SKKN Khuyến khích học sinh cùng chuẩn bị đồ dùng học tập làm tăng tính trực quan cho giờ học ở môn Công Nghệ 6 Trường THCS Nga Thạch - Huyện Nga Sơn

SKKN Khuyến khích học sinh cùng chuẩn bị đồ dùng học tập làm tăng tính trực quan cho giờ học ở môn Công Nghệ 6 Trường THCS Nga Thạch - Huyện Nga Sơn

Giáo dục và đào tạo đang là vấn đề thách thức của toàn cầu. Hiện nay tất cả các Quốc gia trên Thế giới đang nỗ lực “Đổi mới nội dung và phương pháp Giáo dục- Đào tạo” với nhiều mô hình, biện pháp khác nhau nhằm mở rộng qui mô, nâng cao tính tích cực trong dạy và học một cách toàn diện, dạy làm như thế nào để giúp người học hướng tới việc học tập một cách chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Do đó cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ các yếu tố liên quan trong dạy học, mà việc sử dụng thiết bị, đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học là một yếu tố cực kỳ quan trọng.

 Việc sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy học nó được gắn bó chặt chẽ với phương pháp dạy học. Mặt khác đặc thù của môn Công nghệ là môn học gắn liền với kỹ thuật, với thực tiễn sản xuất do vậy những thiết bị và dụng cụ để dạy thực hành không chỉ cần thiết cho giáo viên mà còn cần thiết cho học sinh để các em rèn luyện kĩ năng , người thầy không thể dạy "chay" mà cần phải có cơ sở vật chất và thiết bị tối thiểu để dạy học.

Nhưng trong thực tế giáo viên giảng dạy các bộ môn nói chung và giáo viên giảng dạy môn Công nghệ nói riêng gặp rất nhiều khó khăn trong các bài dạy đặc biệt là dạy các bài thực hành cho học sinh quan sát trực quan do một số nguyên nhân sau:

- Phòng bộ môn không đạt yêu cầu.

- Đồ dùng thiết bị phân bổ theo danh mục nêu vẫn còn thiếu.

- Đồ dùng thiết bị có nhưng chất lượng rất kém, hoặc đã hư hỏng sau nhiều năm sử dụng nhưng chưa được bổ sung kịp thời.

Trước hiện trạng đó, tôi đã phân tích và tự đặt ra cho mình những câu hỏi: Phải làm gì? Làm như thế nào? Để khắc phục tình trạng trên làm phong phú thêm thiết bị đồ dùng dạy học ở trường hiện nay vì thế trong những năm học gần đây tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Khuyến khích học sinh cùng chuẩn bị đồ dùng học tập làm tăng tính trực quan cho giờ học ở môn Công Nghệ 6 Trường THCS Nga Thạch -Huyện Nga Sơn".

 

doc 19 trang thuychi01 223410
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Khuyến khích học sinh cùng chuẩn bị đồ dùng học tập làm tăng tính trực quan cho giờ học ở môn Công Nghệ 6 Trường THCS Nga Thạch - Huyện Nga Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHUYẾN KHÍCH HỌC SINH CÙNG CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG HỌC TẬP LÀM TĂNG TÍNH TRỰC QUAN CHO GIỜ HỌC Ở MÔN CÔNG NGHỆ 6 TRƯỜNG THCS NGA THẠCH HUYỆN -NGA SƠN
MỞ ĐẦU
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục và đào tạo đang là vấn đề thách thức của toàn cầu. Hiện nay tất cả các Quốc gia trên Thế giới đang nỗ lực “Đổi mới nội dung và phương pháp Giáo dục- Đào tạo” với nhiều mô hình, biện pháp khác nhau nhằm mở rộng qui mô, nâng cao tính tích cực trong dạy và học một cách toàn diện, dạy làm như thế nào để giúp người học hướng tới việc học tập một cách chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Do đó cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ các yếu tố liên quan trong dạy học, mà việc sử dụng thiết bị, đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học là một yếu tố cực kỳ quan trọng. 
 	Việc sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy học nó được gắn bó chặt chẽ với phương pháp dạy học. Mặt khác đặc thù của môn Công nghệ là môn học gắn liền với kỹ thuật, với thực tiễn sản xuất do vậy những thiết bị và dụng cụ để dạy thực hành không chỉ cần thiết cho giáo viên mà còn cần thiết cho học sinh để các em rèn luyện kĩ năng , người thầy không thể dạy "chay" mà cần phải có cơ sở vật chất và thiết bị tối thiểu để dạy học. 
Nhưng trong thực tế giáo viên giảng dạy các bộ môn nói chung và giáo viên giảng dạy môn Công nghệ nói riêng gặp rất nhiều khó khăn trong các bài dạy đặc biệt là dạy các bài thực hành cho học sinh quan sát trực quan do một số nguyên nhân sau:
- Phòng bộ môn không đạt yêu cầu.
- Đồ dùng thiết bị phân bổ theo danh mục nêu vẫn còn thiếu. 
- Đồ dùng thiết bị có nhưng chất lượng rất kém, hoặc đã hư hỏng sau nhiều năm sử dụng nhưng chưa được bổ sung kịp thời. 
Trước hiện trạng đó, tôi đã phân tích và tự đặt ra cho mình những câu hỏi: Phải làm gì? Làm như thế nào? Để khắc phục tình trạng trên làm phong phú thêm thiết bị đồ dùng dạy học ở trường hiện nay vì thế trong những năm học gần đây tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Khuyến khích học sinh cùng chuẩn bị đồ dùng học tập làm tăng tính trực quan cho giờ học ở môn Công Nghệ 6 Trường THCS Nga Thạch -Huyện Nga Sơn".
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, về vấn đề kiểm tra tính trực quan của học sinh, đề xuất các biện pháp hợp lý kiểm tra tính trực quan của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục môn công nghệ 6 trong nhà trường.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .
Một số biện pháp kiểm tra tính trực quan của học sinh trường THCS Nga Thạch – Nga Sơn – Thanh Hóa
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: 
Để thực hiện đề tài này đã sử dụng các phương pháp sau:
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống các văn bản, tài liệu các công trình khoa học có liên quan tới đề tài mà tính trực quan của học sinh khi thực hành cao .
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: 
Có sử dụng phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn, trắc nghiệm, phân tích tổng hợp, tổng kết kinh nghiệm...
c. Nhóm phương pháp nghiên cứu thống kê toán học.
Sử dụng các toán thống kê để xử lý các số liệu thu được.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
Đổi mới phương pháp dạy học nhất là trong giảng dạy môn công nghệ là yêu cầu cấp thiết. Trọng tâm đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay là coi học sinh làm trung tâm, chuyển vai trò thụ động tiếp thu kiến thức của học sinh sang vai trò chủ động, sử dụng đồ dùng dạy học khi giảng dạy môn công nghệ ở trường THCS là một phương pháp giảng dạy tiến bộ, đáp ứng yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học. Khi áp dụng phương pháp dạy học này, học sinh thực sự đóng vai trò trung tâm, tự giác nhận thức tri thức, giáo viên truyền đạt trên lớp, hiệu quả được nâng lên rõ rệt.
Giáo cụ trực quan phục vụ giảng dạy môn công nghệ rất đa dạng về chủng loại và phong phú về mẫu mã. Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật các phương tiện nghe nhìn ngày càng phát triển có thể ứng dụng giảng dạy như tranh ảnh có nhiều màu sắc, máy tính, đèn chiếu, đồ dùng được cấp nhưng muốn có được thiết bị đồ dùng phong phú phục vụ cho từng bài học, tiết học thì chỉ có vậy thôi chưa đủ người giáo viên phải biết sử dụng khả năng của bản thân cùng với học sinh có thể sử dụng các đồ dùng thiết bị khác dễ tìm kiếm trong học đường, gia đình, địa phương nơi sinh sống, hay có thể tự làm để dùng vào việc dạy học. Tất cả những giáo cụ đó đều có thể trở thành giáo cụ trực quan trong quá trình giảng dạy môn công nghệ nói chung và môn công nghệ 6 nói riêng.
Đồ dùng dạy học có một vai trò hết sức quan trọng. Mỗi người giáo viên cần biết cách tận dụng những đồ dùng thiết bị sẵn có và khai thác triệt để yếu tố con người và đồ vật xung quanh thì việc chuẩn bị đồ dùng thiết bị dạy học trở nên hết sức đơn giản, dễ làm nhưng lại có hiệu quả cao.
II -THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1- Thực trạng chung.
 	Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn công nghệ của trường qua điều tra, khảo sát trong những năm học gần đây bản thân tôi nhận thấy về đồ dùng thiết bị dùng cho giảng dạy môn công nghệ nói chung và môn công nghệ 6 nói riêng đang gặp phải một thực trạng như sau:
- Phòng học bộ môn ở một số trường chưa được đầu tư nên rất khó khăn cho giáo viên trong công tác thực hành thí nghiệm.
- Việc bảo quản, bảo dưỡng một số thiết bị ở phòng thiết bị chưa được 
quan tâm nên một số đồ dùng dạy học xuống cấp một cách nghiêm trọng.
- Đồ dùng dạy học được ngành cấp theo danh mục còn thiếu, thậm chí có những thí nghiệm trong sách giáo khoa công nghệ THCS hiện nay không có đồ dùng dạy học, phần lớn tranh ảnh minh họa cho các bài học không có.
- Đồ dùng dạy học kém chất lượng, có những đồ dùng dạy học chỉ sử dụng được một vài lần các lần sau không sử dụng được.
Ví dụ: 
Ở chương trình công nghệ lớp 6 bộ đồ dùng cho phần thực hành cắt may đã được cấp nhưng hiện nay đã cũ và ôxi hóa nên không dùng được, phần thực hành trang trí nhà ở và nấu ăn trong gia đình hầu như không có thiết bị, đồ dùng để sử dụng cho bài học.
2- Thực trạng tại trường THCS Nga Thạch.
2.1. Thuận lợi.
Về phía địa phương: Tình hình kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng đã có nhiều tiến bộ và ảnh hưởng tốt đến việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục trên địa bàn toàn xã, công tác xã hội hóa giáo dục được Đảng, chính quyền và các đoàn thể luôn quan tâm đặc biệt là xây dựng cơ sở vật chất trường học như: Xây dựng các phòng chức năng, phòng máy vi tính tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học.
Về phía nhà trường: Ban giám hiệu và tổ chuyên môn luôn phân công chuyên môn đúng người, đúng việc, tạo điều kiện và động viên khuyến khích giáo viên không ngừng đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng bộ môn.
Nhà trường đã có giáo viên được cử làm công tác thiết bị riêng nên cũng góp
phần thuận lợi cho việc chuẩn bị phương tiện, thiết bị cho các bài học. 
Về phía bản thân: Là một giáo viên trẻ được đào tạo đúng chuyên môn, tâm huyết với nghề, không ngừng học hỏi, tự học và rèn luyện để ngày càng có thêm những phương pháp dạy học tích cực phù hợp từng kiểu bài và đối tượng học sinh.
Về phía học sinh: Học sinh hầu hết là con em nông thôn rất chăm chỉ và ngoan ngoãn, các em sớm được làm quen với các hoạt động lao động chân tay với thực tiễn sản xuất nên rất gần gũi với những mẫu vật được dùng cho nhiều bài dạy môn công nghệ.
2.2- Khó khăn:
 Các em học sinh hầu hết bố mẹ đi làm ăn xa sự quan tâm thường xuyên đến 
việc học tập của học sinh còn hạn chế.
Một số giáo viên và học sinh khi gặp phải khi thiếu phương tiện thiết bị phục 
vụ cho việc dạy và học còn ngại khó, nên thường dẫn đến những tồn tại sau: 
- Đồ dùng thiết bị cho mỗi tiết học, bài học chưa phong phú,chưa hấp dẫn nên chưa thể hiện được tính trực quan trong việc dạy và học 
- Cách thuyết phục học sinh cùng tham gia chuẩn bị thiết bị, đồ dùng của giáo viên không khéo làm cho học sinh không tự giác khi tham gia .
- Sự chuẩn bị của giáo viên chưa chu đáo, điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo, gây bị động trong khi tổ chức .
- Khen thưởng, biểu dương học sinh chưa kịp thời. Không tạo ra sự công bằng làm cho học sinh thiếu tin tưởng về giáo viên, sẽ làm hạn chế không khí thi đua sôi nổi, hào hứng .
2. 3. Kết quả của thực trạng trên.
 	Từ thực trạng trên cuối năm học 2015-2016 tôi đã điều tra tâm lí và chất lượng học tập của học sinh khối 6 như sau:
Phiếu trắc nghiệm tâm lí
 Đánh dấu "X" vào ô trống trước ý em cho là đúng.
a) Khi được phân công chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho môn Công nghệ em có muốn làm không?
 Có  Không 
b) Việc chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho giờ học Công nghệ là:
 Việc làm của giáo viên.
 Việc làm của học sinh.
 Việc làm của cả giáo viên và học sinh
Kết quả thu được từ phiếu trắc nghiệm cuối năm học 2015-2016 của học sinh khối 6 như sau:
Nội dung
Kết quả
Lớp 6A
Lớp 6B
SL
%
SL
%
a
Thích tham gia chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho môn Công nghệ
11
42.3
10
40
Không thích tham gia chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho môn Công nghệ
15
57.7
15
60
b
Việc làm của giáo viên
17
65.4
15
60
Việc làm của học sinh
5
19.2
5
20
Việc làm của cả giáo viên và học sinh
4
15.4
5
20
Kết quả thống kê về thiết bị - đồ dùng dạy học của khối 6 có trong phòng thiết bị đồ dùng của nhà trường cuối năm học 2015-2016 như sau:
Số tiết Khối 6
Số tiết dạy có đủ TB - ĐDDH
Số tiết dạy chưa đủ TB - ĐDDH
Số tiết dạy không có TB - ĐDDH
SL
%
SL
%
SL
%
70
0
0
6
8.6
64
91.4
Với kết quả như trên nếu chúng ta chỉ biết sử dụng những thiết bị đồ dùng sẵn có hoặc một mình giáo viên chuẩn bị theo tôi khó có thể khắc phục được hiện tượng dạy chay hoặc học sinh chỉ được quan sát qua bộ mẫu của giáo viên mà nguyên nhân là do cả khách quan và chủ quan đem tới. Song một điều tôi có thể khẳng định đó là chúng ta có thể khắc phục được nếu chúng ta biết huy động sức mạnh của số đông học sinh tham gia chuẩn bị đồ dùng học tập cùng với giáo viên.
Trong quá trình dạy học môn công nghệ tôi nhận ra rằng với đặc thù của bộ môn là gắn liền với kĩ thuật với thực tiễn sản xuất nhiều thiết bị đồ dùng dạy học không thể chuẩn bị sẵn như vật liệu cắm hoa, rau, củ, quả cho phần nấu ăn .vì thế nếu chỉ phụ thuộc những (TB - ĐDDH) sẵn có trong kho TB-ĐDDH của nhà trường thì không bao giờ đủ được mà phải làm thế nào để động viên, khuyến khích được học sinh cùng tham gia thì vấn đề về thiếu TB-ĐDDH phục vụ cho môn học không còn là gánh nặng của giáo viên nữa. Từ những lí do trên nên tôi quyết tâm chọn đề tài “Khuyến khích học sinh cùng chuẩn bị đồ dùng học tập làm tăng tính trực quan cho giờ học ở môn Công Nghệ 6 Trường THCS Nga Thạch -Huyện Nga Sơn". để nghiên cứu và thực hiện. Vì đối tượng học sinh lớp 6 là các em mới từ bậc tiểu học lên, các em chưa quen với môi trường học tập mới trong đó có việc tham gia chuẩn bị đồ dùng học tập nên chúng ta cần tập trung để hướng dẫn các em tham gia vào các hoạt động học tập ở bậc THCS, để tạo thói quen cho các em trong những năm học tiếp theo.
III. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. GIẢI PHÁP:
Môn Công nghệ là môn học gắn liền với kỹ thuật, với thực tiễn sản xuất, thì việc giáo viên sử dụng vật mẫu thật, tranh ảnh, mô hình,. vừa có tác dụng trực quan hóa các nội dung kiến thức, vừa mang tính minh họa, vừa là nguồn cung cấp tri thức quan trọng cho học sinh và giúp học sinh tham gia tích cực hơn trong giờ học. Học sinh sử dụng tốt các phương tiện trực quan, là cơ sở để hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghiên cứu khoa học cho các em, tạo điều kiện cần thiết cho học sinh khả năng tìm tòi, phát hiện kiến thức từ đó hình thành thói quen nói đi đôi với làm hạn chế hiện tượng lý thuyết suông.
Để giúp học sinh khai thác tri thức công nghệ, từ mẫu vật, vật thật hay tranh ảnh trong sách giáo khoa, thì học sinh phải có kiến thức, kỹ năng về thu thập vật mẫu, nghiên cứu tranh ảnh, mô hình. Biết quan sát, tìm và phát hiện ra kiến thức mới thông qua mẫu vật thật, tranh ảnh, mô hình...
Để làm được điều đó theo tôi cần có những giải pháp sau để khuyến khích học sinh cùng chuẩn bị TB - ĐDDH phục vụ cho môn học này:
- Giáo viên phải gương mẫu và định hướng cho học sinh trong việc chuẩn bị và sử dụng TB-ĐDDH.
- Phát huy vai trò của thiết bị đồ dùng tự chuẩn bị của học sinh, có hình thức khen chê kịp thời khoa học và biện pháp hỗ trợ kinh phí khi cần.
- Gắn liền việc chuẩn bị đồ dùng thiết bị của học sinh vào việc kiểm tra đánh giá.
2. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
2.1- Giáo viên phải gương mẫu và định hướng cho học sinh trong việc chuẩn bị và sử dụng TB-ĐDDH.
 Để làm gương và cũng là việc làm cho học sinh thấy rõ được tầm quan trọng của thiết bị đồ dùng học tập trong việc lĩnh hội kiến thức những tiết học chỉ cần thiết bị đồ dùng cho cô làm mẫu thì tôi luôn cố gắng chuẩn bị chu đáo những thiết bị đồ dùng trực quan cần thiết. Những tiết học cần có sự góp sức của học sinh thì phải dặn dò từ các tiết học trước để học sinh có thời gian chuẩn bị. Muốn việc làm này được tiến hành kịp thời ta cần phải lập kế hoạch trước khi diễn ra tiết học với thời gian nhất định theo từng loại thiết bị đồ dùng. Vì vậy bản thân là một giáo viên dạy bộ môn tôi không thể chỉ phụ thuộc vào giáo viên phụ trách thiết bị đồ dùng mà vào đầu mỗi năm học tôi luôn phối hợp với giáo viên phụ trách thiết bị kiểm kê lại số thiết bị đồ dùng có trong kho để biết được số thiết bị đồ dùng còn thiếu (do số lượng và chủng loại thiết bị đồ dùng hàng năm luôn có sự hao hụt và bổ sung) sau đó liệt kê lại cho từng tiết học trong từng học kì theo mẫu như sau:
Học kì I:
TT
Tiết
Bài
Tên bài
Thiết bị đồ dùng tự chuẩn bị
Số HS/1TBĐD
Ghi chú
1
2-3
1
Các loại vải thường dùng trong may mặc
Vải vụn các loại, băng vải nhỏ có ghi thành phần sợi dệt, bật lửa, bát để chứa nước.
Nhóm bàn
2
4-5
2
Lựa chọn trang phục
Sưu tầm tranh ảnh về trang phục
Nhóm bàn
3
8-9
4
Sử dụng và bảo quản trang phục
-Tranh ảnh về các cách phối hợp trang phục
Vòng màu để phối hợp màu sắc
-Nhóm bàn
4
10-11
5
Ôn một số mũi khâu cơ bản
Hai mảnh vải hình chữ nhật có kích thước 8cm x 15cm và một mảnh vải có kích thước 
10 cm x 15cm, chỉ thêu, chỉ khâu, kim khâu, kéo, thước, bút chì.
1học sinh /1bộ
5
12-14
6
Thực hành: Cắt khâu bao tay trẻ sơ sinh
Hai mảnh vải có kích thước 11cm x 13cm, dây chun nhỏ, kim, chỉ, kéo, thước, bìa mỏng 10cm x 13cm.
1học sinh /1bộ
6
18
Kiểm tra thực hành
Học sinh chuẩn bị tương tự như tiết 12-14 
1học sinh /1bộ
7
21-22
9
Thực hành: Sắp xếp đồ đạc hợp lí trong nhà ở
Sơ đồ phòng ở 2.5 x 4 thu nhỏ, sơ đồ một số đồ đạc hoặc mô hình
Nhóm 6 học sinh/ 1 bộ
8
23
10
Giữ gìn nhà ở sạch sẽ ngăn nắp
Sưu tầm tranh ảnh về nhà ở sạch sẽ ngăn nắp và nhà ở lộn xộn thiếu vệ sinh
-Nhóm bàn
9
24-25
11
Trang trí nhà ở bằng một số đồ vật
Sưu tầm tranh ảnh về trang trí nhà ở bằng tranh ảnh, gương, rèm, mành.
-Nhóm bàn
10
27-28
12
Trang trí nhà ở bằng cây cảnh và hoa
- Tranh ảnh sưu tầm
- Mẫu hoa tươi, hoa khô, hoa giả.
Nhóm 6 học sinh/ 1 bộ
11
29-30
13
Cắm hoa trang trí
-Một số hình ảnh về cắm hoa đúng và sai để học sinh so sánh.
- Sưu tầm tranh ảnh về các kiểu cắm hoa và vị trí trang trí
-Giáo viên
- Nhóm bàn
12
31-34
14
Thực hành: Cắm hoa
- Tranh vẽ sơ đồ cắm hoa và mẫu cắm hoa theo nội dung từng tiết học.
- Vật liệu cắm hoa, dụng cụ cắm hoa
- Giáo viên
- Nhóm 6 học sinh/ 1 bộ
Học kì II và các khối khác ta cũng làm tương tự. Từ đó ta đưa ra kế hoạch chuẩn bị cho bản thân và học sinh một cách kịp thời.
Trong quá trình giảng dạy khi sử dụng đến thiết bị đồ dùng nào tôi luôn lồng 
ghép để giải thích cho học sinh hiểu được nguồn gốc của các thiết bị đồ dùng đó, nhằm mục đích gợi ý cho các em biết cách tự chuẩn bị khi được yêu cầu.
- Những thiết bị đồ dùng có sẵn ở kho thiết bị đồ dùng ta phải đăng kí vào mẫu phiếu đăng kí từ thứ 7 tuần trước để cán bộ phụ trách thiết bị đồ dùng chuẩn bị.
- Những thiết bị đồ dùng chưa có tôi đã phải tận dụng những phương tiện dễ tìm từ gia đình, địa phương, hay có thể tự làm, với mỗi loại ta cần phải có những phương pháp sưu tầm khác nhau như:
+ Đối với những thiết bị đồ dùng thuộc nhóm vật thật: Các đồ dùng sinh hoạt như quần áo, vải, kim chỉ, các loại rau, củ, quả, hoa, thì ta có thể dùng trực tiếp bằng những mẫu vật sẵn có.
+ Đối với những thiết bị đồ dùng thuộc nhóm tranh ảnh: Dùng minh họa cho phần may mặc, trang trí nhà ở, nấu ăn trong gia đình, Ta có thể sưu tầm từ báo chí, chụp, in bạt hoặc tự vẽ.
+ Đặc biệt với sự hỗ trợ đắc lực của máy tính và máy chiếu đa năng ta có thể đưa ra được nhiều kênh hình thay thế cho một số thiết bị đồ dùng nhất là đối với những thiết bị đồ dùng khó hoặc không thể chuẩn bị được như quy trình sản xuất các loại vải trong may mặc, trang phục lễ hội ,lễ tân ở các vùng miền, những hình ảnh trang trí nhà ở bằng cây cảnh và hoa hay bằng một số đồ vật chúng ta dễ dàng khai thác trên Internet và được thiết kế trình chiếu bằng giáo án điện tử trên phần mềm powerpoint.
Từ cách làm trên học sinh sẽ nhận thức được phương tiện - đồ dùng dạy học giúp cho các em tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi, làm cho hoạt động nhận thức của các em trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn, tạo ra cho các em những tình cảm tốt đẹp với môn học. Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học sinh tăng dần theo các cấp độ của tri giác: Nghe-thấy-làm được (những gì nghe được không bằng những gì nhìn thấy và những gì nhìn thấy thì không bằng những gì tự tay làm), nên khi có bài học cần sự góp sức của học sinh để có đủ thiết bị đồ dùng học tập, giáo viên cần khuyến khích, động viên, kích thích óc tìm tòi, quan sát, tạo hứng thú trong việc tìm kiến thức thông qua chuẩn bị vật mẫu thật, tranh ảnh hay tư liệu cho tiết học bằng cách:
+ Cuối tiết học trước nên dành ra khoảng thời gian từ 3-5 phút đối với bài lí thuyết, 5-7 phút đối với bài thực hành để giới thiệu chủ đề cho tiết học sắp tới. Cung cấp cho các em các gợi ý cần thiết để các em vận dụng trong sưu tầm hoặc lựa chọn vật mẫu phù hợp bài học. Sau đó yêu cầu các nhóm cùng bàn bạc để nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên và thư kí ghi vào phiếu phân công nhiệm vụ của nhóm, các nhóm này giáo viên cần phân công đều các đối tượng trong một nhóm từ đầu năm học.
Ví dụ: Đối với bài thực hành tiết 58-59 bài 24: “ Tỉa hoa trang trí món ăn từ một số loại rau, củ, quả” học sinh sẽ phân công theo mẫu bảng sau: 
Tên thành viên
Dụng cụ
Nguyên liệu
Số lượng
Yêu cầu kĩ thuật
Ghi chú
Phiếu phân công chuẩn bị đồ dùng học tập của học sinh tổ 1 lớp 6B
(Phiếu phân công chuẩn bị đồ dùng học tập của học sinh tổ 1 lớp 6B)
Học sinh lớp 6B đang thực hành món nộm 
 (Kết quả của các em đạt được sau bài thực hành)
+ Nêu cụ thể một số thiết bị đồ dùng cần tìm hiểu theo sách giáo khoa hoặc theo ý kiến cá nhân học sinh nhưng phù hợp chủ đề sắp học.
+ Yêu cầu các em nắm được đặc điểm của mỗi loại qua quan sát thực tế, nghiên cứu sách giáo khoa, qua hoạt động nhóm và thông tin từ gia đình, bạn bè...
+ Giới thiệu hình ảnh hay tiêu bản vật mẫu mà giáo viên hoặc học sinh các khối đã hoàn thành để làm gương cho các em chủ động trong việc tìm hiểu và sưu tầm.
Một số đồ dùng tự làm của học sinh khối 8 lưu trong phòng thiết bị nhà trường
(Cho các em quan sát một số đồ dùng tự làm của học sinh khối 8 lưu trong phòng thiết bị nhà trường)
2. 2- Phát huy vai trò thiết bị đồ dùng tự chuẩn bị của học sinh trong các tiết dạy, có hình thức khen chê kịp thời khoa học và biện pháp hỗ trợ kinh phí khi cần.
- Trong mỗi giờ học lí thuyết giáo viên chú ý tối đa tới việc sử dụng có hiệu quả các vật mẫu, các giáo cụ trực quan, đưa vật mẫu vào đúng lúc, đúng nội dung của bài học để học sinh thấy được sự đóng góp của mình cho bài học và tạo sự hứng thú, sinh động trong giờ học giúp học sinh biết được về các kiến thức cơ 
bản thông qua các vật mẫu thật.
Ví dụ: Khi dạy phần II: Thử nghiệm để phân biệt một số loại vải của bài “ Các loại vải thường dùng trong may mặc” Ở tiết trước giáo viên cần hướng dẫn học sinh sưu tầm, tìm được các mẫu vải nhỏ để có mẫu vật cho các em thực hiện theo nhóm 2 bàn các thao tác vò, đốt các loại vải đã chuẩn bị từ đó phân biệt được vải sợi thiên nhiên, vải sợi hóa học và vải sợi pha.
- Trong các tiết học học sinh chuẩn bị tốt đồ dùng, thiết bị 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_khuyen_khich_hoc_sinh_cung_chuan_bi_do_dung_hoc_tap_lam.doc