó tiếp thu, khó hiểu nên các em rất ngại học, trong khi đó nếu xây dựng được hệ thống ví dụ thực tế gắn với nội dung bài học mà gần gũi trong đời sống hằng ngày, bản thân các em đã được gặp, nhận thức được thì các em rất hứng thú khi học tập, từ đó nâng cao được chất lượng môn học.
Ngoài ra, một số ví dụ trong SGK chưa thực sự phù hợp với nhận thức, hiểu biết của học sinh vùng núi, vùng sâu, vùng xa, do vậy việc xây dựng hệ thống ví dụ thực tế là cần thiết góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong giai đoạn hiện nay.
Đồng thời nội dung của đề tài cũng có thể đưa vào kế hoạch của tổ chuyên môn nhằm hướng tới đổi mới thực sự sinh hoạt tổ chuyên môn. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu hệ thống ví dụ thực tế trong đời sống, kĩ thuật gần với nhận thức, cuộc sống sinh hoạt của học sinh để minh họa cho các bài giảng nhằm tạo hứng thú học tập môn Vật lí của học sinh trường THPT Hà Văn Mao, qua đó nâng cao chất lượng dạy và học môn vật lí ở nhà trường. 
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong khi làm đề tài này tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
* Phương pháp nghiên cứu lí luận: thông qua các tài liệu, văn bản của Đảng, Nhà nước, của ngành bản thân tôi đã nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài.
* Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức triển khai đề tài ở 02 nhóm lớp, nhóm lớp thực nghiệm gồm 03 lớp (10A8, 11A3, 12A3), nhóm lớp đối chứng 03 lớp (10A6, 11A2, 12A2), các lớp này tương đồng về mức độ nhận thức, học lực, sĩ số học sinh.
* Phương pháp vấn đáp, quan sát thực tế: Điều tra sự hứng thú học tập học sinh qua vấn đáp, phiếu điều tra, quan sát thực tế khi giảng dạy.
* Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Thu thập và xử lí số liệu trước, và sau khi thực hiện đề tài để thấy được hiệu quả của đề tài trong giảng dạy môn vật lí ở trường THPT Hà Văn Mao.
* Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm: Sau khi thực hiện đề tài, bản thân tôi đã phân tích lại những ưu điểm, hạn chế để rút ra kinh nghiệm cho bản thân, điều chỉnh phương pháp, cách thức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng của đề tài.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nghị quyết 29-NQ/TW, ngày 44/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo" chỉ rõ trong quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ giải pháp trong đó chú trọng phương pháp giảng dạy, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Để học sinh hiểu được vai trò và ý nghĩa thực tiễn khi học môn Vật lí, giúp các em khơi dậy niềm đam mê với môn học và trở thành con người phát triển toàn diện, một trong những yếu tố quyết định cần phải thay đổi đó là phương pháp dạy học của giáo viên. 
Hiện nay trong các văn bản chỉ đạo của ngành cũng đã thể hiện rất rõ về các biện pháp tích cực đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường kết nối trên nền tảng internet xây dựng môi trường học tập mở, đưa người học trở thành trung tâm của quá trình dạy học, do đó việc thay đổi phương pháp giảng dạy của giáo viên là yếu tố hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Hiện nay trong giảng dạy môn Vật lí thì SGK vẫn là tài liệu chính thống được sử dụng, tuy nhiên một số ví dụ thực tế trong SGK trích dẫn vẫn chưa phù hợp hết đối với các đối tượng học sinh, nhiều ví dụ còn xa lạ, học sinh không biết, không hiểu nên còn gây khó khăn trong quá trình học tập nhất là với các em học sinh miền núi, vùng còn nhiều học sinh đồng bào dân tộc thiểu số. Chẳng hạn: ví dụ đặt vấn đề vào bài Tính tương đối của chuyển động. Công thức cộng vận tốc (SGK Vật lí 10 CB, trang 35) có trích dẫn ví dụ "Một diễn viên xiếc đứng trên lưng một con ngựa đang phi, tay quay tít một cái gậy, ở hai đầu có hai ngọn đuốc. Đối với diễn viên thì hai ngọn đuốc đó chuyển động tròn. Còn đối với khán giả thì sao?" [1], ở ví dụ này học sinh rất khó hình dung được hiện tượng xảy ra vì chưa bao giờ được xem; ví dụ đặt vấn đề vào bài Sự nở vì nhiệt của Vật rắn (SGK Vật lí 10 CB, trang 194) "Tại sao giữa hai đầu thanh ray của đường sắt lại phải có một khe hở (Hình 36.1)?"[1], ở ví dụ này nhiều học sinh chưa được nhìn thấy tận mắt đường ray, mà chỉ thấy hình ảnh qua ti vi, điện thoại nên cũng không rõ lắm đường sắt có khe hở, hở như thế nào?; ví dụ về Hồ quang điện trong bài Dòng điện trong chất khí (Vật lí 11 CB, trang 91), ở ví dụ này học sinh không hình dung được hồ quang điện là gì? Chưa từng gặp trong thực tế nên chưa có nhận thức về nó...ngoài ra, số lượng ví dụ thực tế minh họa cho kiến thức bài học trong SGK còn ít, trong quá trình giảng dạy các thầy, cô giáo cần lấy thêm các ví dụ để làm cho bài học sinh động, tránh nhàm chán, kích thức sự hứng thú học tập cho học sinh.
Đa số các trường THPT trên địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa nói chung, trường THPT Hà Văn Mao nói riêng thiếu phòng học bộ môn, thiếu các thiết bị thí nghiệm thực hành, thí nghiệm biểu diễn nên rất khó khăn cho giáo viên trong quá trình giảng dạy, nhiều tiết dạy chỉ bằng phấn trắng, bảng đen, giáo viên truyền đạt kiến thức một chiều dẫn đến chất lượng dạy và học còn thấp, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến số lượng học sinh bỏ học giữa chừng còn nhiều.
Qua khảo sát thực tế bằng phiếu điều tra, và quan sát thực tế khi giảng dạy, dự giờ thì có đến hơn 55% học sinh ở trường THPT Hà Văn Mao không hứng thú với môn Vật lí, Mức độ nhận thức trong học tập của học sinh còn yếu. Cụ thể (khảo sát sau khi kết thúc học kì I, năm học 2017 - 2018):
Lớp
Sĩ số
Mức độ nhận thức
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10A6
45
2
4,4
10
22,2
17
37,8
16
35,6
0
0
11A2
34
2
5,9
9
26,5
15
44,1
8
23,5
0
0
12A2
34
3
8,8
9
26,5
12
35,3
10
29,4
0
0
10A8
44
1
2,3
9
20,4
16
36,4
18
40,9
0
0
11A3
33
2
6,1
8
24,2
13
39,4
10
30,3
0
0
12A3
35
1
2,8
8
22,9
12
34,3
14
40,0
0
0
Kết quả học tập bộ môn học kì I, năm học 2017 - 2018 của học sinh còn yếu, số lượng học sinh khá giỏi ít. Cụ thể:
Lớp
Sĩ số
Học lực
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10A6
45
1
2,2
5
11,1
15
33,3
24
53,4
0
0
11A2
34
1
2,9
7
20,6
12
35,3
14
41,2
0
0
12A2
37
1
2,7
8
21,6
11
29,7
17
45,0
0
0
10A8
44
2
4,5
6
13,6
15
34,1
21
47,8
0
0
11A3
33
1
3,0
5
15,2
13
39,4
14
42,4
0
0
12A3
35
1
2,9
6
17,1
13
37,1
15
42,9
0
0
Như vậy, việc thay đổi phương pháp trong dạy học vật lí là cần thiết nhằm thay đổi động cơ, thái độ, mức độ nhận thức, kết quả học tập của học sinh, từ đó đạt được mục đích giáo dục đề ra.
2.3. Kinh nghiệm xây dựng hệ thống ví dụ thực tế minh họa bài học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lí ở trường THPT Hà Văn Mao
2.3.1. Các bước xây dựng hệ thống ví dụ minh họa bài học
Bước 1: Xác định rõ mục tiêu, nội dung kiến thức; đối tượng học sinh.
Bước 2: Nghiên cứu, lựa chọn các ví dụ trong thực tế gần gũi với cuộc sống của học sinh, áp dụng trong kĩ thuật, sinh hoạt hàng ngày liên quan đến nội dung bài học. Trong đó có thể phân loại các ví dụ với mục đích khác nhau theo các vấn đề như sau: 
- Ví dụ để đặt vấn đề vào bài học: nhằm tạo không khí thoải mái, sự hứng thú, tập trung của học sinh.
- Ví dụ minh họa: dùng để minh họa cho từng nội dung kiến thức trong bài học, có thể là các ví dụ đơn lẻ, hoặc là ví dụ cho nhóm kiến thức nhằm làm rõ, nổi bật kiến thức để học sinh nắm chắc kiến thức.
- Ví dụ củng cố, vận dụng: để học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải thích các hiện tượng trong các ví dụ, nhằm củng cố kiến thức cho học sinh sau mỗi bài học.
- Ví dụ nâng cao: nhằm phát triển tư duy của học sinh, giúp học sinh có khả năng vận dụng vào thực tiễn, áp dụng vào kĩ thuật, kích thích tìm tòi những cái mới của học sinh.
Bước 3: Sử dụng có hiệu quả hệ thống ví dụ.
Khi sử dụng hệ thống ví dụ cần linh hoạt, áp dụng phù hợp đúng thời điểm, nội dung kiến thức bài học, cách thể hiện sinh động qua các câu chuyện, qua máy chiếu, tranh vẽtránh đơn điệu, dài dòng, khó hiểu gây nhàm chán ở học sinh
Bước 4: Rút kinh nghiệm, điều chỉnh
Sau khi sử dụng hệ thống ví dụ cần đánh giá lại, rút kinh nghiệm, điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh của từng lớp, có thể bổ sung hoặc cắt bớt lượng ví dụ để đảm bảo quá trình nhận thức, tiến độ bài dạy.
2.3.2. Xây dựng hệ thống ví dụ thực tế minh họa cho một số bài học cụ thể trong chương trình môn Vật lí ở trường THPT Hà Văn Mao
* Tiết 17 - Bài 10: Ba định luật Niu-tơn (Vật lí 10 CB)
Bước 1: Xác định mục tiêu bài học, đối tượng học sinh. 
- Phát biểu được định luật I Niu-tơn.
- Nêu được quán tính của vật là gì và kể được một số ví dụ về quán tính.
- Nêu được khối lượng là số đo mức quán tính.
Vận dụng được mối quan hệ giữa khối lượng và mức quán tính của vật để giải thích một số hiện tượng thường gặp trong đời sống và kĩ thuật.
- Nêu được mối quan hệ giữa lực, khối lượng và gia tốc được thể hiện trong định luật II Niu-tơn và viết được hệ thức của định luật này.
- Nêu được gia tốc rơi tự do là do tác dụng của trọng lực và viết được hệ thức .
- Đối tượng học sinh: Là học sinh các lớp 10 CB, đa số có học lực trung bình và yếu.
Bước 2: Xây dựng hệ thống ví dụ 
- Ví dụ đặt vấn đề vào bài học:
+ VD 1: Tại sao khi nhổ cỏ dại không nên dứt quá đột ngột, kể cả khi rễ cỏ bám trong đất không được chắc?
+ VD 2: Tại sao khi tra dao vào cán, người ta thường dựng dao lên và đóng mạnh đầu cán dao vào bê tông, vật cứng?
+ VD 3: Dùng tay đẩy chiếc xe rùa không và chiếc xe rùa chở đầy đất, nếu dùng sức như nhau thì chiếc xe rùa không sẽ chuyển động nhanh hơn, chiếc xe chở đất chuyển động chậm hơn, vì sao? 
- Ví dụ minh họa cho các nội dung bài học:
+ VD 4: Dùng búa đóng đinh lên tường thì búa phải tác dụng một lực lên đinh, gây ra gia tốc cho đinh, làm đinh chuyển động cắm sâu vào tường. (Minh họa nội dung ôn lại kiến thức về lực).
+ VD 5: Khi nhảy từ bậc cao xuống ta phải gập chân lại vì khi nhảy xuống thì toàn bộ cơ thể mình đang di chuyển theo chiều từ trên xuống. Chân đụng đất dừng lại nhưng phần cơ thể trên chân vẫn chuyển động từ trên xuống theo quán tính, nếu không gập chân lại thì sẽ gây ra chấn thương cho đầu gối. (Minh họa cho nội dung quán tính của vật).
+ VD 6: Khi phơi chăn bông dày, người ta thường lấy một cây gậy để đập vào chăn cho sạch bụi. Khi chăn đang đứng yên thì các hạt bụi bám vào chăn cũng đứng yên, khi ta đập vào chăn thì chăn chuyển động, trong khi đó các hạt bụi vẫn bảo toàn trạng thái đứng yên của mình nên chăn chuyển động, bụi ở lại. (Minh họa cho nội dung quán tính của vật).
+ VD 7: Khi ta chơi bi, khi búng "mạnh" thì viên bi chạy nhanh, còn khi búng "yếu" thì viên bi chạy chậm. Theo định luật II Niu-tơn thì độ lớn gia tốc của vật tỉ lệ thuận với độ lớn lực tác dụng vào vật nên khi búng mạnh (Tác dụng lực mạnh) viên bi thu được gia tốc lớn hơn khi búng yếu (Tác dụng lực nhỏ). (Minh họa cho nội dung Định luật II Niu-tơn).
- Ví dụ củng cố kiến thức bài học:
+ Cho học sinh vận dụng kiến thức bài học, giải thích các hiện tượng xảy ra ở các ví dụ VD1, VD2, VD 3.
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung.
+ Giải thích VD 1: Khi nhổ cỏ quá đột ngột thì rễ cỏ chưa kịp chuyển động do theo quán tính thì thân đã bị đứt khỏi rễ, rễ vẫn nằm trong đất, cỏ dại sẽ nhanh chóng mọc lại.
Giải thích VD 2: Khi tra dao vào cán ta dựng dao theo phương thẳng đứng rồi đóng mạnh đầu cán dao vào nền cứng, khi làm như vậy ta đã vận dụng quán tính của dao vừa nhẹ nhàng, vừa hiệu quả vì ban đầu thân dao và cán chuyển động cùng tốc độ, khi cán dao chạm vào nền cứng, cán dao dừng lại đột ngột trong khi đó thân dao vẫn chuyển động theo quán tính, kết quả là đuôi dao ngập sâu vào cán dao.
Giải thích VD 3: Theo định luật II Niu-tơn , trong hai trường hợp thì lực tác dụng bằng nhau nhưng khối lượng khác nhau nên xe không có đất thu được gia tốc lớn hơn, chuyển động nhanh hơn xe có chở thêm đất.
- Ví dụ nâng cao:
Cho học sinh về nhà tự tìm hiểu và giải thích các hiện tượng liên quan đến các ví dụ sau:
+ VD 8: Tại sao khi đi xe đạp, sau khi ngừng đạp xe vẫn có thể chạy thêm được một quãng đường nữa rồi mới dừng lại? Quãng đường xe đạp đi thêm được dài hay ngắn phụ thuộc vào yếu tố nào? Vì sao?
Mục đích: Ví dụ này học sinh cần vận dụng kiến thức về quán tính và tìm hiểu thêm tác dụng của lực ma sát. 
+ VD 9: Hai người A và B đi hai chiếc xe gắn máy, A đi xe Wave 110 RSX có dung tích xi lanh 109,1 cc, khối lượng 100kg; còn B sử dụng xe Exciter 150cc GP 2016 có dung tích xi lanh 149,7cc, khối lượng 115kg thì xe nào có khả năng tăng tốc nhanh hơn? Vì sao?
Mục đích: Qua ví dụ học sinh hiểu được khối lượng hai xe chênh nhau không đáng kể, xe có công suất lớn hơn thì động cơ sinh công lớn hơn, nên lực phát động lớn, theo định luật II Niu-tơn thì gia tốc xe lớn do vậy xe Exciter có khả năng tăng tốc nhanh hơn.
Bước 3: Sử dụng có hiệu quả hệ thống ví dụ.
- VD 1, VD 2, VD 3: Giáo viên trình bày ví dụ, đặt câu hỏi để học sinh giải thích theo hiểu biết của mình. Giáo viên đặt vấn đề vào bài.
- VD 4, VD 5, VD6, VD 7: sử dụng minh họa cho các nội dung tương ứng của bài học, giáo viên sử dụng thông qua máy chiếu, tranh vẽ.
- VD 8, VD 9: Giáo viên giao nhiệm vụ học tập về nhà cho học sinh tìm hiểu và nộp lại kết quả thu hoạch vào giấy.
Bước 4: Rút kinh nghiệm, điều chỉnh
Sau khi sử dụng hệ thống ví dụ cần rút kinh nghiệm, điều chỉnh phù hợp ở các lớp khác nhau, đảm bảo linh hoạt, có hiệu quả. Có thể đổi ví dụ, giảm hoặc tăng số lượng ví dụ nhưng tránh dàn trải, gây "loãng" tiết học.
* Tiết 60 - Bài 36: Sự nở vì nhiệt của Vật rắn (Vật lí 10 CB)
Bước 1: Xác định mục tiêu bài học, đối tượng học sinh. 
- Viết được các công thức nở dài và nở khối.
- Vận dụng được công thức nở dài và nở khối của vật rắn để giải các bài tập đơn giản.
- Nêu được ý nghĩa của sự nở dài, sự nở khối của vật rắn trong đời sống và kĩ thuật
- Học sinh học ở các lớp 10 cơ bản, đa số có kết quả học tập trung bình và yếu.
Bước 2: Xây dựng hệ thống ví dụ 
- Ví dụ đặt vấn đề vào bài học: 
+ VD1: Tại sao Nhà học 3 tầng ở trường ta có một khe hở lớn ở gần cầu thang giữa tòa nhà? Có phải khi thi công đã bị lỗi, hay tường nhà bị nứt do sụt lún nền nhà hay có mục đích khác?
+ VD 2: Khi chúng ta tra khâu dao vào cán dao thì phải nung nóng khâu dao vào bếp củi, sau đó tra khâu vào cán gỗ, rồi nhúng nhanh vào nước lạnh. Tại sao phải làm như vậy?
- Ví dụ minh họa cho các nội dung bài học:
+ VD 3: Đường ray xe lửa (đường sắt) làm bằng sắt, khi thời tiết thay đổi nhiệt độ thì cả hệ thống đường ray sẽ bị thay đổi chiều dài do sự nở vì nhiệt [5]. Theo công thức của sự nở dài, thì độ nở dài là: ∆l =l - l0 =l0α∆t, do đó khi chiều dài đường sắt giảm hay tăng đều làm cho đường sắt bị cong, vênh dẫn đến tai nạn do tàu bị trật bánh, do vậy khi để khe hở các thanh ray có thể trượt trên con lăn, thanh dài ra hay ngắn lại do sự thay đổi nhiệt độ đều không làm ảnh hưởng đến cấu trúc đường ray (Ví dụ minh họa cho sự nở dài của vật rắn).
+ 
+ VD 4: Khi các đai ốc, vít bị gỉ khó vặn nhưng đem đốt nóng lên thì lại dễ vặn hơn [5], vì khi đốt nóng đai ốc nở ra trong khi ốc ở bên trong chưa kịp nở làm cho đai ốc vừa rộng ra so với ốc vừa làm lớp gỉ sắt giữa đai ốc và ốc bị vỡ do đó ta vặn ốc dễ dàng hơn rất nhiều. Tương tự, mùa đông nút chai, nắp lọ (bằng kim loại) thường khó vặn, ta chỉ cần hơ nóng phần nút chai khi đó nút chai sẽ dãn nở dễ dàng vặn nút hơn. (Ví dụ minh họa cho phần sự nở khối).
- Ví dụ củng cố kiến thức bài học:
+ Giáo viên lấy lại hai ví dụ ở phần đặt vấn đề vào bài.
+ Cho học sinh vận dụng kiến thức bài học, giải thích.
+ GV chốt lại câu trả lời:
Giải thích VD 1: Khi thời tiết thay đổi nhiệt độ thì tường nhà cũng thay đổi theo, t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_xay_dung_he_thong_vi_du_thuc_te_minh_hoa_ba.doc
  • docBia.doc
  • docML, TLTK.doc